← Quay lại trang sách

Chương 38

Phiên tòa thứ Bảy là một phiên bất thường nhưng chẳng phải là không được nghe đến, đặc biệt là trong những vụ việc lớn khi mà bồi thẩm đoàn bị nhốt chặt. Những người tham gia chẳng thấy phiền vì thứ Bảy đưa sự kết thúc đến sớm hơn một ngày. Dân địa phương cũng chẳng thấy phiền vì đó là ngày nghỉ của họ. Và với hầu hết người dân hạt Ford, đó là cơ may duy nhất để họ được xem phiên tòa, hay ít nhất là để đi loanh quanh trên quảng trường và chứng kiến trước tiên mọi sự thể, nếu như họ không tìm được chỗ ngồi trong phòng xử. Biết đâu chẳng diễn ra thêm một vụ bắn súng nữa.

Lúc bảy giờ, các quán cà phê ở khu thương mại đã hoạt động hết công suất để phục vụ các khách hàng vãng lai. Cứ mỗi khách hàng được ban thưởng chỗ ngồi là lại có hai người phải quay đầu trở lui để lang thang quanh quảng trường và tòa án, chờ một chỗ ngồi trong phòng xử. Hầu hết những người này đều dừng chân một lúc trước văn phòng của Jake, hy vọng sẽ bắt được hình bóng vị luật sư bị mưu sát. Những kẻ khoác lác thì khoe khoang mình từng là thân chủ của người đàn ông nổi tiếng này.

Ở bên trên, cách vài bộ, mục tiêu đang ngồi ở bàn làm việc, nhấp món Bloody pha chế còn sót lại trong bữa tiệc hôm qua. Anh hút một điếu Roi—Tan, uống thuốc bột trị nhức đầu để tẩy xóa những mạng nhện trong não của anh. Quên vụ anh lính đi, anh tự nhủ suốt ba giờ qua. Quên bọn Klan đi. Hãy quên những dọa dẫm, mọi thứ liên quan đến phiên tòa, và đặc biệt là bác sĩ W.T. Bass. Anh thốt ra một lời cầu nguyện ngắn, mong sao Bass tỉnh táo ở trên bục nhân chứng. Vị chuyên gia và Lucien đã ở lại suốt buổi chiều, nhậu nhẹt và tranh luận, lên án lẫn nhau về việc say xỉn và việc bị khai trừ một cách mất thể diện khỏi nghề nghiệp tương ứng của họ. Bạo lực bột phát ngắn ngủi tại bàn làm việc của Ellen khi họ rời đi. Nesbit phải can thiệp vào và hộ tống họ ra xe tuần tra để đưa họ về nhà. Các phóng viên sôi sục vì tò mò khi hai lão già say mướt được cảnh sát đưa ra khỏi văn phòng của Jake mà vẫn còn chửi nhau, Lucien ngồi ở băng sau và Bass ngồi ở băng trước.

Jake xem lại kiệt tác của Ellen về viện dẫn tâm thần.

Các câu hỏi cô nêu ra cho Bass chỉ cần vài chỉnh sửa nho nhỏ. Anh nghiên cứu bản lý lịch nghề nghiệp của vị chuyên gia tâm thần và thấy nó không thuyết phục, chỉ đáp ứng được ở hạt Ford. Vị bác sĩ tâm thần gần nhất ở cách đó đến gần 130 km.

Thẩm phán Noose liếc nhìn vị D.A. rồi nhìn Jake một cách đầy thiện cảm. Anh ngồi ở gần cửa, nhìn bức chân dung phai nhòa của một thẩm phán đã chết nào đó, treo phía trên vai Buckley.

“Sáng nay ông cảm thấy thế nào, Jake?” Noose nồng nhiệt hỏi.

“Tôi ổn.”

“Còn anh lính thì sao?” Buckley hỏi.

“Bị liệt.”

Noose, Buckley, Musgrave, và ông Pate nhìn vào cùng một điểm trên sàn và lắc đầu nguầy nguậy trong một khoảnh khắc im lặng để bày tỏ sự tôn trọng.

“Thư ký pháp luật của ông đâu?” Noose hỏi, nhìn chiếc đồng hồ treo tường.

Jake nhìn đồng hồ đeo tay của anh. “Tôi không biết. Tôi đang chờ cô ta đây.”

“Ông đã sẵn sàng chưa?”

“Tất nhiên.”

“Phòng xử đã sẵn sàng rồi chứ, ông Pate?”

“Vâng, thưa ông.”

“Rất tốt. Ta tiến hành đi.”

Noose mời mọi người trong phòng xử an tọa, và trong suốt mười phút ông đưa ra lời cáo lỗi dông dài với các vị bồi thẩm vì cuộc trì hoãn hôm qua. Họ là mười bốn người duy nhất trong phòng xử không biết chuyện gì đã xảy ra sáng thứ Sáu vì việc tường thuật cho họ có thể gây thiên kiến. Noose vòng vo nói với họ về những tình trạng khẩn cấp. Đôi khi trong phiên tòa các sự việc liên kết với nhau và tạo ra sự trì hoãn. Khi ông rốt cuộc hoàn tất, các bồi thẩm hoàn toàn hoang mang, chỉ cầu cho ai đó mời lên một nhân chứng.

“Ông có thể mời nhân chứng đầu tiên của ông," Noose nói, hướng về phía Jake.

“Bác sĩ W.T. Bass,” Jake tuyên bố khi di chuyển đến bục diễn thuyết. Buckley và Musgrove trao đổi nhau những cái nháy mắt và những nụ cười ngớ ngẩn.

Bass được bố trí ngồi gần Lucien ở hàng ghế thứ hai cùng gia đình bị cáo. Ông ồn ào đứng dậy và mở đường đến lối đi trung tâm, giẫm lên chân và chen lấn mọi người với chiếc cặp da nặng và trống rỗng của ông. Jake nghe những tiếng xào xáo sau lưng anh và tiếp tục mỉm cười với bồi thẩm đoàn.

“Tôi thề, tôi thề,” Bass nói qua quýt khi ông tuyên thệ với Jean Gillespie.

Ông Pate dẫn ông đến bục nhân chứng và đưa ra mệnh lệnh chuẩn, yêu cầu phải nói lớn và sử dụng micro. Mặc dù gây mếch lòng và mất thiện cảm, vị chuyên gia trông ngạo nghễ và tỉnh táo đáng kể. Ông mặc bộ vest len thêu tay màu xám đậm mắc tiền nhất của ông, một áo trắng cài nút cổ được hồ bột hoàn hảo, đeo một chiếc nơ nhỏ xinh xắn màu đỏ có họa tiết, khiến ông trông khá trí tuệ. Trông ông giống như một chuyên gia trong lĩnh vực nào đó. Bất chấp các phản đối của Jake, ông vẫn xỏ đội ủng cao bồi da đà điểu màu xám nhạt mà ông đã trả đến hơn một ngàn để mua nó dù thật ra nó chỉ đáng giá chưa đến một phần mười. Mười một năm về trước, Lucien đã nằng nặc đòi ông phải mang ủng trong vụ viện dẫn tâm thần đầu tiên. Bass mang nó, và bị cáo vô cùng minh mẫn đã được đi nhà lao Pachman. Ông mang nó trong vụ viện dẫn tâm thần thứ hai, một lần nữa cũng theo mệnh lệnh của Lucien, và một lần nữa cũng kết thúc ở Pachman. Lucien gọi nó là món bùa hên của Bass.

Jake không ưa cái đôi ủng chết tiệt đó. Nhưng bồi thẩm đoàn có thể sẽ liên tưởng, Lucien lập luận vậy. Nó đâu phải bằng da đà điểu mắc tiền, Jake cự cãi. Họ quá ngốc để nhận ra sự khác biệt, Lucien đáp. Không thể làm cho Jake dao động. Dân ngáo vườn sẽ tin tưởng người nào mang ủng, Lucien giải thích. Được rồi, Jake nói, cứ để ông ta mang một đôi ủng săn sóc, ngụy trang một ít bùn ở gót và đế, một đôi ủng mà họ thực sự có thể liên tưởng. Một đôi ủng như vậy sẽ không tôn được bộ vest, Bass nói xen vào.

Ông ngồi bắt chéo chân, gác chiếc ủng bên phải lên đầu gối bên trái để phô nó ra. Ông nhoẻn cười với nó rồi nhoẻn cười với bồi thẩm đoàn. Con đà điểu hẳn phải tự hào lắm đây.

Trên bục diễn thuyết, Jake đang nhìn vào cuốn sổ tay của anh thì trông thấy đôi ủng. Nó lồ lộ ra phía trên chấn song của bục nhân chứng. Bass đang chiêm ngưỡng nó, các bồi thẩm đang nghĩ ngợi về nó. Anh húng hắng rồi trở lại với các ghi chép của mình.

“Xin ông vui lòng cho biết tên.”

“Bác sĩ W.T. Bass,” ông đáp, sự chú ý của ông đột nhiên hướng ra khỏi chiếc ủng. Ông nhìn Jake chằm chặp, vẻ nghiêm trọng.

“Địa chỉ của ông?”

“Chín-không-tám West Canterbury, Jackson. Mississippi.”

“Nghề nghiệp của ông?”

“Tôi là bác sĩ tâm thần.”

“Ông có giấy phép hành nghề ở Mississippi chứ?”

“Vâng.”

“Ông được cấp phép khi nào?”

“Ngày 8 tháng Hai, 1963.”

“Ông có được cấp phép hành nghề y ở bang khác không?”

“Có.”

“Ở đâu?”

“Texas.”

“Ông có giấy phép đó khi nào?”

“Ngày 3 tháng Mười một, 1962.”

“Ông học đại học ở đâu?”

“Tôi nhận bằng tốt nghiệp ở Đại học Millsaps năm 1956, và nhận bằng M.D., hay Bác sĩ Y khoa, từ Đại học thuộc Trung tâm Khoa học Y tế ở Dallas, Texas, năm 1960.”

“Đó có phải là một trường y được công nhận không?”

“Phải.”

“Ai công nhận?”

“Hội đồng Giáo dục Y khoa, các bệnh viện thuộc Hiệp hội Y Khoa Hoa Kỳ, cơ quan công nhận nghề nghiệp của chúng tôi, và cơ quan thẩm quyền về giáo dục của Bang Texas.”

Bass thư giãn một chút, thả chân xuống rồi lại bắt chéo chân, khoe chiếc ủng bên trái. Ông nhè nhẹ đong đưa và xoay một phần chiếc ghế quay tiện nghi về phía bồi thẩm đoàn.

“Ông thực tập nội trú ở đâu và trong bao lâu?”

“Sau khi tốt nghiệp trường y tôi trải qua mười hai tháng thực tập nội trú tại Trung tâm Y khoa Rocky Mountain ở Denver.”

“Chuyên ngành của ông là gì?”

“Tâm thần.”

“Hãy giải thích cho chúng tôi đó là gì.”

“Tâm thần học là một nhánh y học liên quan đến việc điều trị các rối loạn tâm thần. Không phải luôn luôn, nhưng nó thường xử lý những sự cố tâm thần, cơ sở hữu cơ của nó vẫn chưa được biết rõ”

Lần đầu tiên Jake có thể hít thở kể từ khi Bass lên bục. Nhân chứng của anh đang đối đáp tốt.

“Nghe đây, ông bác sĩ,” anh nói khi ngẫu nhiên bước đến cách khoang bồi thẩm chừng ba tấc, “hãy mô tả với bồi thẩm đoàn về huấn luyện chuyên môn mà ông nhận được trong lĩnh vực tâm thần.”

“Huấn luyện chuyên môn của tôi về tâm thần học bao gồm hai năm nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Bang Texas, một trung tâm đã được công nhận. Tôi đã tham gia vào công việc khám nghiệm các bệnh nhân bị rối loạn thần kinh chức năng và tâm thần. Tôi đã từng nghiên cứu về tâm lý học, tâm bệnh học, và tâm lý trị liệu. Sự huấn luyện này được giám sát bởi các giáo viên tâm lý có năng lực, bao gồm việc hướng dẫn về các khía cạnh tâm thần trong y khoa, các khía cạnh hành vi của trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn.”

Khó có ai trong phòng xử hiểu được những gì Bass vừa nói, nhưng những điều đó lại đến từ miệng một người đàn ông mà bỗng dưng có vẻ là một thiên tài, một chuyên gia. Ông ta hẳn phải là một người có sự hiểu biết và trí thông minh tuyệt vời thì mới phát ra được những từ ngữ đó. Với chiếc nơ con bướm và những thuật ngữ chuyên môn, Bass vẫn đang giành được uy tín theo từng câu trả lời, bất chấp đôi ủng của ông.

“Có phải ông có văn bằng của Ủy ban Tâm lý học Hoa Kỳ?”

“Tất nhiên,” ông trả lời đầy tự tin.

“Ông được cấp bằng về chuyên khoa nào?”

“Tháng Tư 1967.”

“Tôi được cấp bằng về tâm thần học.”

“Và ông được cấp bằng khi nào?”

“Phải làm sao thì mới được Ủy ban Tâm lý học Hoa Kỳ cấp bằng?”

“Ứng viên phải trải qua những kỳ thi vấn đáp và thực hành, và cũng phải thi viết theo chỉ đạo của Ủy ban.”

Jake liếc qua các ghi chép của anh và bắt gặp Musgrove đang nháy mắt với Buckley.

“Ông bác sĩ, ông có chân trong hội đoàn nghề nghiệp nào không?”

“Có.”

“Hãy nêu tên các hội đoàn đó ra.”

“Tôi là thành viên của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, và Hiệp hội Y khoa Mississippi.”

“Đã bao lâu ông tham gia vào thực hành điều trị tâm thần?”

“Hai mươi hai năm.”

Jake bước ba bước về phía bục thẩm phán và nhìn Noose, người cũng đang chăm chú nhìn anh.

“Thưa Ngài, bên bị giới thiệu bác sĩ Bass là chuyên gia về lĩnh vực tâm thần.”

“Tốt lắm,” Noose đáp. “Ông có muốn kiểm tra nhân chứng không, ông Buckley?”

Vị D.A. đứng dậy với cuốn sổ ghi chép. “Có, thưa Ngài, chỉ vài câu hỏi thôi.”

Ngạc nhiên nhưng không lo lắng, Jake trở về chỗ của anh bên cạnh Carl Lee. Vẫn chưa thấy Ellen trong phòng xử.

“Bác sĩ Bass, theo ý kiến của ông, ông có phải là chuyên gia trong lĩnh vực tâm thần không?”

“Phải.”

“Ông có bao giờ dạy về tâm thần chưa?”

“Chưa.”

“Ông đã từng xuất bản bài viết nào về tâm thần chưa?”

“Chưa.”

“Ông đã từng viết cuốn sách nào về tâm thần chưa?”

“Chưa.”

“Nghe đây, ông đã tuyên thệ ông là thành viên của A.M.A., M.M.A và Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, có đúng không?”

“Đúng.”

“Ông có bao giờ là viên chức tại một trong ba tổ chức này không?”

“Không.”

“Hiện nay ông đang nắm giữ vị trí nào nơi ông làm việc?”

“Không vị trí nào cả.”

“Kinh nghiệm tâm thần của ông có bao gồm công việc nào nằm dưới sự bảo trợ của chính quyền liên bang hay chính quyền tiểu bang không?”

“Không.”

Sự ngạo mạn bắt đầu phai nhòa trên khuôn mặt ông, và sự tự tin cũng biến mất trong giọng nói của ông. Ông ném một tia nhìn về phía Jake, người đang vùi mặt vào một tập hồ sơ.

“Bác sĩ Bass, ông có tham gia vào thực hành điều trị tâm thần toàn thời gian không?”

Vị chuyên gia lưỡng lự, nhìn nhanh Lucien ở dãy ghế thứ hai. “Tôi thường xuyên tiếp bệnh nhân.”

“Bao nhiêu bệnh nhân và thường xuyên ở mức nào?” Buckley vặc lại với một vẻ tự tin khổng lồ.

“Tôi tiếp từ năm đến mười bệnh nhân mỗi tuần.”

“Tức một hay hai người mỗi ngày?”

“Đại thể là vậy.”

“Và ông xem đó là hành nghề toàn thời gian?”

“Nếu tôi muốn bận thì tôi bận.”

Buckley ném cuốn sổ ghi chép của ông lên bàn rồi nhìn Noose. “Thưa Ngài, Công tố phản bác tuyên thệ của người đàn ông này, nói rằng ông ta là chuyên gia về lĩnh vực tâm thần. Rõ ràng ông ta không đủ tư cách.”

Jake bật dậy với cái miệng há hốc.

“Bác bỏ, ông Buckley. Ông có thể tiếp tục, ông Brigance.”

Jake lục tìm trong sổ ghi của anh rồi trở lại bục diễn thuyết, ý thức rõ sự khả nghi mà vị D.A. vừa khoác lên nhân chứng ngôi sao của anh một cách đầy nghệ thuật. Bass lại luân chuyển cặp ủng.

“Nghe đây, bác sĩ Bass, ông đã khám cho bị cáo Carl Lee Hailey chưa vậy?”

“Rồi.”

“Bao nhiêu lần?”

“Ba.”

“Ông khám khi nào?”

“10 tháng Sáu.”

“Mục đích của việc khám là gì?”

“Tôi khám ông ta để xác định tình trạng tâm thần hiện tại cũng như tình trạng hôm 20 tháng Năm, khi ông ta được cho là đã bắn ông Cobb và ông Willard.”

“Việc khám bệnh này diễn ra ở đâu?”

“Ở nhà giam hạt Ford.”

“Một mình ông khám?”

“Phải. Chỉ có ông Hailey và tôi.”

“Ông khám trong bao lâu?”

“Ba giờ.”

“Ông có rà soát tiền sử y khoa của ông ta không?”

“Theo kiểu lòng vòng, có thể nói như vậy. Chúng tôi nói chuyện rất lâu về quá khứ của ông ta.”

“Ông biết được gì à?”

“Chẳng có gì đặc biệt, ngoại trừ chuyện chiến tranh.”

“Chuyện chiến tranh ra sao?”

Bass khoanh tay lại trên chiếc bụng hơi thừa cân của ông rồi tinh quái chau mày nhìn vị luật sư bên bị. “Thế này, ông Brigance ạ, giống như nhiều cựu chiến binh, ông Hailey có những thể nghiệm khủng khiếp ở nơi chiến trường.”

Chiến tranh là địa ngục, Carl Lee nghĩ vậy. Ông chăm chú lắng nghe. Chiến trường thật kinh hoàng. Ông đã bị bắn. Ông đã mất bạn bè. Ông đã giết người, rất nhiều người. Ông đã giết trẻ em, những đứa trẻ cầm súng và lựu đạn. Ông chỉ ước gì chưa từng nhìn thấy chiến trường đó. Ông nằm mơ thấy nó, thi thoảng vẫn có những hồi tưởng và ác mộng. Nhưng ông không cảm thấy bị khùng hay bị điên vì nó. Ông không cảm thấy bị khùng hay bị điên vì Cobb và Willard. Thật ra, ông cảm thấy mãn nguyện vì họ đã chết. Ông đã một lần giãi bày tất cả những điều đó cho Bass lúc ở nhà giam, và Bass có vẻ không ấn tượng. Rồi họ đã trò chuyện hai lần nữa, mỗi lần chưa bao giờ vượt quá một giờ.

Carl Lee nhìn bồi thẩm đoàn và ngờ vực lắng nghe vị chuyên gia, người đã nói chuyện rất lâu về những thể nghiệm chiến tranh ghê rợn của ông. Những từ ngữ của Bass nhảy lung tung khi ông giải thích những thuật ngữ chuyên môn cho những kẻ chẳng có chuyên môn về ảnh hưởng của chiến tranh lên Carl Lee. Chúng nghe có vẻ hay ho. Đã có những cơn ác mộng trong nhiều năm qua, đã có những giấc mơ mà Carl Lee chưa bao giờ quá lo lắng, nhưng khi nghe Bass giải thích thì chúng lại là những sự kiện cực kỳ ý nghĩa.

“Ông ta có tự ý nói về chiến tranh không?”

“Không hẳn,” Bass đáp rồi giải thích rất chi tiết cái nhiệm vụ khủng khiếp mà ông phải đối đầu khi lôi chiến tranh ra khỏi cái bộ não phức tạp, chất chứa, và có lẽ không mấy ổn định ấy. Carl Lee không nhớ theo cách đó. Nhưng ông chăm chú lắng nghe với một biểu hiện đau đớn, lần đầu tiên trong đời tự hỏi liệu mình có quả thật hơi bị điên hay không.

Sau một giờ, cuộc chiến đã được khơi lại và những hệ quả của nó là hoàn toàn thấm thía. Jake quyết định dấn tới.

“Nghe đây, ông Bass,” Jake gãi đầu nói. “Ngoài Việt Nam ra, ông có ghi nhận sự kiện đáng kể nào liên quan đến tiền sử tâm thần của ông ta không?”

“Không, ngoại trừ vụ hãm hiếp cô con gái của ông ta.”

“Ông có thảo luận vụ hãm hiếp với Carl Lee không?”

“Rất lâu, trong cả ba lần khám.”

“Hãy giải thích với bồi thẩm đoàn vụ hãm hiếp đã gây ra điều gì cho Carl Lee.”

Bass xoa cằm, trông có vẻ bối rối. “Xin nói thẳng nhé, ông Brigance, cần phải có rất nhiều thời gian mới giải thích được vụ hãm hiếp này tác động đến ông Hailey như thế nào.”

Jake suy nghĩ một lát, có vẻ như đã phân tích thấu đáo tuyên bố sau cùng này. “Vậy ông tóm lược nó cho bồi thẩm đoàn có được không?”

Bass gật đầu nghiêm trọng. “Tôi sẽ thử.”

Lucien càng lúc càng ngán ngẩm khi nghe Bass nói, và bắt đầu nhìn bồi thẩm đoàn với hy vọng chạm mắt Clyse Sisco, người cũng đã mất quan tâm và có vẻ như đang ngắm nghía đôi ủng. Từ khóe mắt, Lucien chăm chú quan sát, chờ đợi Sisco đảo mắt quanh phòng xử.

Cuối cùng, khi Bass miên man xong, Sisco mới rời mắt khỏi bục nhân chứng để nhìn Carl Lee, rồi Buckley, rồi một trong các phóng viên ở hàng ghế đầu. Sau đó, ánh nhìn của ông ta khóa chặt vào đôi mắt mở lớn của ông già râu, người từng trao cho ông ta tám ngàn đô la tiền mặt để thực hiện bổn phận công dân và đưa ra phán quyết đúng đắn. Họ tập trung rõ rệt vào nhau, và cả hai đều cố rặn ra một nụ cười mỉm. Bao nhiêu? Ánh mắt của Lucien hỏi. Sisco nhìn sang bục nhân chứng, nhưng chỉ vài giây sau ông ta đã lại nhìn Lucien. Bao nhiêu? Lucien hỏi, môi của ông mấp máy không thành tiếng.

Sisco nhìn đi chỗ khác rồi quay về Bass, ngẫm nghĩ về một cái giá công bằng. Ông ta nhìn sang phía Lucien, gãi đầu, rồi bất chợt, trong khi đang nhìn Bass, ông ta xòe năm ngón tay, đặt trên mặt và khẽ ho. Rồi ông ta lại ho nữa, đôi mắt nhìn chăm chú vị chuyên gia.

Năm trăm hay năm ngàn? Lucien tự hỏi.

Nếu biết Sisco thì đó là năm ngàn, thậm chí năm chục ngàn. Cũng vậy thôi, Lucien sẽ chi trả. Ông ta đáng giá một đống tiền.

Đến mười giờ ba mươi, Noose đã lau cặp mục kỉnh đến hàng trăm lần và tiêu thụ cả chục tách cà phê. Bàng quang của ông thúc giục ông phải đi xả gấp. “Đã đến lúc giải lao phiên buổi sáng. Chúng ta sẽ hoãn đến mười một giờ.” Ông giọng chiếc búa rồi biến mất.

“Tôi nói có được không?” Bass bồn chồn hỏi. Ông đi theo Jake và Lucien vào thư viện luật ở tầng ba.

“Ông nói tốt đấy,” Jake nói. “Chỉ cần ông giấu đôi ủng đó cho khuất mắt.”

“Đôi ủng đó quan trọng đấy,” Lucien phản đối.

“Tôi cần phải uống,” Bass khẩn khoản nói.

“Quên đi!” Jake nói.

“Tôi cũng vậy,” Lucien hùa theo. “Ta chạy sang văn phòng của anh làm nhanh một ly đi.”

“Ý hay đấy!” Bass nói.

“Quên đi!” Jake lặp lại. “Ông đang tỉnh táo và đang làm tốt cơ mà.”

“Ta có đến ba mươi phút lận” Bass nói khi ông và Lucien rời thư viện, xồng xộc xuống cầu thang.

“Không! Đừng làm vậy, Lucien!” Jake cứng rắn.

“Chỉ một ly thôi” Lucien đáp, giương một ngón tay lên trước Jake. “Chỉ một.”

“Ông có bao giờ chịu uống một ly đâu.”

“Theo chúng tôi đi, Jake. Nó sẽ giúp xoa dịu thần kinh của anh đấy.”

“Chỉ một thôi,” Bass la lớn khi biến mất dưới các bậc thang.

Lúc mười một giờ, Bass ngồi vào ghế nhân chứng, nhìn các bồi thẩm qua đôi mắt đờ đẫn. Ông mỉm cười, hầu như khúc khích. Ông ý thức sự hiện diện của các họa sĩ ở hàng ghế đầu nên cố hết sức hành xử như chuyên gia. Thần kinh của ông quả thật đã được xoa dịu.

“Bác sĩ Bass. Ông biết về việc kiểm tra trách nhiệm hình sự liên quan đến điều luật M’Naghten chứ?” Jake hỏi.

“Dĩ nhiên là tôi biết!” Bass đáp với vẻ trịch thượng đột ngột.

“Ông có thể giải thích điều luật này cho bồi thẩm đoàn không?”

“Dĩ nhiên. Điều luật M’Naghten là một chuẩn mực cho trách nhiệm hình sự ở Mississippi cũng như ở mười lăm tiểu bang khác. Nó có nguồn gốc từ Anh, vào năm 1843, khi một người đàn ông tên là Daniel M’Naghten toan ám sát thủ tướng, ngài Robert Peel. Hắn bắn trật và giết chết viên thư ký của thủ tướng, Edward Drummond. Trong phiên tòa, chứng cứ cho thấy rõ M’Naghten bị mắc một chứng mà ta có thể gọi là chứng hoang tưởng tâm thần phân liệt. Bồi thẩm đoàn ra phán quyết vô tội, viện lý do tâm thần. Từ đó điều luật M’Naghten này được thiết lập. Nó vẫn được áp dụng tại Anh ở mười sáu tỉnh.”

“Điều luật M’Naghten có ý nghĩa gì?”

“Điều luật M’Naghten khá đơn giản. Mọi người đều được giả định là tỉnh táo, và để thiết lập sự biện hộ dựa trên lý do tâm thần thì phải chứng minh được rõ ràng rằng khi bị cáo làm những gì anh ta đã làm, anh ta đang mất lý trí do một chứng bệnh tinh thần khiến anh ta không biết bản chất và mức độ của hành động mình đang làm, hoặc nếu anh ta có biết những gì mình đang làm thì anh ta không biết điều đó là sai trái.”

“Ông có thể giản lược được không?”

“Được. Nếu bị cáo không thể phân biệt đúng sai, thì về mặt pháp lý anh ta bị tâm thần.”

“Xin vui lòng định nghĩa thế nào là tâm thần.”

“Về mặt y học mà nói, nó không có định nghĩa. Nó hoàn toàn là một chuẩn mực pháp luật cho trạng thái và điều kiện tâm thần của một người.”

Jake hít thở sâu rồi dấn tới. “Nghe đây, ông bác sĩ, dựa trên khám nghiệm của ông đối với bị cáo, ông có ý kiến nào không về tình trạng tâm thần của Carl Lee Hailey hôm 20 tháng Năm năm nay, vào lúc diễn ra vụ bắn súng?”

“Vâng, tôi có.”

“Và ý kiến đó là gì?”

“Theo ý kiến của tôi,” Bass chậm rãi nói, “bị cáo đã hoàn toàn mất kết nối với thực tại khi con gái của ông ta bị hãm hiếp. Khi ông ta nhìn thấy con bé ngay sau vụ hãm hiếp, ông ta đã không nhận ra nó, và khi ai đó nói với ông ta rằng con ông bị hãm hiếp tập thể và bị đánh đập, suýt nữa bị treo cổ, đã có điều gì đó rạn vỡ trong đầu của ông ta. Đó là một diễn giải rất cơ bản, nhưng đó là điều đã xảy ra. Một thứ gì đó rạn vỡ. Ông ta đã bị mất kết nối với thực tại.

“Chúng phải bị giết. Ông ta có lần nói với tôi rằng khi gặp họ lần đầu tiên tại tòa, ông ta thấy không thể hiểu nổi vì sao các cảnh sát lại bảo vệ cho họ. Ông ta luôn chờ đợi một cảnh sát rút súng ra và bắn nát đầu của họ. Vài ngày trôi qua và không ai giết họ cả, cho nên ông ta hình dung đó là việc của ông ta. Ý tôi là ông ta cảm thấy phải có ai đó trong hệ thống hành quyết hai gã kia vì họ đã cưỡng hiếp cô con gái nhỏ của ông ta. Ông Brigance, điều mà tôi đang nói là, về mặt tâm thần, ông ta đã rời khỏi chúng ta. Ông ta đá ở trong một thế giới khác. Ông ta bị ảo giác. Ông ta đã bị điên.”

Bass biết mình đang nói tốt. Giờ thì ông đang nói với bồi thẩm đoàn, chứ không phải với luật sư nữa.

“Một ngày sau vụ hãm hiếp, ông ta đã nói chuyện với con gái của ông ta ở bệnh viện. Con bé nói rất khó nhọc với các quai hàm bị vỡ và những vết thương khác, nhưng nó có nói rằng đã thấy ông ta trong rừng, đang chạy đến để cứu nó, và nó đã hỏi ông ta vì sao ông ta lại biến mất. Giờ thì ông nghĩ coi, ông có thể hình dung chuyện đó tác động thế nào đến người cha không? Con bé sau đó còn nói với ông ta rằng nó đã van xin được gặp cha, và hai gã kia đã cười vào nó, bảo nó rằng nó chẳng có thằng cha nào cả.”

Jake để cho những lời đó lắng đọng. Anh nhìn dàn ý của Ellen và thấy chỉ còn hai câu hỏi nữa.

“Nghe đây, ông Bass, dựa trên các quan sát của ông đối với Carl Lee Hailey, và dựa trên những chẩn đoán của ông về trạng thái thần kinh của ông ta vào lúc diễn ra vụ xả súng, và với một mức độ tin cậy hợp lý trong y học, ông có ý kiến gì không về khả năng phân biệt đúng sai của Carl Lee Hailey khi ông ta bắn những gã đó?”

“Tôi có.”

“Và ý kiến đó là?”

“Xét tình trạng tâm thần, ông ta hoàn toàn không có khả năng phân biệt giữa đúng và sai.”

“Dựa trên cùng các yếu tố nêu trên, ông có ý kiến gì không về khả năng Carl Lee Hailey có thể hiểu và thích thú với bản chất và phẩm chất những hành động của ông ta?”

“Tôi có.”

“Và ý kiến đó là?”

“Theo ý kiến của tôi, với tư cách chuyên gia trong lĩnh vực tâm thần, ông Hailey hoàn toàn không có khả năng hiểu và thích thú với bản chất và phẩm chất những gì ông ta đang làm.”

“Cảm ơn ông, bác sĩ. Tôi xin giới thiệu nhân chứng.”

Jake gom cuốn sổ ghi chép rồi bước về chỗ ngồi đầy tự tin. Anh liếc nhìn Lucien, người đang mỉm cười gật đầu. Anh liếc sang bồi thẩm đoàn. Họ đang nhìn Bass và suy nghĩ về phần làm chứng của ông. Wanda Womack, người phụ nữ trẻ với vầng hào quang thiện cảm trên đầu, nhìn Jake, khẽ mỉm cười. Đó là tín hiệu tích cực đầu tiên mà anh nhận được từ bồi thẩm đoàn kể từ khi phiên tòa bắt đầu.

“Càng lúc càng tốt,” Carl Lee thì thầm.

Jake mỉm cười với thân chủ của anh. “Anh đúng là bị điên đó, bạn hiền.”

“Có thẩm vấn chéo không?” Noose hỏi Buckley.

“Chỉ vài câu hỏi thôi,” Buckley nói rồi chiếm bục diễn thuyết. Jake không thể hình dung nổi Buckley định tranh luận về tâm thần học với một chuyên gia, cho dù đó là W.T. Bass.

Nhưng Buckley không có kế hoạch tranh luận về tâm thần học. “Bác sĩ Bass, tên họ đầy đủ của ông là gì?”

Jake lặng người. Câu hỏi tiềm ẩn một điềm xui rủi. Buckley đã hỏi với vẻ rất hoài nghi.

“William Tyler Bass.”

“Ông thường được gọi là gì?”

“W.T. Bass.”

“Có bao giờ ông được biết đến với cái tên là Tyler Bass không?”

Vị chuyên gia lưỡng lự. “Không,” ông nhu mì nói.

Một cảm giác lo lắng khủng khiếp chợt dâng lên trong Jake, giống như một mũi giáo đâm thẳng vào bụng anh. Câu hỏi này chỉ có thể đồng nghĩa với rắc rối.

“Ông chắc chắn chứ?” Buckley hỏi với cặp chân mày nhướn lên và một sự hoài nghi khổng lồ trong giọng nói.

Bass nhún vai. “Có lẽ lúc tôi trẻ.”

“Tôi hiểu. Ông đã tuyên thệ rằng ông học y khoa ở Trung tâm Khoa học Y tế của Đại học Texas, đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Và trung tâm đó ở đâu?”

“Dallas.”

“Ông là sinh viên ở đó năm nào?”

“Từ 1956 đến 1960.”

“Và ông đăng ký học dưới tên nào?”

“William T. Bass.”

Jake đơ người vì sợ. Buckley đã nắm điều gì đó, một bí mật tăm tối từ quá khứ mà chỉ có Bass và ông ta biết được.

“Có bao giờ ông dùng các tên Tyler Bass khi còn là sinh viên y khoa không?”

“Không.”

“Ông chắc chắn chứ?”

“Tôi chắc chắn.”

“Số an sinh xã hội của ông là gì?”

“410-96-8585.”

Buckley đánh một dấu xác nhận bên cạnh một câu nào đó trong cuốn sổ ghi.

“Và ngày sinh của ông là ngày nào?” ông cẩn thận hỏi.

“14 tháng Chín, 1934.”

“Và tên của mẹ ông là gì?”

“Jonnie Elizabeth Bass.”

“Họ lúc chưa lập gia đình bà ta là gì?”

“Skidmore.”

Thêm một dấu xác nhận. Bass lo lắng nhìn Jake.

“Còn nơi sinh của ông?”

“Carbondale, Illinois.”

Lại một dấu xác nhận nữa.

Phản đối về tính thích đáng của các câu hỏi là một điều hợp thức và có thể được chấp nhận, nhưng đầu gối của Jake cứ nhũn ra như một miếng rau câu, còn ruột của anh thì bỗng dưng lỏng lét. Anh sợ sẽ phải xấu hổ nếu đứng dậy và cố nói.

Buckley nhìn các dấu xác nhận của ông và chờ trong vài giây. Mọi chiếc tai trong phòng xử đều chờ đợi câu hỏi kế tiếp, biết rằng nó sẽ rất bạo ngược. Bass nhìn vị D.A. như một tù nhân đang nhìn đội hành quyết, chỉ hy vọng và cầu nguyện các phát súng cách chi đó sẽ bắn trượt.

Cuối cùng, Buckley mỉm cười với vị chuyên gia. “Ông Bass, đã bao giờ ông bị kết án vì trọng tội chưa?”

Câu hỏi vang vọng qua sự tĩnh lặng và đáp xuống đôi vai run rẩy của Tyler Bass từ đủ mọi hướng. Ngay cả cái vẻ thoáng hiện trên khuôn mặt ông cũng tiết lộ được câu trả lời.

Carl Lee liếc nhìn luật sư của ông.

“Dĩ nhiên là không!” Bass lớn tiếng trả lời trong tuyệt vọng.

Buckley chỉ gật đầu rồi chầm chậm bước đến chiếc bàn nơi Musgrove, với tất cả sự trịnh trọng, trao cho ông những giấy tờ trông quan trọng.

“Ông có chắc không đấy?” Buckley lớn tiếng.

“Dĩ nhiên là tôi chắc,” Bass phản đối, mắt không rời các giấy tờ trông quan trọng đó.

Jake biết anh cần phải đứng dậy, nói điều gì đó hay làm điều gì đó để chặn cuộc tàn sát chỉ còn cách có vài giây, nhưng tâm trí anh đã tê liệt.

“Ông chắc à?” Buckley hỏi.

“Phải,” Bass lí nhí đáp.

“Ông chắc chắn như đã tuyên thệ trước bồi thẩm đoàn này chứ?” Đó là một câu hỏi cài bẫy, một câu hỏi sát thủ, một câu hỏi chết chóc bậc nhất, câu hỏi mà Jake đã vận dụng nhiều lần và khi nghe đến anh biết rằng Bass đã đi đời. Và Carl Lee cũng thế.

“Dĩ nhiên,” Bass trả lời với sự kiêu ngạo vờ vĩnh

Buckley bước vào cuộc giết chóc. “Ông đang nói với với bồi thẩm đoàn này rằng vào ngày 7 tháng Mười 1956, tại Dallas, Texas, ông không bị kết án do phạm trọng tội dưới cái tên Tyler Bass?”

Buckley đưa ra câu hỏi trong lúc nhìn bồi thẩm đoàn và đọc điều gì đó từ các tài liệu trông quan trọng.

“Đó là dối trá,” Bass nhỏ nhẹ nói một cách thiếu thuyết phục.

“Ông có chắc đó là dối trá không?”

“Đó là sự dối trá trơ tráo."

“Ông có phân biệt được dối trá với sự thật không vậy, bác sĩ Bass?”

“Chết tiệt, tôi phân biệt được chứ.”

Noose đặt cặp mục kỉnh lên mũi và chồm lên phía trước. Các bồi thẩm thôi xôn xao. Các phóng viên thôi ghi chép. Các cảnh sát ở dọc bờ tường phía sau đứng yên và lắng nghe.

Buckley nhặt lên một trong các tài liệu trông quan trọng và nghiên cứu nó. “Ông đang nói với bồi thẩm đoàn này rằng, ngày 17 tháng Mười 1956, ông không bị kết án vì tội ấu dâm ư?”

Giữa một cuộc khủng hoảng trong phòng xử, ngay cả ở phòng xử này, Jake biết điều rất quan trọng là phải giữ được một khuôn mặt lạnh và ngay thẳng. Điều rất quan trọng là các bồi thẩm, những người chẳng bỏ lỡ gì cả, phải có cái nhìn tích cực về luật sư của bị cáo. Jake đã tập luyện cái vẻ lạc quan, mọi-thứ-đều-tuyệt-vời, tôi đang-kiểm-soát-được qua nhiều phiên xử và nhiều sự bất ngờ, nhưng với tội “ấu dâm” thì sự lạc quan, tự tin hay vẻ ngoài nào đó đã lập tức bị thay thế bằng biểu hiện chán chường, nhợt nhạt, đau đớn, bị soi mói bởi ít nhất một nửa số người ngồi trong khoang bồi thẩm.

Nửa kia quắc mắt với nhân chứng trên bục.

“Ông có từng bị kết án về tội ấu dâm không, ông bác sĩ?” Buckley hỏi lại sau một khoảnh khắc im lặng kéo dài.

Không có câu trả lời.

Noose duỗi mình rồi khom về phía nhân chứng. “Xin vui lòng trả lời câu hỏi, bác sĩ Bass.”

Không đếm xỉa đến Ngài, Bass chằm chặp nhìn vị D.A. và nói, “Ông nhầm người rồi.”

Buckley khịt mũi bước đến chỗ Musgrove, người đang chìa ra vài tờ giấy trông quan trọng khác. Ông mở một chiếc phong bì lớn màu trắng, lấy ra thứ gì đó trông như những tấm ảnh 20 x 25 cm.

“Tốt lắm, ông Bass, tôi có vài tấm ảnh của ông do Sở Cảnh sát Dallas chụp ngày 11 tháng Chín, 1956. Ông có muốn xem không?”

Không có câu trả lời.

Buckley trao chúng cho nhân chứng. “Ông có muốn xem lại mấy tấm ảnh này không, bác sĩ Bass? Biết đâu chúng sẽ khơi lại được trí nhớ của ông.”

Bass chầm chậm lắc đầu rồi cúi xuống, trân trân nhìn đôi ủng.

“Thưa Ngài, Công tố xin đệ trình các bản sao này làm bằng chứng theo các đạo luật của Quốc hội về Phán xét Cuối cùng và Trình tự Kết án trong vụ việc mang tên Công tố của Texas chống lại Tyler Bass, nói rằng Công tố đã nhận các ghi chép từ những viên chức phù hợp ở Dallas, Texas, cho thấy ngày 17 tháng Mười, 1956, một người tên Tyler Bass đã bị tuyên có tội, và nhân chứng bác sĩ W.T. Bass này với người đó chính là cùng một người.”

Musgrove lịch sự trao cho Jake một bản sao tất cả những gì mà Buckley đang vung vẩy.

“Có phản đối gì trong phần giới thiệu vật chứng này không?” Noose hỏi, hướng về phía Jake.

Cần có một bài phát biểu. Một sự giải thích thông minh, xúc động, chạm được đến trái tim của các bồi thẩm, làm cho họ thổn thức vì cảm thương cho Bass và cho bệnh nhân của ông. Nhưng các trình tự luật lệ không cho phép điều đó vào lúc này. Tất nhiên bằng chứng được chấp nhận. Không đứng nổi dậy, Jake đành tiêu cực khoác tay. Không phản đối.

“Chúng tôi không còn câu hỏi nào khác,” Burkley tuyên bố.

“Có hỏi thêm gì không, ông Brigance?” Noose hỏi.

Trong một tích tắc thời gian có được, Jake không thể nghĩ ra điều gì anh có thể hỏi Bass để cải thiện tình thế. Bồi thẩm đoàn đã nghe đủ từ vị chuyên gia của bên bị.

“Không,” Jake lặng lẽ nói.

“Rất tốt, bác sĩ Bass, ông được miễn.”

Bass thoát nhanh qua cánh cửa nhỏ của rào chắn, xuống lối đi trung tâm rồi ra khỏi phòng xử. Jake nhìn chằm chặp sự ra về của ông, chuyển tải nhiều căm hờn nhất có thể. Rất quan trọng phải cho bồi thẩm đoàn thấy bị cáo và luật sư của ông ta bị sốc như thế nào. Bồi thẩm đoàn cần phải tin rằng một gã tội phạm bị kết án đã được đưa lên bục nhân chứng mà họ không hề hay biết.

Khi cửa khép lại và Bass đi khỏi, Jake đảo mắt quanh phòng xử, hy vọng tìm ra một khuôn mặt động viên. Không có khuôn mặt nào như vậy cả. Lucien vuốt râu nhìn sàn nhà. Lester ngồi khoanh tay, khuôn mặt thể hiện sự ghê tởm. Gwen thì đang khóc.

“Mời nhân chứng kế tiếp của ông đi,” Noose nói.

Jake tiếp tục tìm kiếm. Ở dãy ghế thứ ba, ngồi giữa giám mục Ollie Agee và giám mục Luther Roosevelt là Norman Reinfeld. Khi đôi mắt của ông ta và Jake chạm nhau, ông ta chau mày và lắc đầu như thể muốn nói “Tôi đã bảo rồi mà.” Phía bên kia phòng xử, hầu hết những người da trắng đều trông thanh thản, vài người thậm chỉ còn toét miệng cười với Jake.

“Ông Brigance, ông có thể mời nhân chứng kế tiếp của ông.”

Kháng lại cơ thể mình, Jake cố đứng dậy. Đầu gối anh oằn xuống và anh phải đổ về phía trước, hai lòng bàn tay chống lên bàn. “Thưa Ngài,” anh nói bằng một giọng cao, rin rít, giọng của kẻ thất bại, “ta có thể hoãn lại đến một giờ được không?”

“Nhưng, ông Brigance, mới có mười một giờ ba mươi thôi mà.”

Nói dối có vẻ là thích hợp. “Vâng, thưa Ngài, nhưng nhân chứng kế tiếp của chúng tôi không có ở đây, và sẽ không đến trước một giờ.”

“Rất tốt. Ta sẽ hoãn lại đến một giờ vậy. Tôi cần các luật sư vào phòng của tôi.”

Cạnh phòng thẩm phán có một phòng cà phê, nơi các luật sư thường lai vãng và tán gẫu hàng giờ, và cạnh đó là phòng vệ sinh. Jake đóng cửa phòng vệ sinh, khóa trái lại, rồi cởi áo vest ra, ném xuống sàn. Anh quỳ xuống cạnh bốn tiểu, chờ một lúc rồi nôn tháo.

Ozzie đứng trước thẩm phán, định nói riêng chi đó trong khi Musgrove và vị D.A. cười với nhau. Họ chờ Jake. Cuối cùng, Jake vào phòng và xin cáo lỗi.

“Jake, tôi có vài tin xấu,” Ozzie nói.

“Để tôi ngồi đã.”

“Tôi nhận được một cú điện thoại từ cảnh sát trưởng hạt Lafayette. Thư ký pháp luật của anh, Ellen Roark, đang ở trong bệnh viện.”

“Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Klan tóm được cô ta đêm qua. Đâu đó giữa nơi đây và Oxford. Chúng trói cô ta vào cây cọc rồi đánh cô ta.”

“Cô ta thế nào?”

“Ổn định nhưng nghiêm trọng.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Buckley hỏi.

“Chúng tôi không chắc lắm. Chúng chặn xe cô ta lại cách chi đó rồi đưa cô ta vào rừng. Cắt hết quần áo của cô ta rồi cắt tóc cô ta. Cô ta bị sang chấn và bị các vết cắt trên đầu, cho nên họ hình dung cô ta đã bị đánh.”

Jake lại thấy buồn nôn. Anh không nói được. Anh xoa bóp hai thái dương và nghĩ sẽ tốt hơn biết bao nếu người bị trói vào cọc và đánh đập chính là Bass.

Noose nhìn vị luật sư bên bị đầy thiện cảm.

“Jake, ông ổn chứ?”

Không có câu trả lời.

“Ta hoãn lại đến hai giờ đi nhé. Tôi nghĩ việc trì hoãn này có ích cho tất cả chúng ta,” Noose nói.

Jake bước chậm lên các bậc thang trước nhà, cầm theo một chai Coors đã uống cạn. Trong một khoảnh khắc anh đã nghiêm túc nghĩ đến việc chọi nó vào đầu Lucien. Anh nhận ra vết thương sẽ không được cảm nhận.

Lucien khuấy khuấy các viên đá, đưa mắt nhìn xa xăm về hướng quảng trường, nơi mà từ lâu đã vãn người, ngoại trừ các binh lính và đám thanh thiếu niên vẫn thường hay túm tụm quanh rạp hát để đón xuất đúp tối thứ Bảy.

Họ không nói gì cả. Lucien nhìn đi chỗ khác. Jake thì chằm chặp nhìn ông với chiếc chai rỗng trên tay. Bass đã ở cách xa hàng trăm cây số.

Sau khoảng một phút, Jake hỏi, “Bass đâu rồi?”

“Đi rồi.”

“Đi đâu?”

“Về nhà.”

“Nhà ông ta ở đâu?”

“Anh muốn biết để làm gì?”

“Tôi muốn xem nhà ông ta. Tôi muốn gặp ông ta trong nhà của ông ta. Tôi muốn đánh chết ông ta bằng cây gậy bóng chày ngay tại nhà của ông ta.”

Lucien tiếp tục khuấy các viên đá. “Tôi không trách anh.”

“Ông có biết không?”

“Biết gì?”

“Vụ ông ta bị kết án.”

“Quỷ tha ma bắt, làm sao tôi biết được. Chẳng ai biết cả. Án đã được xóa rồi.”

“Tôi không hiểu.”

“Bass nói với tôi biên bản vụ kết án ở Texas đã được xóa ba năm sau khi nó được thiết lập.”

Jake đặt chai bia xuống hàng hiên cạnh chiếc ghế của anh. Anh với một chiếc ly bẩn, thổi vào nó, bỏ đá vào rồi rót đầy Jack Daniel’s.

“Lucien, ông làm ơn giải thích có được không?”

“Theo lời Bass, cô gái khi ấy mười bảy tuổi, là con gái một thẩm phán danh tiếng ở Dallas. Họ mê đắm nhau, và ông thẩm phán bắt quả tang họ quấn quýt nhau trên trường kỷ. Ông ta bèn thúc đẩy việc khởi tố và Bass chẳng có cơ may nào cả. Ông ta bị tuyên phạm tội ấu dâm. Nhưng cô gái ấy đang yêu. Họ vẫn tiếp tục gặp nhau và cô ta có thai. Bass kết hôn với cô ta, và biếu cho ông thẩm phán đứa cháu trai đầu tiên của ông ta. Lão già đã đổi thái độ và vụ án đã được xóa.”

Lucien uống rồi nhìn ánh sáng từ quảng trường.

“Điều gì xảy ra với cô gái?”

“Theo lời Bass thì vài tuần trước khi tốt nghiệp trường y, vợ của ông—lúc đó lại mang thai lần nữa—cùng cậu con trai đã bị chết trong vụ lật tàu ở Fort Worth. Kể từ đó ông ta bắt đầu uống và không đoái hoài cuộc sống nữa.”

“Và ông ta chưa bao giờ kể cho ông trước đó?”

“Đừng có chất vấn tôi. Tôi đã bảo tôi không biết gì về chuyện này mà. Chính tôi đã hai lần đưa ông ta lên bục nhân chứng, nhớ lại đi. Tôi mà biết thì đâu có để cho ông ta tuyên thệ.”

“Tại sao ông ta không kể cho ông biết?”

“Tôi đoán ông ta nghĩ vụ án đã được xóa rồi. Tôi cũng chẳng biết nữa. Cơ bản mà nói thì ông ta đúng. Sau vụ xóa án thì chẳng có án nào khác cả. Nhưng ông ta quả thật đã từng bị kết án.”

Jake cay đắng hớp một ngụm whiskey dài. Nó thật kinh tởm. Họ ngồi im lặng trong mười phút. Trời đã tối và đám dế đang hợp xướng hết công suất. Sallie bước đến cửa chắn và hỏi Jake xem anh có muốn dùng bữa tối hay không. Anh cảm ơn và nói không.

“Chiều nay chuyện gì xảy ra vậy?” Lucien hỏi.

“Carl Lee tuyên thệ, và chúng tôi đã hoãn lại vào lúc bốn giờ. Bác sĩ tâm thần Buckley chưa sẵn sàng. Ông ta sẽ tuyên thệ vào thứ Hai."

"Carl Lee thế nào?”

“Ổn. Ông ta theo sau Bass. Ông có thể cảm nhận sự căm ghét từ các bồi thẩm. Ông ta trông cứng nhắc và có vẻ như trả bài. Tôi không nghĩ ông ta ghi được nhiều điểm lắm đâu.”

“Buckley thì thế nào?”

“Như phát rồ. Hắn quát tháo Carl Lee suốt cả giờ đồng hồ. Carl Lee liên tục cự cãi, rồi họ lời qua tiếng lại với nhau. Tôi nghĩ cả hai đều bị tổn thương. Trong phần hỏi thêm, tôi nói đỡ cho ông ta một chút, rốt cuộc ông ta trông có vẻ đáng thương và thiện cảm. Về cuối còn suýt khóc nữa.”

“Thế thì tốt.”

“Ừ, tốt thật đấy. Nhưng rồi họ cũng sẽ kết án ông ta, đúng không?”

“Tôi hình dung vậy.”

“Sau khi hoãn tòa, ông ta đã tìm cách sa thải tôi. Nói là tôi đã cãi thua vụ án của ông ta và đòi có luật sư mới.”

Lucien đi ra mép hàng hiên và mở khóa quần. Ông tựa vào cây cột và tưới nước cho các bụi cây. Ông đang đi chân trần và có vẻ là nạn nhân của lũ lụt. Sallie mang ra thức uống mới.

“Row Ark sao rồi?” ông hỏi.

“Ổn định, họ nói thế. Tôi đã gọi vào phòng của cô ta và y tá bảo cô ta không nói được. Mai tôi sẽ tạt qua.”

“Hy vọng cô ta không sao. Cô ta là một cô gái tốt.”

“Cô ta là một cô chó cực đoan, nhưng là một cô chó rất thông minh đấy. Tôi cảm thấy như mình có lỗi vậy, Lucien ạ.”

“Không phải lỗi tại anh. Thế giới này thật điên loạn, Jake ạ. Đầy rẫy những kẻ điên. Ngay lúc này đây, tôi nghĩ một nửa số người điên đó đang ở hạt Ford.”

“Cách đây hai tuần, chúng đã lên kế hoạch đánh mìn bên ngoài cửa sổ phòng ngủ của tôi. Chúng đánh đến chết ông chồng bà thư ký của tôi. Hôm qua chúng bắn hụt tôi, trúng phải một cảnh vệ. Giờ thì chúng tóm cô thư ký pháp luật của tôi, trói cô ta vào cây cọc, xé y phục của cô ta, cắt tóc cô ta, và cô ta đang nằm viện với một cơn sang chấn. Tôi tự hỏi kế tiếp sẽ là gì.”

“Tôi nghĩ anh nên đầu hàng đi.”

“Tôi sẽ làm vậy. Tôi sẽ đi đến tòa án ngay bây giờ, sẽ giao nộp chiếc cặp của tôi, sẽ hạ tay xuống xin đầu hàng. Nhưng đầu hàng ai đây? Kẻ thù là vô hình.”

“Anh không thể bỏ cuộc, Jake. Thân chủ đang cần anh.”

“Kệ xác gã thân chủ ấy đi. Hắn đã tính chuyện sa thải tôi hôm nay.”

“Ông ta cần anh. Chuyện này còn chưa xong được đâu.”

Nesbit ló nửa đầu qua cửa sổ xe. Nước dãi nhỏ xuống bên trái cằm, rơi xuống cánh cửa rồi kết thành một vũng tại chữ “O” của từ Ford trên huy hiệu của văn phòng cảnh sát trưởng ở hông xe. Một lon bia rỗng làm ướt đũng quần anh. Sau hai tuần lễ làm nhiệm vụ cảnh vệ, anh đã quen ngủ với muỗi trên chiếc xe tuần tra trong lúc bảo vệ cho tay luật sư của gã da đen.

Ít lâu sau khi ngày thứ Bảy chuyển thành ngày Chủ nhật, chiếc radio phá vỡ giấc ngủ của anh. Anh chộp chiếc micro trong lúc chùi cằm bằng cổ tay áo bên trái.

“S.O.8,” anh trả lời.

“10-20 của anh là gì?”

“Cùng chỗ cách đây hai giờ.”

“Nhà của Wilbanks hả?”

“Đó là 10-4.”

“Brigance có đó không?”

“Ở 10-4”

“Đánh thức anh ta dậy, đưa anh ta đến nhà của anh ta trên đường Adams. Khẩn cấp đấy.”

Nesbit bước qua những chai rỗng trên hàng hiên, đi qua cánh cửa không khóa, nơi anh tìm thấy Jake nằm ườn trên trường kỷ trong căn phòng ở mặt trước.

“Dậy đi, Jake! Anh phải về nhà! Khẩn cấp đấy!”

Jake bật dậy và đi theo Nesbit. Họ dừng lại ở các bậc thang trước nhà và nhìn qua mái vòm của ngôi nhà tòa án. Xa xa, một cụm khói đen đang cuồn cuộn dâng cao từ một quầng sáng cam, trôi từ từ về phía vầng trăng khuyết.

Đường Adams bị phong tỏa bởi đủ loại xe tự nguyện, phần lớn là bán tải. Mỗi xe đều có đa dạng những đèn báo khẩn cấp màu đỏ và màu vàng, tổng cộng ít nhất là hàng ngàn. Trong một bản hợp xướng tĩnh lặng, chúng xoay, chúng chớp, chúng đột nhập màn đêm và thắp sáng cả con đường.

Xe cứu hỏa đậu bừa ở trước nhà. Lính cứu hỏa và những người tình nguyện cuống cuồng làm việc, xếp thành hàng và tổ chức thành đội hình, thi thoảng làm theo các mệnh lệnh của viên chỉ huy cứu hỏa. Ozzie, Prather và Hastings đứng gần một xe cứu hỏa. Một số cảnh vệ đứng lần lữa bên cạnh một chiếc jeep.

Ngọn lửa chói lòa. Lửa gầm reo từ mọi cánh cửa sổ dọc theo mặt tiền, cả trên gác lẫn dưới nhà. Lán đậu xe đã hoàn toàn bị nuốt chửng. Chiếc Cutlass của Carla bốc cháy cả bên trong lẫn bên ngoài, riêng bốn bánh xe tỏa ánh sáng sậm hơn. Kỳ lạ thay, một chiếc xe khác, nhỏ hơn, không phải là chiếc Saab, cũng bốc cháy bên cạnh chiếc Cutlass.

Tiếng rền rĩ, tiếng lách cách của ngọn lửa, cộng với tiếng ẩm ầm của các xe cứu hỏa, và với những giọng nói lớn, tất cả thu hút những người láng giềng từ cách đó nhiều dãy nhà. Họ bu lại nhìn trên thảm cỏ bên kia đường.

Jake và Nesbit chạy dọc theo con đường. Viên chỉ huy nhận ra họ, liền chạy tới đón.

“Jake! Có ai trong nhà không vậy?”

“Không!”

“Tốt, tôi đã không nghĩ vậy.”

“Chỉ có con chó thôi.”

“Con chó!”

Jake gật đầu rồi nhìn căn nhà.

“Tôi rất tiếc”, viên chỉ huy nói.

Họ tụ tập cạnh chiếc xe của Ozzie đậu trước nhà bà Pickle. Jake trả lời các câu hỏi.

“Không có chiếc Volkswagen của anh trong đó, đúng không Jake?” Jake nhìn đường kẻ, chỗ đậu xe của Carla trong sự im lặng chưng hửng. Anh lắc đầu.

“Tôi nghĩ là không. Trông có vẻ như đó là nơi nó bột phát.”

“Tôi không hiểu,” Jake nói.

“Nếu không phải là xe anh thì có kẻ nào đó đã đậu ở đó, đúng không? Anh có để ý mặt sàn của lán xe cháy như thế nào không? Thường thì bê tông không bốc cháy. Đó là xăng. Kẻ nào đó đã tưới xăng lên chiếc VW, đậu nó lại rồi bỏ chạy. Có lẽ hắn sử dụng một thiết bị nào đó để đánh lửa.”

Prather và hai người tình nguyện đồng ý.

“Nó cháy bao lâu rồi?” Jake hỏi.

“Chúng tôi mới đến đây được mười phút,” viên chỉ huy nói, “khi đó nó đã cháy lớn lắm rồi. Tôi đoán cũng phải ba mươi phút. Đó là một vụ phóng hỏa chuyên nghiệp. Kẻ nào đó biết rõ hắn làm gì.”

“Tôi nghĩ ta không lôi được gì ra khỏi đó đâu, phải không nhỉ?” Jake bâng quơ hỏi dù đã biết câu trả lời.”

“Không cách chi, Jake ạ. Nó quá lớn rồi. Nếu có người bị kẹt thì người của tôi cũng chẳng thể vào được đó. Đó là một vụ phóng hỏa chuyên nghiệp.”

“Sao ông lại nói vậy?”

“Thì đó, anh nhìn xem. Nó cháy đều khắp ngôi nhà. Anh có thể thấy ngọn lửa từ mọi cánh cửa sổ. Cả trên gác lẫn dưới nhà. Điều đó rất bất thường. Chỉ trong một phút lửa đã leo đến mái.”

Hai nhóm khuân vòi nhích dần tới, phun nước về hướng các cửa sổ gần hàng hiên trước nhà. Một ống nhỏ hơn nhắm vào các cửa sổ trên gác. Sau khi đứng xem một vài phút cảnh dòng nước biến mất trong lửa mà chẳng có hiệu quả rõ rệt nào, viên chỉ huy nhổ nước miếng, nói, “Nó sẽ cháy rụi cho coi.” Nói xong ông biến mất quanh một xe cứu hỏa và bắt đầu quát tháo.

Jake nhìn Nesbit. “Anh giúp tôi việc này được không?”

“Tất nhiên, Jake.”

“Lái xe đến nhà Harry Rex rồi lôi ông ta về đây. Tôi không muốn ông ta bỏ lỡ cảnh này.”

“Được thôi.”

Trong hai tiếng đồng hồ, Ozzie, Harry Rex, và Nesbit ngồi trên xe tuần tra nhìn ngọn lửa hoàn thành dự đoán của viên chỉ huy. Thị thoảng, một người láng giềng dừng chân, thể hiện sự cảm thông và hỏi thăm gia đình. Bà Pickle, bà cụ dễ mến ở kế bên, đã khóc ròng khi được Jake thông báo rằng Max đã bị lửa thiêu.

Vào khoảng ba giờ, các cảnh sát và những người tò mò khác đã đi khỏi, và đến khoảng bốn giờ thì ngôi nhà nhỏ cổ kính phong cách Victoria chỉ còn là đống gạch vụn bốc khói. Những lính cứu hỏa cuối cùng dập nốt mọi dấu hiệu của khói từ đống đổ nát. Chỉ còn lại ống khói và bộ khung cháy rụi của hai chiếc xe là còn lừng lững phía trên đống gạch đá khi những đôi ủng cao su nặng đá và moi móc những thứ rác rến, tìm kiếm những tia lửa hay ngọn lửa ẩn nấp, cách chi đó có thể sống dậy từ phần còn lại của đống hoàng tàn. Họ cuộn lại các vòi phun cuối cùng khi mặt trời ló dạng. Jake cảm ơn, tiễn họ về. Anh cùng Harry Rex băng qua sân sau và xem xét tổn thất.

“Ối trời, chỉ là một ngôi nhà thôi mà,” Harry Rex nói.

“Anh gọi cho Carla kể giùm chuyện này được không?”

“Không. Tôi nghĩ anh nên gọi.”

“Tôi nghĩ tôi sẽ chờ.”

Harry Rex nhìn đồng hồ. “Gần đến điểm tâm rồi, đúng không nhỉ?”

“Hôm nay là Chủ nhật, Harry Rex ạ. Chẳng quán nào mở cửa đâu.”

“Ôi trời, Jake, anh chỉ là nghiệp dư thôi, tôi mới là dân chuyên nghiệp. Tôi có thể tìm thức ăn bất cứ lúc nào, bất cứ ngày nào.”

“Ở trạm dừng xe à?”

“Trạm dừng xe!”

“Được thôi. Và khi nào ăn xong chúng ta sẽ đi Oxford thăm Row Ark.”

“Tuyệt. Tôi đang nóng lòng chờ xem mái tóc lởm chởm của cô ta đây.”

Sallie nhấc điện thoại rồi ném ống nghe vào Lucien. Ông lóng ngóng cầm nó cho đến khi nó được đặt đúng chỗ bên cạnh đầu.

“Nghe đây, ai gọi đó?” ông hỏi, liếc nhìn vào bóng tối qua cửa sổ.

“Có phải là ông Lucien Wilbanks không?”

“Phải, ai đó?”

“Ông có biết Clyde Sisco không?”

“Biết.”

“Việc đó là năm ngàn.”

“Gọi lại tôi vào buổi sáng nhé!”