Chương 37
Jake thức dậy trong bóng tối với cơn khó ở nhẹ, một cơn nhức đầu do buồn ngủ, do Coors, và do một âm thanh từ xa, không lẫn vào đâu được, là tiếng chuông cửa reo liên hồi như thể một ngón cái lớn đang dán chặt vào nút chuông. Anh mặc áo khoác ngủ ra mở cửa trước, cố tập trung nhìn hai thân hình đang đứng ở hàng hiên. Ozzie và Nesbit, cuối cùng anh cũng xác định được họ.
“Các ông cần gặp tôi có việc gì?” anh hỏi trong khi mở cửa.
Họ theo anh vào nhà.
“Chúng sẽ giết anh hôm nay đấy,” Ozzie nói.
Jake ngồi xuống trường kỷ, xoa bóp hai thái dương.
“Chúng có thể thành công đấy.”
“Jake, chuyện này nghiêm túc đấy. Chúng có kế hoạch giết anh.”
“Ai?”
“Klan.”
“Mickey Mouse nói hả?”
“Ừ. Hắn gọi điện hôm qua, nói là sắp có chuyện. Hai giờ sau hắn gọi lại, nói anh là người may mắn. Nói hôm nay là một ngày hệ trọng. Đã đến lúc nhộn nhịp. Chúng đã chôn cất Stump Sisson sáng nay ở Loydsville, và đã đến lúc phải thường xuyên ăn miếng trả miếng. Máu phải đổi bằng máu.”
“Tại sao lại là tôi? Tại sao chúng không giết Buckley hay Noose hay gã nào đó đáng chết hơn?”
“Chúng tôi không có dịp để thảo luận chuyện đó.”
“Phương pháp hành quyết là gì?” Jake hỏi, đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng vì ngồi đó trong bộ áo khoác ngủ.
“Hắn không nói.”
“Hắn có biết không?”
“Hắn không đi sâu vào chi tiết. Hắn chỉ nói chúng sẽ cố giết anh vào một lúc nào đó trong hôm nay.”
“Vậy tôi phải làm gì? Đầu hàng à?”
“Mấy giờ thì anh đến văn phòng?”
“Bây giờ là mấy giờ?”
“Gần năm giờ.”
“Tôi tắm, mặc quần áo xong là tôi đi liền.
“Chúng tôi sẽ chờ.”
Lúc năm giờ ba mươi, họ hối anh vào văn phòng rồi khóa cửa lại. Lúc tám giờ, một trung đội binh lính tụ tập ở vỉa hè dưới ban công, chờ mục tiêu. Harry Rex và Ellen quan sát từ tầng hai của tòa án. Jake bị kẹp giữa Ozzie và Nesbit, cả ba đi lom khom ở tâm của một đội hình thắt chặt. Họ băng qua đường Washington, hướng đến tòa án. Những con kền kền đánh hơi thấy điều gì đó, bèn vây lấy lớp bọc.
Nhà máy thức ăn gia súc bỏ hoang nằm gần đường ray bỏ phế dưới ngọn đồi cao nhất của Clayton, cách phía bắc hai dãy nhà và nằm về phía đông quảng trường. Bên cạnh nó là một con đường hoang vắng trải nhựa và sỏi chạy xuống đổi giao với đường Sedar. Sau đó thì đường rộng và êm hơn, tiếp tục đi xuống đồi rồi đi hết và xuất hiện trở lại trên đường Quincy, ráp phía đông quảng trường Clanton.
Từ vị trí của mình bên trong một hầm chứa, gã đeo mặt nạ có tầm nhìn rõ—tuy cách xa—cửa sau của tòa án. Hắn lom khom trong bóng tối và nhắm qua một lỗ nhỏ, tự tin rằng cả thế giới chẳng ai thấy được hắn. Rượu whiskey tiếp sức cho sự tự tin và cú nhắm bắn mà hắn đã tập dượt dễ đến hàng ngàn lần từ bảy giờ ba mươi đến tám giờ, lúc hắn nhận thấy có các hoạt động quanh văn phòng của tên luật sư mê mọi đen.
Một đồng sự chờ trên chiếc bán tải nấp trong một nhà kho xập xệ gần hầm chứa. Máy xe đang nổ và gã lái xe rít liên tục Lucky Strike, lo lắng nghe ngóng tiếng lạch cạch từ khẩu súng săn hươu. Khi đám người che chắn bước qua đường Washington, gã mặt nạ cũng bắt đầu hoảng loạn. Qua ống nhắm, hắn chỉ loáng thoáng thấy chiếc đầu của tên luật sư mê mọi đen. Nó chao đảo, nhấp nhô, vòng vèo giữa một biển cây xanh, bị vây bọc và săn đuổi bởi hàng tá phóng viên. Bắn đi, món whiskey nói, hãy tạo ra thứ gì đó nhộn nhịp đi. Hắn cố hết sức canh đong những nhấp nhô và vòng vèo để có thể bóp cò khi mục tiêu đến gần cửa sau của tòa án.
Tiếng súng rõ mồn một, không nhầm lẫn vào đâu.
Một nửa số binh lính nằm bẹp xuống đất, nửa kia tóm lấy Jake, quẳng mạnh anh vào hàng hiên. Một lính canh đau đớn hét lên. Các phóng viên và dân truyền hình khom xuống, va vấp, nhưng vẫn dũng cảm giữ cho các camera tiếp tục quay để thu hình cuộc tàn sát. Người lính ôm cổ, tiếp tục hét. Thêm một phát súng khác. Rồi đến một phát nữa.
“Anh ấy trúng đạn rồi!” ai đó la lớn. Các binh lính lồm cồm bò đến người bị bắn. Jake chạy thoát qua cửa, đến nơi an toàn bên trong tòa. Anh nằm sấp xuống ở lối vào phía sau tòa, hai tay ôm lấy đầu. Ozzie đứng cạnh anh, quan sát các binh lính qua cánh cửa. Tay súng ló đầu khỏi hầm chứa, vứt khẩu súng vào băng ghế sau rồi biến mất vào miền quê cùng đồng bọn của hắn. Chúng còn một tang lễ phải viếng ở nam Mississippi.
“Anh ấy bị trúng đạn ở cổ!” ai đó la lớn và các đồng đội của anh ta xông qua các phóng viên. Họ nhấc anh ta lên, lôi anh ta đến chiếc xe jeep.
“Ai bị trúng đạn vậy?” Jake hỏi, vẫn không bỏ hai bàn tay ra khỏi mắt.
“Một trong các lính canh,” Ozzie nói. “Anh có sao không đấy?”
“Chắc là không,” anh đáp, vỗ hai tay sau gáy và nhìn xuống sàn. “Cặp của tôi đâu rồi?”
“Nó nằm ở lối đi ngoài kia. Một phút nữa chúng tôi sẽ lấy nó về.” Ozzie lôi ra chiếc bộ đàm từ thắt lưng và thét những mệnh lệnh cho người điều phối, hình như là điều động tất cả mọi người đến tòa án.
Khi vụ bắn súng có vẻ như kết thúc, Ozzie nhập bọn với các binh lính bên ngoài. Nesbit đứng cạnh Jake. “Anh có sao không?” anh ta hỏi.
Viên đại tá tiến đến, quát tháo và chửi bới.
“Chuyện quái gì xảy ra thế này?” ông hỏi.
“Tôi nghe có tiếng súng.”
“Mackenvale bị trúng đạn.”
“Anh ta đâu rồi?” viên đại tá hỏi.
“Đưa đi bệnh viện rồi,” một hạ sĩ nói, trỏ vào chiếc jeep đằng xa đang phóng đi.
“Thương tích ra sao?”
“Trông khá tệ. Bị trúng vào cổ.”
“Cổ ư? Sao lại di chuyển anh ta?”
Không ai trả lời.
“Có ai thấy gì không?” viên đại tá hỏi.
“Có vẻ như nó từ trên đồi xuống,” Ozzie nói, nhìn qua đường Cedar. “Sao ông không cử một chiếc jeep lên đó để thám thính?”
“Ý hay đấy.” Viên đại tá quát vào các binh lính háo hức của ông một tràng những mệnh lệnh cộc cằn, điểm xuyết một cách thoải mái bằng những từ tục tằn. Lăm lăm súng và sẵn sàng lâm chiến, các binh lính tản ra đủ mọi hướng trong cuộc truy lùng kẻ ám sát mà họ không thể xác định được là ai, kẻ mà trên thực tế đã ở hạt kế bên khi đội tuần tra trên bộ bắt đầu khám xét nhà máy thức ăn gia súc bỏ hoang. Ozzie đặt chiếc cặp xuống sàn, cạnh bên Jake. “Jake có sao không vậy?” ông thì thầm hỏi Nesbit. Harry Rex và Ellen đứng trên cầu thang nơi Cobb và Willard bị bắn chết.
“Tôi không rõ. Anh ta không động đậy đã mười phút rồi,” Nesbit nói.
“Jake, anh có ổn không?” ông cảnh sát trưởng hỏi.
“Ổn” anh chầm chậm nói, đôi mắt vẫn nhắm tịt. Anh lính ấy đã ở bên vai trái của Jake. “Chuyện này coi bộ ngu ngốc nhỉ?” anh ta vừa nói như thế với Jake thì bị dính một viên đạn xuyên cổ họng. Anh ta đã la hét và ngã vào Jake, hai tay ôm chiếc cổ họng ồng ộc máu. Jake ngã xuống và được đẩy đến nơi an toàn.
“Anh ta chết rồi phải không?” Jake khẽ hỏi.
“Chúng tôi vẫn chưa biết,” Ozzie đáp. “Anh ta đang ở bệnh viện.”
“Anh ta chết rồi. Tôi biết anh ta đã chết. Tôi nghe thấy cổ của anh ta bị nổ.”
Ozzie nhìn Nesbit, rồi nhìn sang Harry Rex. Bốn năm vết máu to cỡ đồng xu nằm lốm đốm trên chiếc vest màu xám nhạt của Jake. Anh chưa nhận ra chúng, nhưng mọi người đều thấy rõ.
“Jake, áo vest của anh có vết máu kìa,” Ozzie cuối cùng nói. “Ta trở về văn phòng của anh để anh thay đồ đi nhé.”
“Chuyện đó có gì là quan trọng?” Jake lầm bầm nói với sàn nhà. Họ nhìn nhau.
Dell và những người khác ở Coffee Shop đứng nhìn ở vỉa hè khi họ đưa Jake từ tòa án băng qua đường và vào lại văn phòng của anh, phớt lờ những câu hỏi ngớ ngẩn mà các phóng viên ném ra. Harry Rex khóa cửa trước, bỏ lại các cảnh vệ ngoài vỉa hè. Jake lên gác, cởi áo vest.
“Row Ark, sao cô không pha chút margarita nhỉ?” Harry Rex nói. “Tôi sẽ lên gác và ở lại với anh ta.”
“Ông thẩm phán, chúng ta đã có vài sự chộn rộn,” Ozzie trình bày khi Noose mở cặp lấy ra chiếc áo khoác.
“Chuyện gì vậy?” Buckley hỏi.
“Sáng nay họ toan giết Jake.”
“Cái gì?”
“Khi nào vậy?” Buckley hỏi.
“Khoảng một giờ trước có người đã bắn Jake lúc anh ta đang trên đường đến tòa án. Đó là một khẩu tầm xa. Chúng tôi chẳng có ý niệm nào về hung thủ. Hắn bắn trượt Jake, trúng phải người hộ tống anh ta. Người này đang được phẫu thuật.”
“Jake đâu rồi?” Ngài thẩm phán hỏi.
“Ở văn phòng của anh ta. Anh ta khá run rẩy.
“Là tôi thì cũng thế thôi,” Noose cảm thông nói.
“Anh ta muốn ông gọi cho anh ta khi nào ông đến đây.”
“Tất nhiên.”
Ozzie quay số rồi chìa ống nói cho thẩm phán.
“Noose đấy,” Harry Rex nói, trao ống nói cho Jake. “A lô.”
“Ông có sao không vậy?”
“Không sao cả. Hôm nay tôi sẽ không ở đó đâu.”
Noose chật vật tìm câu trả lời. “Ông làm gì?”
“Đã nói là tôi không đến đó hôm nay mà. Tôi không có tinh thần để đến đó.”
“Ơ… Jake, nhưng những người còn lại chúng tôi thì sao?”
“Tôi không quan tâm, thật đấy,” Jake nói, nhấp ca margarita thứ hai.
“Ông nói sao cơ?”
“Tôi nói tôi không quan tâm, ông thẩm phán ạ. Tôi không quan tâm các ông làm gì, tôi sẽ không đến đó đâu.”
Noose lắc đầu nhìn chiếc điện thoại. “Ông có bị thương không đấy?” ông thiện cảm hỏi.
“Ông có bị bắn bao giờ chưa vậy, ông thẩm phán?”
“Chưa, Jake ạ.”
“Ông có bao giờ nhìn thấy ai bị trúng đạn và nghe thấy người này la hét chưa?”
“Chưa, Jake.”
“Ông có bao giờ bị máu của người khác văng tung tóe lên áo vest của mình chưa?”
“Chưa, Jake.”
“Tôi sẽ không đến đó.”
Noose ngưng nói và suy nghĩ một lúc. “Tạt qua đây đi Jake, ta hãy bàn về chuyện này.”
“Không, tôi sẽ không rời văn phòng của tôi. Ngoài đó nguy hiểm lắm.”
“Nếu như ta nghỉ ngơi đến một giờ thì ông có cảm thấy khá hơn không?”
“Đến lúc đó thì tôi say mèm rồi.”
“Sao cơ?”
“Tôi nói lúc đó thì tôi say mèm rồi.”
Harry Rex bịt mắt lại. Ellen bỏ vào bếp.
“Khi nào thì ông nghĩ ông sẽ tỉnh táo?” Noose nghiêm khắc hỏi. Ozzie và Buckley nhìn nhau.
“Thứ Hai.”
“Còn mai thì sao?”
“Mai là thứ Bảy.”
“Phải, tôi biết, và tôi có kế hoạch thượng tòa vào ngày mai. Chúng ta có một bồi thẩm đoàn đang bị cách ly, ông nhớ không?”
“Thôi được, tôi sẽ sẵn sàng ngày mai.”
“Nghe thật dễ chịu. Bây giờ tôi phải nói sao với bồi thẩm đoàn đây? Họ đang ngồi chờ chúng ta trong phòng bồi thẩm đấy. Phòng xử thì đã chật kín rồi. Thân chủ của anh cũng đang ngồi một mình chờ anh ở ngoài đó. Tôi phải nói sao với những người này đây?”
“Ông cứ nghĩ đại lý do nào đó. Tôi đặt niềm tin vào ông.”
Jake gác máy. Noose lắng nghe điều không thể tin nổi, cho đến khi thực tế trở nên lồ lộ rằng ông đã bị gác máy vào mặt. Ông trao lại ống nói cho Ozzie.
Ngài nhìn qua cửa sổ rồi tháo cặp mục kỉnh. “Ông ta nói sẽ không đến hôm nay.”
Buckley im ắng một cách bất thường.
Ozzie bao biện. “Anh ta đã thực sự bị sốc, ông thẩm phán ạ.”
“Ông ta có hay say xỉn không?”
“Không, Jake thì không đâu,” Ozzie đáp. “Chỉ là anh ta thương xót cho cái anh lính bị bắn thê thảm đến vậy. Anh ta ở ngay cạnh Jake và đã lãnh viên đạn nhắm vào Jake. Gặp chuyện đó thì ai cũng hoảng vía cả, ông thẩm phán ạ.”
“Ông ta muốn chúng ta nghỉ đến sáng mai,” Noose nói với Buckley, ông này nhún vai và tiếp tục không nói gì.
Khi tin đồn lan rộng, một lễ hội thường trực đã được triển khai trên vỉa hè bên ngoài văn phòng của Jake. Cánh báo chí dựng trại và đến cào ô cửa sổ mặt trước để xem có ai đó hay thứ gì đó ở bên trong đáng để đưa tin hay không. Bạn bè tạt qua để thăm hỏi Jake, nhưng họ được nhiều phóng viên thông báo rằng anh đã khóa trái cửa và sẽ không ra ngoài. Phải, anh không bị thương tích gì cả.
Bác sĩ Batt đã được lên kế hoạch tuyên thệ sáng thứ Sáu. Ông và Lucien vào văn phòng qua cửa hậu lúc mười giờ hơn, và Harry Rex phải ra cửa hàng rượu.
Với tất cả những tiếng la hét, việc trò chuyện với Carla đã không dễ dàng gì. Anh gọi cho cô sau ba cữ uống, và mọi thứ đã không được tốt đẹp. Anh nói chuyện với cha cô, bảo ông ta rằng anh vẫn an toàn, không bị thương tích gì, và một nửa lực lượng Vệ binh Quốc gia của Mississippi đã được phân công bảo vệ anh. Để trấn an cô, anh nói sẽ gọi lại muộn hơn.
Lucien rất tức giận. Ông đã đánh vật với Bass để giữ cho ông ta tỉnh táo tối thứ Năm và tuyên thệ tốt vào thứ Sáu. Nay thì ông ta phải tuyên thệ vào thứ Bảy, và chẳng có cách chi giữ cho ông ta tỉnh táo trong hai ngày liên tiếp. Ông nghĩ đến tất cả những khoản rượu đã phải nhịn hôm thứ Năm và tỏ ra rất tức giận.
Harry Rex trở lại với gần bốn lít rượu. Ông và Ellen pha các món uống và cãi nhau về thành phần của chúng. Cô rửa phin cà phê, rót đầy bằng Bloody Mary trộn và một lượng vodka Thụy Điển không cân xứng. Harry Rex bổ sung một lượng hậu hĩ tương ớt Tabasco. Ông đánh một vòng trong phòng họp, rót đầy lại các ly bằng món cocktail ngon tuyệt này.
Bác sĩ Bass nốc cuống quýt rồi xin thêm. Lucien và Harry Rex bàn luận về danh tính khả dĩ của tay súng. Ellen im lặng quan sát Jake. Anh ngồi ở một góc, mắt nhìn các kệ sách.
Điện thoại reo. Harry Rex chộp ống nói, chăm chú nghe. Ông gác máy rồi nói, “Ozzie gọi. Anh lính đã được phẫu thuật. Viên đạn nằm ở cột sống, Họ nghĩ anh ta sẽ bị liệt.”
Họ đồng loạt nhấp rượu, chẳng ai nói một lời. Họ cố hết sức phớt lờ Jake trong lúc anh một tay xoa trán còn tay kia thì trút rượu. Tiếng gõ nhẹ của ai đó ở cửa hậu cắt ngang cuộc tưởng niệm ngắn ngủi.
“Ra xem ai đi,” Lucien lệnh cho Ellen và cô đi ra để xem ai gọi cửa.
“Là Lester Hailey,” cô báo cáo vào phòng họp.
“Cho cậu ta vào,” Jake làu bàu, hầu như lẩm bẩm.
Lester được giới thiệu với bàn nhậu và được mời một ly Bloody Mary. Anh từ chối và yêu cầu món nào đó pha với whiskey.
“Ý hay đấy,” Lucien nói. “Tôi chán mấy món rượu nhẹ lắm rồi. Ta uống Jack Daniel’s đi.”
“Nghe được đấy," Bass phụ họa khi hớp nốt chỗ cocktail còn sót trong ly của ông.
Jake cố rặn một nụ cười yếu ớt với Lester, rồi trở lại nghiên cứu các kệ sách. Lucien ném tờ một trăm đô la lên bàn, và Harry Rex lại ra cửa hàng rượu.
Khi thức dậy nhiều giờ sau đó, Ellen thấy mình nằm trên chiếc trường kỷ trong văn phòng của Jake. Căn phòng tối và tĩnh lặng, vương một mùi cay cay, nồng nồng. Cô thận trọng di chuyển. Trong phòng tác chiến, cô bắt gặp sếp của cô đang nằm ngáy trên sàn một cách yên bình, một phần thân thể ở dưới gầm của chiếc bàn tác chiến. Không có ngọn đèn nào để tắt nên cô thận trọng xuống cầu thang. Phòng họp vương vãi nhiều chai rỗng, lon bia, ly nhựa và hộp đựng thịt gà cho bữa chiều. Lúc này là chín giờ ba mươi tối. Cô đã ngủ trong năm tiếng đồng hồ.
Cô có thể ngụ lại nhà Lucien, nhưng lại cần thay đồ. Nesbit có thể đưa cô về Oxford, nhưng cô đang tỉnh táo, vả lại Jake cũng đang cần sự bảo vệ. Cô khóa cửa trước rồi bước đến chiếc xe của cô. Ellen gần đến được Oxford thì thấy những ánh đèn xanh ở phía sau. Như thường lệ, cô đang lái với tốc độ khoảng 120 km/h. Cô đậu lại ở lề đường rồi bước đến các đèn sau, nơi cô lục bóp và chờ đợi cảnh sát bang. Hai người mặc thường phục tiến đến từ các ánh đèn xanh.
“Cô say rượu à?” một người hỏi rồi khạc tinh dầu thuốc lá.
“Không, thưa ông, tôi đang tìm giấy phép lái xe của tôi.”
Cô đang khom xuống các đèn sau, lục tìm bằng lái xe thì bất chợt bị đấm gục xuống đất. Một tấm mền nặng được ném vào và hai gã đàn ông ghì cô xuống. Một sợi dây được tròng qua ngực và eo của cô. Cô vung chân đá và chửi rủa nhưng chẳng chống chọi được là bao. Tấm mền được chụp lên đầu cô, khóa chặt đôi tay cô ở bên dưới. Chúng thắt chặt sợi dây.
“Nằm yên đó, đồ chó cái! Nằm yên đó!”
Một tên rút chìa khóa xe cô khỏi công tắc rồi mở cốp xe. Chúng quẳng cô vào đó rồi đóng sầm lại. Ánh sáng xanh được tắt trong chiếc Lincoln cũ. Nó gầm lên rồi phóng đi, kéo theo chiếc BMW. Chúng tìm ra con đường trải sỏi và đi theo nó vào rừng. Nó chuyển thành một con đường bụi bẩn, dẫn đến một bãi cỏ nhỏ, nơi một chiếc thập giá lớn đã được một đám Ku Kux Klan thắp lửa sẵn.
Hai kẻ tấn công nhanh chóng khoác bộ váy và mặt nạ của chúng rồi đưa cô ra khỏi xe. Cô bị quẳng xuống đất và tấm mền được tháo ra. Chúng khống chế, nhét giẻ vào miệng cô, lôi cô đến một chiếc cọc lớn cách chiếc thập giá vài bộ. Cô bị trói vào đó, lưng xoay về phía các thành viên của Klan, mặt áp vào cây cọc.
Cô thấy những bộ váy trắng và những chiếc nón nhọn. Cô tuyệt vọng cố khạc ra miếng giẻ vải bông đầy dầu mỡ tọng trong miệng. Cô chỉ có thể ú ớ và ho sặc sụa mà thôi.
Cây thập giá bốc cháy soi sáng bãi cỏ nhỏ, tỏa ra làn sóng nhiệt sáng rực, bắt đầu nướng da cô khi cô cố vùng vẫy để thoát khỏi cây cọc và phát ra những âm thanh yết hầu lạ lẫm.
Một gã đội nón trùm tách hỏi những gã còn lại và tiến đến gần cô. Cô có thể nghe thấy tiếng hắn bước tới và tiếng thở của hắn. “Con chó cái mê mọi đen,” hắn nói bằng chất giọng giòn tan của người miền Trung Tây. Hắn tóm lấy phần sau cổ áo của cô và xé chiếc áo khoác lụa trắng cho đến khi nó chỉ còn là những mảnh tơi tả máng trên cổ và vai. Hai tay cô bị trói chặt quanh chiếc cọc. Hắn rút từ trong váy một con dao săn và bắt đầu cắt rời phần còn lại của chiếc áo khoác khỏi cơ thể cô. “Đồ chó cái mê mọi đen. Đồ chó cái mê mọi đen.”
Ellen nguyền rủa hắn, nhưng những lời của cô chỉ là những tiếng rên ú ớ. Hắn kéo dây khóa bên phải chiếc áo vải lanh hải quân. Cô tìm cách đá hắn, nhưng sợi dây thừng nặng quanh mắt cá đã giữ chân cô lại bên cây cọc. Hắn đặt mũi dao ở đáy dây khóa rồi cắt dọc xuống theo đường viền. Hắn tóm quanh eo cô rồi giật bung chiếc áo ra như một ảo thuật gia. Đám Ku Klux Klan xấn tới.
Hắn vỗ mông cô và nói, “Ngon đấy, rất ngon.” Hắn lùi lại, chiêm ngưỡng công trình của hắn. Cô ú ớ vùng vẫy nhưng không thể nào chống cự. Chiếc quần lót đã tụt xuống giữa đùi. Với tất cả sự long trọng, hắn cắt các dây quai, gọn gàng xẻ chúng ra sau. Hắn giật mạnh nó, ném dưới chân cây thập giá đang cháy. Hắn cắt các dây áo nịt ngực và lột chúng ra. Cô giật mạnh và những tiếng rên trở nên lớn hơn. Vòng bán nguyệt âm thầm nhích tới trước và dừng lại cách hơn ba mét.
Lửa lúc này trở nên nóng. Chiếc lưng và cặp đùi trần của cô sũng mồ hôi. Mái tóc màu đỏ sáng của cô xõa quanh cổ và vai. Hắn lại thọc tay vào váy, rồi lôi ra chiếc roi bò. Hắn quất nó rõ mạnh cạnh bên cô khiến cho cô nao núng. Hắn lùi lại, cẩn thận đo khoảng cách đến cây cọc.
Hắn vung cây roi bò, nhắm vào chiếc lưng trần. Gã cao lớn nhất bước tới, xoay lưng lại cô và lắc đầu. Không một lời nào được nói ra nhưng chiếc roi đã biến mất. Hắn bước đến cô, tóm lấy đầu cô. Bằng một con dao, hắn cắt tóc cô. Hắn tóm từng nắm tóc lớn và cắt lẹm cho đến khi đầu của cô lởm chởm và trông xấu xí. Những nắm tóc lả tả rơi, chất thành đống dưới chân cô. Cô rên rỉ bất động.
Chúng đổ xô đi ra những chiếc xe của chúng. Một gallon xăng đã được tưới bên trong chiếc BMW mang biển số Massachusetts và kẻ nào đó đã quẳng một que diêm. Khi biết chắc chúng đã đi khỏi, Mickey Mouse lách ra khỏi các bụi cây. Hắn cởi trói cho cô rồi đưa cô đến một quãng rừng thưa nhỏ cách xa bãi cỏ. Hắn thu thập những phần y phục còn lại và tìm cách che phủ cho cô. Khi xe của cô đã cháy rụi bên con đường bụi bặm, hắn bỏ cô lại. Hắn lái đến Oxford, tìm đến một điện thoại trả tiền và gọi cho văn phòng cảnh sát trưởng hạt Lafayette.