Chương 36
Bổn phận công dân cao cả của bồi thẩm đoàn đã nhanh chóng trở thành chuyện xưa cũ. Đêm thứ hai ở Temple Inn đã chứng kiến các điện thoại bị tháo đi theo lệnh của thẩm phán. Một số tờ tạp chí cũ do thư viện Clanton hiến tặng được phát hành nhưng nhanh chóng bị vứt bỏ. Có rất ít sự quan tâm trong nhóm đối với các tờ The New Yorker, The Smithsonian, và Architechtural Digest.
“Có tờ Penthouse nào không?” Clyde Sisco rỉ tai chấp hành viên khi ông đi quanh phân phát. Ông nói không, nhưng hứa rằng sẽ xem thử mình có thể làm được gì.
Bị gò bó trong những căn phòng không truyền hình, nhật báo và điện thoại, họ chẳng biết làm gì ngoài việc chơi bài và trò chuyện về phiên tòa. Cuốc đi đến cuối hành lang để lấy đá và nước ngọt trở thành một dịp đặc biệt mà những người cùng phòng lên kế hoạch và luân phiên nhau. Sự chán chường trĩu nặng. Ở mỗi đầu hành lang đều có hai người lính canh giữ màn đêm và sự cô độc. Sự bất động chỉ bị ngắt quãng bởi sự xuất hiện có hệ thống của các bồi thẩm mang theo tiền lẻ để mua nước uống từ máy tự động.
Giờ ngủ đến rất sớm, và khi lính gác đến gõ cửa vào lúc sáu giờ sá thì các bồi thẩm đều đã thức dậy, một số người thậm chí còn mặc sẵn trang phục. Họ ngốn ngấu bữa điểm tâm ngày thứ Năm gồm bánh kếp và xúc xích, rồi háo hức leo lên chiếc Greyhound vào lúc tám giờ cho chuyến đi trở về tòa.
Ngày thứ tư liên tiếp, phòng tròn đông nghẹt người vào lúc tám giờ. Lúc tám giờ ba mươi, những người dự khán được thông báo tất cả các ghế ngồi đã bị chiếm. Prather mở cửa và đám đông chầm chậm xếp hàng đi qua chiếc cổng dò kim loại, thoát khỏi những cặp mắt dè chừng của cảnh sát và cuối cùng vào được phòng xử, nơi những người da đen dàn hàng ở bên trái và những người da trắng dàn hàng ở bên phải. Hàng ghế đầu một lần nữa được Hastings giữ lại cho Gwen, Lester, lũ trẻ và những người họ hàng khác. Agee và các thành viên của Hội đồng ngồi ở dãy thứ hai cùng những người họ hàng không lên được dãy đầu. Agee luân phiên phụ trách làm bổn phận ở phòng xử lẫn làm bổn phận đối với các mục sư trong cuộc biểu tình bên ngoài. Cá nhân ông thích làm bổn phận trong phòng xử hơn vì nơi đó an toàn hơn, nhưng quả thực ông cũng nhớ các camera và những phóng viên đông đúc đến vậy ở thảm cỏ trước tòa. Bên phải ông, tức phía bên kia lối đi, là nơi gia đình và bạn bè các nạn nhân ngồi. Đến lúc này họ vẫn cư xử tốt.
Vài phút trước chín giờ, Carl Lee được áp tải ra ngoài từ phòng chờ nhỏ. Chiếc còng đã được tháo bởi một trong rất nhiều cảnh sát bao quanh ông. Ông nở một nụ cười rộng với gia đình rồi ngồi vào chiếc ghế của ông. Chấp hành viên ló đầu qua cánh cửa cạnh khoang bồi thẩm. Hài lòng với những gì mình thấy, ông mở cửa ra, thả các bồi thẩm để họ đi vào những chiếc ghế đã ấn định cho họ. Ông Pate quan sát tất cả những điều này từ cánh cửa dẫn đến phòng thẩm phán, và khi mọi thứ đều hoàn hảo, ông bước lên phía trước và hô lớn: “Tất cả đứng dậy chào Tòa!”
Khoác chiếc váy đen nhăn nhúm và bạc màu mà mình yêu thích, Ichabod nhảy vào ghế thẩm phán rồi bảo mọi người ngồi vào chỗ.
Ông chào đón bồi thẩm đoàn và hỏi họ có điều gì xảy ra hoặc không xảy ra kể từ lúc hoãn tòa hôm qua không.
Ông nhìn các luật sư. “Ông Musgrove đâu rồi?”
“Ông ấy đến trễ một chút, thưa Ngài” Buckley tuyên bố.
“Mời nhân chứng kế tiếp của ông đi,” Noose lệnh cho Buckley. Nhà bệnh lý học từ phòng thí nghiệm hình sự của bang vào phòng xử từ phòng tròn. Thông thường, ông sẽ quá bận rộn nếu là một phiên tòa giản đơn và sẽ gửi một trong các thuộc cấp của ông đến để giải thích với bồi thẩm đoàn chính xác điều gì đã giết chết Cobb và Willard. Nhưng đây là vụ việc Hailey, và ông cảm thấy mình bắt buộc phải thân chinh đến làm việc. Thật ra đây là một vụ việc giản đơn nhất mà lâu nay ông mới gặp. Các thi thể được phát hiện lúc đang chết, vũ khí nằm ngay bên cạnh xác, và có đủ lỗ đạn trên người các gã này để giết họ đến một chục lần. Tất cả mọi người trên thế gian đều biết các gã này bị giết như thế nào. Nhưng ông D.A. đã một mực đòi một sự đánh giá tâm thần thấu suốt nhất, cho nên ông bác sĩ mới phải bước lên bục vào sáng thứ Năm, cầm theo những tấm ảnh xét nghiệm tử thi và những biểu đồ giải phẫu nhiều màu sắc.
Trước đó, trong phòng thẩm phán, Jake đã đề xuất đồng ý các nguyên nhân gây tử vong, nhưng Buckley không chịu. “Không được đâu, thưa Ngài.” Ông ta muốn bồi thẩm đoàn phải nghe và biết họ chết như thế nào.
“Chúng tôi sẽ thừa nhận họ chết vì nhiều vết thương do đạn bắn ra từ khẩu M-16,” Jake nêu rõ.
“Không, thưa Ngài. Tôi có quyền được chứng minh điều đó” Buckley ương ngạnh nói.
“Nhưng ông ta đang đề xuất đồng ý các nguyên nhân gây tử vong kia mà,” Noose nghi hoặc nói.
“Tôi có quyền được chứng minh điều đó,” Buckley vẫn khăng khăng.
Cho nên ông ta đã được chứng minh. Một sự hủy diệt kinh điển của bên nguyên, Buckley đã chứng minh điều đó. Trong ba tiếng đồng hồ, nhà bệnh lý học nói về việc Cobb bị trúng bao nhiêu viên đạn, Willard trúng bao nhiêu viên đạn, mỗi viên đạn gây ra điều gì khi đi sâu vào cơ thể và gây ra những tổn hại khủng khiếp sau đó. Các biểu đồ giải phẫu được đặt lên những chiếc giá trước mặt bởi thẩm đoàn. Vị chuyên gia lấy ra một viên nhựa có đánh số tượng trưng cho viên đạn, rồi chầm chậm di chuyển nó qua cơ thể. Mười bốn viên nhựa cho Cobb và mười một cho Willard. Buckley hỏi một câu, gợi ý một câu trả lời, rồi ngắt lời để bài bác một điểm.
“Thưa Ngài, chúng tôi sẽ rất mừng nếu được đồng ý các nguyên nhân gây tử vong” cứ sau mỗi mười lăm phút Jake lại nói câu đó để rồi lại thất vọng tràn trề.
“Chúng tôi không đồng ý,” Buckley cộc cằn nói rồi di chuyển viên nhựa kế tiếp.
Jake buông mình xuống ghế, lắc đầu nhìn các bồi thẩm, những người hãy còn thức.
Ông bác sĩ kết thúc vào buổi trưa. Mệt mỏi, tê dại và chán ngấy, Noose ban thưởng đến hai giờ nghỉ ăn trưa. Các bồi thẩm được chấp hành viên đánh thức và đưa vào phòng của họ, nơi họ ăn món thịt nướng phục vụ trong đĩa nhựa, rồi túm tụm vào chơi bài. Họ đã bị cấm không được rời khỏi tòa.
Trong mọi thị trấn nhỏ miền nam đều có một nhóc tì sinh ra đã biết kiếm tiền nhanh. Cậu là một đứa bé mà từ lúc năm tuổi đã dựng gian bán nước chanh đầu tiên trên con đường nhà mình và chém đến hai mươi lăm xu cho mỗi ly nước hương vị nhân tạo. Cậu biết nó ngon tuyệt, nhưng cậu cũng biết người lớn cho là cậu đáng yêu. Cậu là đứa nhóc đầu tiên trên con đường đã mua một chiếc máy xén cỏ tại Western Auto; đã đến gõ cửa các ngôi nhà từ tháng Hai để xin dọn dẹp vườn tược cho mùa hè. Cậu là đứa nhóc đầu tiên tự trả tiền để mua chiếc xe đạp mà cậu dùng để đi giao báo vào buổi sáng và buổi chiều. Cậu bán thiệp Giáng sinh cho các bà cụ vào tháng Tám. Cậu bán bánh trái cây giao đến từng nhà vào tháng Mười một. Vào các sáng thứ Bảy, khi bạn bè còn mải mê xem phim hoạt hình, cậu ra chợ trời gần tòa án để bán đậu phộng chiên và xúc xích rán. Ở tuổi mười hai, cậu đã mua chứng chỉ tiền gửi đầu tiên và đã có người giao dịch ngân hàng của riêng mình. Ở tuổi mười lăm, cậu đã mua bằng tiền mặt một chiếc bán tải mới cùng ngày mà cậu vượt qua cuộc thi lấy bằng lái. Cậu mua một xe kéo để gắn vào chiếc bán tải và chất thiết bị xén cỏ lên đó. Cậu bán áo thun tại các trận bóng bầu dục của trường trung học. Cậu là một người giàu nghị lực, một triệu phú tương lai.
Ở Clanton, tên của cậu là Hinky Myrick, mười sáu tuổi. Cậu sốt ruột đứng chờ ở phòng tròn cho đến khi Noose cho giải lao để ăn trưa, rồi len qua các cảnh sát để chui vào phòng xử. Chỗ ngồi là thứ quý giá đến mức hầu như không một người dự khán nào bỏ đi ăn trưa. Một số người đứng nhìn những người bên cạnh, trỏ ngón tay vào ghế ngồi của họ để đảm bảo mọi người đều biết đó là chỗ của họ cho đến hết hôm nay, sau đó mới vào phòng vệ sinh. Nhưng hầu hết đều ngồi lại cái không gian cực kỳ quý báu của họ trên băng ghế và nhịn đói qua bữa.
Hinky đánh hơi được cơ hội. Cậu cảm thấy mọi người có nhu cầu. Thứ Năm, cũng giống như hôm thứ Tư, cậu đẩy chiếc xe bán hàng dọc lối đi ra phía trước phòng xử. Chiếc xe chất đủ loại sandwich và xuất ăn trưa đựng trong hộp nhựa. Cậu bắt đầu rao đến đầu bên xa của các dãy ghế, rồi nhờ khách hàng của mình chuyền thức ăn xuống. Cậu từ từ luồn lách đến mặt sau của phòng xử. Cậu là một tay đầu cơ gian hùng. Một đĩa salad cá hồi và bánh mì trắng có giá hai đô la; vốn của cậu là tám mươi xu. Một suất thịt gà nguội và vài hạt đậu có giá ba đô la; vốn của cậu là một đô la hai mươi lăm xu. Nhưng họ vẫn vui vẻ trả số tiền mà cậu nêu ra và giữ được chỗ ngồi của họ. Cậu bán sạch trước khi đi đến dãy thứ tư và bắt đầu nhận đặt hàng từ những người còn lại trong phòng xử. Hinky là nhân vật của thời khắc đó.
Với hàng đống đặt hàng, cậu chạy khỏi tòa án, băng qua thảm cỏ, băng qua đám đông da đen, qua đường Caffey và đến quán của Claude. Cậu chạy vào bếp, chìa tờ bạc hai mươi đô la cho đầu bếp rồi trao cho ông ta tờ đặt hàng. Cậu đứng chờ và canh đồng hồ. Ông đầu bếp chuyển động chậm chạp. Cậu bèn chìa cho ông thêm một tờ hai mươi đô la nữa.
Phiên tòa đã mở ra một làn sóng thịnh vượng mà Claude chưa bao giờ dám mơ tưởng. Điểm tâm và bữa trưa trong quán cà phê nhỏ của ông trở thành những biến cố khi nhu cầu vượt xa lắc số lượng ghế ngồi và những người bụng đói phải xếp hàng trên vỉa hè trong nắng nóng và khói mù để chờ lấy bàn. Sau khi ăn bữa trưa hôm thứ Hai, ông đảo quanh Clanton, mua hết các bàn xếp và các ghế phù hợp mà ông tìm được. Đến bữa trưa hôm sau thì các lối đi trong quán biến mất, buộc các cô phục vụ phải xoay xở linh hoạt giữa những hàng người, hầu hết là da đen.
Phiên tòa là chủ đề duy nhất trong các cuộc trò chuyện. Hôm thứ Tư, thành phần bồi thẩm đoàn đã bị lên án gay gắt. Đến thứ Năm, các thảo luận tập trung vào mối ác cảm đang gia tăng đối với viên công tố.
“Tôi nghe nói hắn muốn vận động chức thống đốc.”
“Hắn là Dân chủ hay Cộng hòa vậy?”
“Không có lá phiếu của người da đen, hắn không thắng nổi đâu, ở bang này thì đừng hòng.”
“Ừ, sau phiên tòa này hắn khó mà có được nhiều phiếu da đen.”
“Hắn cứ thử thì biết.”
“Hắn hành động cứ như đám Cộng hòa vậy.”
Tại Clanton trước phiên tòa, buổi trưa bắt đầu vào mười hai giờ kém mười, lúc mà các cô thư ký trẻ trung, rám nắng, xinh đẹp, xiêm y tươi tắn từ các ngân hàng, văn phòng luật, đại lý bảo hiểm và từ tòa án rời khỏi bàn làm việc của họ và đổ ra vỉa hè. Trong khi bữa trưa diễn ra, họ đi lang thang quanh quảng trường. Họ đến bưu điện. Họ tiến hành các giao dịch ngân hàng. Họ mua sắm. Hầu hết đều mua thức ăn ở quán Chinese Deli và ăn trên các băng ghế công viên dưới bóng các ngọn cây quanh tòa. Họ gặp bạn bè và tán gẫu. Buổi trưa, chiếc chòi ở mặt trước tòa án thu hút nhiều cô gái xinh đẹp còn hơn cả cuộc thi hoa hậu Mississippi. Theo một luật bất thành văn ở Clanton, một cô gái văn phòng ở quảng trường sẽ được ưu ái bữa trưa và không cần phải trả tiền cho đến một giờ. Cách đàn ông theo chân họ vào quán lúc mười hai giờ để ngắm nghía các cô gái.
Nhưng phiên tòa đã làm thay đổi nhiều điều. Các ngọn cây phủ bóng mát nay nằm trong khu vực chiến sự. Từ mười một giờ đến một giờ, các quán cà phê đều chật cứng các binh lính và người lạ, những người không tìm được chỗ ngồi trong phòng xử. Quán Chinese Deli đầy ắp những người lạ. Các cô gái văn phòng thôi lang thang và ở lại ăn trưa tại bàn làm việc của họ.
Tại Tea Shoppee, giới ngân hàng và các cổ cồn trắng bàn luận nhiều hơn về sự nổi tiếng của phiên tòa và cách mà thị trấn nhìn nhận về nó. Mối quan tâm đặc biệt là Klan. Không một khách hàng nào biết ai đó có liên hệ với Klan. Chúng từ lâu đã bị quên lãng ở Mississippi. Nhưng những con kền kền thì lại thích những bộ váy trắng, và theo như hiểu biết của thế giới bên ngoài thì Clanton, Mississippi, đã từng là mái nhà của Ku Klux Klan. Họ thù hận Klan vì nó đã đến đây. Họ nguyền rủa báo chí vì đã giữ nó lại ở đây.
Bữa trưa ngày thứ Năm, Coffee Shop phục vụ món đặc biệt trong ngày là sườn heo chiên đồng quê, củ cải xanh, và một trong ba món: khoai mỡ tẩm đường, hoặc ngũ cốc ăn với kem, hoặc mướp tây chiên. Dell phục vụ các món đặc biệt trong cái quán chật cứng, chia đồng đều giữa dân địa phương, khách lạ, và các binh lính. Theo một luật bất thành văn nhưng đã được thiết lập vững chắc, mọi người đều tuân thủ nghiêm ngặt việc không trò chuyện với những ai để râu hay có phát âm lạ lẫm, mặc dù với những người dân hiếu khách thì thật là bất tiện nếu không tươi cười và tiếp chuyện người ngoài. Cái mím miệng kiêu ngạo từ lâu đã thay thế sự đón tiếp nồng nhiệt dành cho những khách viếng thăm trong ít ngày đầu tiên sau vụ xả súng. Có quá nhiều những kẻ săn tin đã phản bội những người tiếp đãi họ khi cho in ra những lời lẽ không tốt lành, không làm mát lòng và chẳng hề công bằng về hạt và người dân của hạt. Thật nực cười khi họ kéo đến hàng đàn từ khắp mọi nơi và chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ đã trở thành chuyên gia về cái nơi mà họ chưa bao giờ nghe đến trước đó, về những con người mà họ chưa bao giờ gặp.
Dân địa phương đã quan sát họ khi họ lê lết như đám ngố quanh quảng trường, bám theo cảnh sát trưởng, theo công tố viên, theo luật sư bào chữa, theo bất cứ ai có thể biết điều gì đó. Dân địa phương quan sát họ chờ đợi ở cửa sau của tòa án như những con sói đói để vồ lấy bị cáo, người luôn bị vây quanh bởi cảnh sát, và luôn phớt lờ họ khi họ hét vào ông ta với cùng những câu hỏi lố bịch. Dân địa phương quan sát họ với sự chán ghét khi họ chĩa camera vào các thành viên của Klan và vào những người da đen bát nháo. Họ luôn tìm kiếm những yếu tố cực đoan nhất, rồi làm cho chúng trông có vẻ giống như một chuẩn mực.
Dân địa phương quan sát họ và căm ghét họ.
“Cái thứ tào lao màu cam trên mặt họ là gì vậy?” Tim Nunley hỏi khi nhìn người phóng viên ngồi trong một khoang gần cửa sổ. Jack Jones nhai lạo xạo món mướp tây của anh và ngắm nghía khuôn mặt cam.
“Tôi nghĩ là thứ gì đó dùng cho camera. Làm cho khuôn mặt trông trắng trẻo hơn trên tivi.”
“Nhưng nó trắng sẵn rồi mà.”
“Tôi biết, nhưng trên tivi nó trông không trắng nếu không được tô cam.”
Nunley không thấy thuyết phục. “Vậy dân da đen thì dùng gì trên tivi?” ông hỏi.
Không ai trả lời được.
“Ông thấy cái cô trên tivi tối qua chưa?” Jack Jones hỏi.
“Chưa. Cô ta từ đâu đến vậy?”
“Kênh bốn, Memphis. Tối qua cô ta phỏng vấn mẹ của Cobb. Dĩ nhiên cô ta hỏi liên tục cho đến khi bà già ấy bật khóc. Hình ảnh họ phát trên tivi toàn là cảnh khóc lóc. Tởm thật đấy. Tối hôm trước đó, cô ta phỏng vấn vài thành viên của Klan từ Ohio nói về việc chúng ta cần gì ở Mississippi này. Cô ta là người tồi tệ nhất.”
Công tố kết thúc việc buộc tội Carl Lee vào chiều thứ Năm. Sau bữa trưa, Buckley đưa Murphy lên bục. Đó là một lời khai gây kiệt quệ và căng thẳng thần kinh bậc nhất vì người đàn ông bé nhỏ đáng thương này cứ lắp bắp không sao kiểm soát được trong suốt một giờ đồng hồ.
“Bình tĩnh lại đi, ông Murphy,” Buckley nói phải đến lần thứ một trăm.
Ông ta không bình tĩnh được và phải uống nước. Ông ta cố gật đầu xác nhận và lắc đầu phủ nhận nhiều nhất có thể. Phóng viên tòa án đã có một khoảng thời gian vất vả để nhặt nhạnh từ những cú gật đầu và lắc đầu.
“Tôi chưa hiểu,” cô ta nói, quay lưng lại bục nhân chứng. Thế là ông lại ra sức giải thích và mắc nghẽn, thường là ở các phụ âm nặng như “P” hoặc “T.” Ông thường thốt lên từ gì đó rồi lắp bắp phun nó ra một cách thiếu mạch lạc.
“Tôi không hiểu gì cả,” cô ta tuyệt vọng nói khi ông phát biểu xong. Buckley thở dài. Các bồi thẩm gà gật và đong đưa dữ dội. Một nửa số người dự khán cắn móng tay.
“Ông có thể lặp lại được không?” Buckley hỏi với tất cả sự kiên nhẫn ông có được.
“Tôi x..x..xin xin xin xin lỗi,” ông thường xuyên nói. Trông ông thật đáng thương.
Qua tất cả màn tuyên thệ đó, cuối cùng cũng xác định được rằng ông đang uống Coke ở cầu thang sau, đối diện với chiếc cầu thang nơi hai gã kia bị giết chết, thì thấy có một người đàn ông da đen ló đầu ra khỏi phòng lao công nhỏ ở cách đó mười hai mét. Nhưng ông không nghĩ ngợi nhiều về việc này. Rồi khi các gã kia bước xuống, người đàn ông da đen đơn giản bước ra, vừa khai hỏa vừa la hét và cười lớn. Khi đã ngừng bắn, ông ta quẳng khẩu súng và bỏ chạy. Phải, ông ta đang ngồi đằng kia. Cái ông da đen ấy.
Noose chùi những vết bẩn trên cặp mục kỉnh của ông trong lúc nghe Murphy nói. Khi Buckley ngồi xuống, Ngài nhìn Jake như van lơn. “Thẩm vấn chéo chứ?” ông khổ sở hỏi. Jake đứng dậy với cuốn sổ ghi chép. Phóng viên tòa án trừng trừng nhìn anh. Harry Rex khẽ huýt gió. Ellen nhắm mắt lại. Các bồi thẩm siết hai bàn tay vào nhau, chăm chú quan sát anh.
“Đừng làm thế.” Carl Lee thì thầm, giọng chắc nịch.
“Không, thưa Ngài, chúng tôi không có câu hỏi nào khác.”
“Cảm ơn ông Brigance,” Noose nói rồi hít thở trở lại.
Nhân chứng kế tiếp là sĩ quan Rady, thanh tra thuộc văn phòng cảnh sát trưởng. Ông thông báo cho bồi thẩm đoàn rằng ông tìm thấy một lon Royal Crown Cola trong phòng kho gần các cầu thang, và dấu vân tay trên lon trùng khớp với dấu vân tay của Carl Lee Hailey.
“Nó đầy hay nó cạn?” Buckley hỏi đầy nghiêm trọng.
“Nó cạn sạch.”
Ghê thật, Jake nghĩ, thì ra là ông ta khát nước. Bữa tối thịt gà của Oswald đang đợi sẵn ở quán Kennedy. Không, anh không có câu hỏi nào cho nhân chứng này.
“Chúng tôi còn một nhân chứng cuối cùng, thưa Ngài,” Buckley long trọng nói vào lúc bốn giờ chiều. “Sĩ quan DeWayne Looney.”
Looney chống nạng khập khễng bước vào phòng xử, đi thẳng đến bục nhân chứng. Ông tháo súng ra và trao lại cho ông Pate.
Buckley nhìn ông đầy hãnh diện. “Xin ông vui lòng cho biết tên, thưa ông.”
“DeWayne Looney.”
“Địa chỉ của ông?”
“Mười bốn trên sáu mươi tám đường Bennington, Clanton, Mississippi.”
“Ông bao nhiêu tuổi?”
“Ba mươi chín.”
“Ông làm việc ở đâu?”
“Văn phòng cảnh sát trưởng hạt Ford.”
“Và ông làm gì ở đó?”
“Tôi đang là điều phối viên.”
“Ông làm việc ở đâu hôm thứ Hai 20 tháng Năm?”
“Khi đó tôi là cảnh sát.”
“Ông có đang làm nhiệm vụ không?”
“Có. Tôi được phân công đưa hai nghi phạm từ nhà giam đến tòa án và trở về.”
“Hai nghi phạm này là ai?”
“Billy Ray Cobb và Pete Willard.”
“Ông cùng họ rời tòa án vào lúc mấy giờ?”
“Khoảng một giờ ba mươi, tôi nghĩ vậy.”
“Ai làm nhiệm vụ cùng ông?”
“Marshall Prather. Anh ta và tôi chịu trách nhiệm áp tải hai nghi phạm. Có vài cảnh sát khác trong phòng xử cũng hỗ trợ chúng tôi, và chúng tôi có hai, ba người chờ sẵn ở bên ngoài. Nhưng tôi và Marshall là những người chịu trách nhiệm.”
“Chuyện gì đã xảy ra khi kết thúc phiên sơ bộ?”
“Chúng tôi lập tức còng tay Cobb và Willard rồi đưa họ ra khỏi nơi đây. Chúng tôi đưa họ vào căn phòng nhỏ đằng kia rồi chờ vài giây, và Prather đi xuống cầu thang.”
“Rồi chuyện gì xảy ra?”
“Chúng tôi bắt đầu xuống cầu thang. Cobb đi trước, rồi đến Willard, sau đó là tôi. Như tôi nói, Prather đã đi xuống rồi. Anh ta đã ra cửa.”
“Vâng, thưa ông. Rồi chuyện gì xảy ra?”
“Khi Cobb xuống đến gần chân cầu thang thì vụ xả súng bắt đầu. Tôi đang ở chiếu nghỉ, chuẩn bị bước xuống. Thoạt đầu, trong giây đầu, tôi chẳng thấy ai cả, rồi tôi thấy ông Hailey cầm súng bắn xối xả. Cobb bị hất ngược vào Willard và cả hai la hét ngã đè lên nhau, cố chạy ngược về phía tôi đang đứng.”
“Vâng, thưa ông. Xin hãy mô tả ông thấy gì.”
“Có thể nghe tiếng đạn dội ngược từ các bức tường, văng tung tóe. Đó là khẩu súng nổ to nhất mà tôi từng nghe thấy và có vẻ như ông ta bắn mãi mà không bao giờ dứt. Các gã kia quằn quại, vùng vẫy, la hét và kêu ré lên. Họ đang bị còng, ông biết đấy.”
“Vâng, thưa ông. Điều gì đã xảy ra cho ông?”
“Như tôi đã nói, tôi chưa bước qua được chiếu nghỉ. Tôi nghĩ một trong các viên đạn đã nẩy lên tường, văng trúng vào chân tôi. Tôi đang cố chạy ngược lên gác thì cảm thấy chân bị bỏng ran.”
“Và chân ông bị làm sao?”
“Họ đã cưa nó. Ngay dưới đầu gối” Looney trả lời tỉnh khô, như thể cưa chân là một việc tháng nào cũng có.
“Ông nhìn thấy rõ người đàn ông cầm súng chứ?”
“Vâng, thưa ông.”
“Ông có thể xác định người đó trước bồi thẩm đoàn không?”
“Vâng, thưa ông. Đó là ông Hailey, người đàn ông ngồi đằng kia.” Câu trả lời này lẽ ra là thời điểm hợp lý để kết thúc phần tuyên thệ của Looney. Ông ta ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, tạo được thiện cảm, tích cực trong nhận dạng. Bồi thẩm đoàn đã lắng nghe từng lời. Nhưng Buckley và Musgrove đã lôi ra các bức sơ đồ lớn của tòa án và bố trí chúng phía trước các bồi thẩm để Looney có thể khập khiễng đi đến đó trong một lúc. Theo chỉ đạo của Buckley, ông vạch lại sự chuyển động chính xác của từng người trước vụ xả súng.
Jake xoa trán và bứt sống mũi. Noose lau đi lau lại cặp mục kỉnh của ông. Các bồi thẩm xôn xao.
“Có thẩm vấn chéo không, ông Brigance?” Cuối cùng, Noose hỏi.
“Chỉ vài câu thôi,” Jake nói khi Musgrove dọn dẹp những thứ bày bừa.
“Sĩ quan Looney, Carl Lee nhìn vào ai khi ông ta xả súng?”
“Nhìn các gã đó, theo như tôi biết.”
“Có lúc nào ông ta nhìn ông không?”
“Vâng, thì, tôi không có nhiều thời gian để tiếp xúc qua mắt với ông ta. Thật ra tôi đang di chuyển theo hướng ngược lại.
“Vậy là ông ta không nhắm vào ông?”
“Ồ không, thưa ông. Ông ta chỉ nhắm vào hai gã kia thôi. Và bắn họ nữa.”
“Ông ta làm gì trong khi bắn?”
“Ông ta chỉ la hét và cười như một gã mất trí. Đó là những âm thanh kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe, cứ như ông ta bị điên hay sao đó. Ông biết đấy, tất cả những âm thanh đó là điều mà tôi không bao giờ quên được. Tiếng súng bắn, tiếng đạn rít, tiếng mấy gã kia la hét khi bị trúng đạn, trên hết là cái tiếng cười điên loạn của ông ta.”
Câu trả lời hoàn hảo đến mức Jake phải cố ngăn nụ cười. Anh và Looney đã tập dợt hàng trăm lần, và đó là một màn trình diễn tuyệt đẹp. Mọi câu hỏi đều hoàn hảo. Jake bận rộn lật giở cuốn sổ ghi chép rồi liếc nhìn bồi thẩm đoàn. Tất cả họ đang chăm chú nhìn Looney, bị thôi miên bởi câu trả lời của ông. Jake nguệch ngoạc ghi gì đó, bất cứ gì, không gì cả, chỉ là để giết thêm vài giây trước những câu hỏi quan trọng nhất của phiên tòa.
“Cảnh sát Looney, Carl Lee Hailey đã bắn trúng chân ông?”
“Vâng, thưa ông, ông ta đã bắn trúng chân tôi.”
“Ông có nghĩ ông ta cố tình không?”
“Ồ không, thưa ông. Đó là một tai nạn.”
“Ông có muốn thấy ông ta bị trừng phạt vì đã bắn ông không?”
“Không, thưa ông. Tôi không có nguyện vọng xấu nào về người đàn ông này. Ông ta đã làm điều mà nếu là tôi thì tôi cũng sẽ làm.” Buckley buông cây viết xuống và ngả vào chiếc ghế của ông. Trông ông có vẻ ngán ngẩm với nhân chứng ngôi sao của mình.
“Ông nói vậy là ý gì?”
“Ý tôi là tôi không trách ông ta về việc ông ta đã làm. Mấy gã đó đã hãm hiếp cô con gái bé bỏng của ông ta. Tôi cũng có con gái. Ai mà hãm hiếp nó thì kẻ đó sẽ chết như con chó. Tôi sẽ bắn hắn tan xác, giống như Carl Lee đã làm vậy. Chúng ta phải trao cúp cho ông ta mới phải.”
“Ông có muốn bồi thẩm đoàn kết án Carl Lee không?”
Buckley bật dậy, gầm lên, “Phản đối! Phản đối! Câu hỏi không hợp thức!”
“Không” Looney nói lớn. “Tôi không muốn ông ta bị kết án! Ông ta là một người hùng. Ông ta…”
“Đừng trả lời, ông Looney!” Noose lớn tiếng. “Đừng trả lời!”
“Phản đối! Phản đối!” Buckley kiễng chân lên hét tiếp.
“Ông ta là một người hùng! Hãy thả ông ta ra!” Looney hét trả.
“Trật tự! Trật tự!” Noose nện búa.
Buckley tắt tiếng. Looney tắt tiếng. Jake bước về chiếc ghế của anh và nói, “Tôi rút lại câu hỏi.”
“Xin vui lòng miễn chấp,” Noose căn dặn bồi thẩm đoàn.
Looney mỉm cười với bồi thẩm đoàn rồi khập khiễng rời phòng xử. “Mời nhân chứng kế tiếp của ông đi,” Noose nói, tháo cặp mục kỉnh ra.
Buckley chầm chậm đứng dậy. Với một nỗ lực trình diễn tuyệt vời, ông nói, “Thưa Ngài, Công tố xin thôi.”
“Tốt,” Noose đáp và nhìn Jake. “Tôi đoán ông có vài kiến nghị phải không, ông Brigance?”
“Vâng, thưa Ngài.”
“Rất tốt, chúng ta sẽ vào phòng tôi để bàn về chúng.”
Noose cho miễn bồi thẩm đoàn của ông với cùng những dặn dò lúc ra về, và dời phiên tòa đến chín giờ ngày thứ Sáu.