- XII -
Hình ảnh Trinh phảng phất luôn mấy hôm trong trí Nam và hiện lên mặt giấy trong đủ các kiểu, nào phía mặt, nào phía nghiêng, nào cười mỉm, nào cười hở hàm răng… Nam đã vẽ gần đầy một quyển sổ tay toàn dung nhan người thiếu nữ ấy. Và sáng hôm nay chàng dự định sẽ đến xin phép Kế họa một bức Trinh ngồi bán hằng nấu. Đó sẽ là một bức tranh lụa.
Nam lấy hộp bút chì ra vạch phác qua những màu khác nhau của các thứ bày bán. Và chàng muốn đến ngay nhà Kế để ngắm lại gian hàng chật hẹp. Bây giờ nghĩ đến màu sắc, chàng lại bị cái thú hội họa chiếm lấy cả tâm hồn: Chàng không nhớ tới Trinh nữa. Chàng chỉ nghĩ đến những nét nhịp nhàng và giản dị của thân thể nàng trong những nét lộn xộn, bộn bề của cảnh vât; màu vàng của chiếc áo nàng sẽ mặc, nổi bật lên trong các màu nâu sẩm, nhạt chung quanh.
“Chỉ sợ Kế không cho phép, hay Trinh không chịu ngồi làm kiểu mẫu!” Nam thầm đáp ngay ý tưởng ấy: “Chả có lý nào Kế lại không phép! Đối với các nghệ sĩ thì ngồi làm kiểu mẫu là một sự rất thường. Vả lại có mất danh mất giá gì đâu mà sợ.” Nam mỉm cười nghĩ tiếp: “ Còn như về phần Trinh thì có lẽ mình không cần lo xa quá. Cô con gái mà nhất lại cô con gái xinh đẹp của một họa sĩ chẳng khi nào sợ ngồi làm kiểu mẫu! Với lại phụ nữ An-nam ngày nay đã tiến lắm rồi. Họ cho là một danh dự, một hãnh diện được họa sĩ cầu cạnh đến xin vẽ hình. ” Trước mắt Nam như xếp hàng một dẫy gần chục bức họa các vợ bạn hay những bà chỉ quen biết xoàng. Những bản phác chàng thận trọng cất cả ở nơi ngăn tủ khóa và đã nhiều lần dùng làm nhân vật trong tranh lụa; và bình phong sơn của chàng. Đối với chàng, đó chỉ là những màu và nét ăn nhịp với nhiều màu và nét khác trong một tác phẩm.
“ Kiểu mẫu! thì mình thiếu gì kiểu mẫu, – tự phụ: Nam nghĩ thầm, – những kiểu mẫu cao quý, xinh đẹp nữa!” Thốt nhiên chàng nhớ tới một thiếu phụ do một người bạn giới thiệu với chàng: Đó là một bức tiếu tượng thứ nhất mà chàng đã bỏ dở, vì thấy người thiếu phụ lẳng lơ yêu mình một cách quá sỗ sàng. Chiều hôm ấy chàng đến chơi với chồng thiếu phụ, một công chức trẻ tuổi và giàu có. Thiếu phụ ra tiếp, cười cợt đáp: “Thưa anh nhà tôi đi vắng.” Lần đầu Nam nghe thiếu phụ gọi mình là “ anh”, nhưng chàng cũng không lấy làm lạ; vì theo cách xã giao mới, người ta kêu nhau bằng “ anh ” và “chị” như thế là thường. Nhưng khi Nam chào để về thì người đàn bà khóa ngay cửa lại và cợt nhả bảo chàng: “ Nhất định tôi không để anh đi đâu. Nhà tôi sắp về rồi! ” Nam phải cố nghiêm lời nói và giữ vẻ mặt lạnh lùng mới thoát được người thiếu phụ ngỗ ngược. Không phải vì chàng nhút nhát hay quá đạo đức, nhưng vì trong một phút khó chịu, chàng thấy cái đẹp hình thể của người đàn bà bỗng trở nên tầm thường và thô lỗ nữa.
Người ấy làm Nam ngấy vẽ tiếu tượng mất mấy tháng, cho tới ngày gặp bà Trâm, một nhan sắc lộng lẫy và lãnh đạm, một “pho tượng cẩm thạch” theo ý nghĩ của Nam. Nam phác không biết bao nhiêu bức về người đàn bà mà thời ấy chàng cho là đẹp nhất Hà-thành.
Nghĩ đến cái hình dung từ “ đẹp nhất Hà-thành ”, Nam mỉm cười. Vì những người đẹp Hà-thành mà chàng gặp ai chàng cũng có thể cho là đẹp nhất được, kể cả Trinh, và ai chàng cũng có thể cho là không đẹp một chút nào được, kể cả Trinh: cái đó cũng tùy từng lúc.
Như lúc này thì Nam vẫn còn thấy Trinh đẹp. Và chàng vẫn đương ao ước được vẽ ngay bức tranh lụa“ Trinh với cửa hàng đồ nấu”. “ Bức tranh ở ngay trước mắt, mà Kế không nhìn thấy!” Nam nghĩ thầm và chàng lấy làm lạ rằng chưa một lần nào Kế đã dùng con gái làm kiểu mẫu. Nhưng chàng bật cười lên tiếng, nghĩ tiếp “Thì anh chàng có còn vẽ bao giờ đâu mà cần đến kiểu mẫu! ”
Nam thấy Kế trái ngược hẳn với Hoành-sơn. Hoành-sơn thì đã mười mấy năm nay vẽ đi vẽ lại mãi ba người trong hằng trăm hằng nghìn bức tranh lụa. Chàng chỉ có toàn tranh lụa. Ba người ấy là vợ chàng, con gái chàng và đứa ở gái của chàng. Buổi đầu vợ chàng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, người bé nhỏ, tròn trĩnh, mặt bầu bĩnh, ngây thơ. Vì thế bao nhiêu nhân vật trong tác phẩm của chàng đều có tấm thân bé nhỏ, tròn trĩnh, và vẻ mặt bầu bĩnh, ngây thơ. Có lẽ đó cũng là một nguyên nhân sự đắc thắng của Hoành-sơn. Trong bức tranh lụa ít nét và có toàn các màu nâu nhũn nhặn của họa sĩ, cái dung nhan thật thà, đầy đặn như đặt đúng chỗ. Người ta tưởng đó là một sự dụng ý của họa sĩ, nhưng đó chỉ là một sự ngẫu nhiên, may mắn. Nam tin chắc là thế, và chàng cũng tin chắc rằng có khi thiên tài cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên, mặc dầu phần nhiều những đại tài đều là kết quả của suy xét, của tìm tòi khó nhọc trong bao năm.
Hoành-sơn không hề tìm tòi. Đương là một hoạ sĩ vô tài, Hoành-sơn nhảy vọt lên bực họa sĩ đại tài. Đương mờ mịt ở trong xó tối, bất thình lình, Hoành-sơn nổi tiếng ầm ỹ ở bên Pháp, ở bên ta. Cái tiếng lừng lẫy ấy, Hoành-sơn đã không phải cố gắng ham muốn để được có. Nó đã ngẫu nhiên, may mắn đến với chàng.
Nam vẫn không rõ vì sao Hoành-sơn lại xin và được vào học trưòng Mỹ-thuật. Chàng là một người ít nghệ thuật và có lẽ ít hiểu nghệ thuật nhất trường. Một tối, Nam đã đi nghe một nhà hội họa Tàu diễn thuyết về nghệ thuật. Chàng cười mãi và chàng bảo Ngọc, bạn chàng:
– Đó là nghệ thuật theo lối anh Hoành-sơn, nghệ thuật Tàu.
Mà nói cho đúng – đó lại là một sự ngẫu nhiên và may mắn trong đời nghệ sĩ của Hoành-sơn – thì Hoành-sơn được vào trường Mỹ-thuật, cũng là nhờ ở cái nghệ thuật Tàu của chàng. Ông giám đốc thấy bốn bức vẽ trong cái kiểu bình phong dự thí của chàng nét chấm phá hay hay, và già giặn nữa nên lấy thêm chàng vào học, dù bức vẽ tả-sinh của chàng sai lầm và vụng về.
Vụng về, đó là một bản tính kiên cố của Hoành-sơn. Vụng về hoàn toàn, vụng về từ người, từ đi đứng, từ lời ăn tiếng nói, từ lối trang điểm, từ cách xử thế cho chí cái nghệ thuật vụng về của chàng.
Trước kia chàng dạy học tại một trường hương thôn. Chàng sống ở đó một đời yên ổn, thẳng thắn, xa những ý muốn, những mơ ước cao xa. Chàng chỉ có mỗi một sở thích mà chàng tự phụ là một sở trường: Vẽ chấm phá những bức tứ bình. Trong lớp học, trong nhà riêng của chàng, người ta thấy treo nhan nhản những “phong cảnh”, những “ cành hồng con bướm ”, những “lan, mai, cúc, trúc” đóng khung sơ sài bằng tre.
Một hôm, một người bạn xa đến chơi, ngắm nghía và khen ngợi những bức tranh của chàng. Rồi thân mật bảo chàng:
– Anh nên chuyên nghề vẽ. Nghe nói ở Hà-nội sắp mở trường Mỹ-thuật, sao anh không làm giấy xin vào học?
Hoành-sơn cười, vì tính hồn nhiên của chàng cho rằng vẽ là một thứ chơi của những ngưài phong nhã. Vẽ, cũng như làm một bài thơ hay đánh một ván cờ! Làm gì mà phải cắp sách đi học như lũ trẻ con? Nhưng khi người bạn nói cho chàng và vợ chàng biết rằng chàng sẽ trở nên một giáo sư lương tháng hơn trăm bạc và nhất là trong mấy năm học tập, lương chàng còn to hơn lương một ông hương sư. Chàng thích chí cười ha hả bảo vợ:
– Thế thì tội gì lại không xin học! Ăn lương để ngồi vẽ hoài vẽ hủy thì còn gì sung sướng hơn?
Thế là chàng đệ đơn xin vào trường Mỹ- thuật.
Trong bốn năm học tập, vụng về của chàng không tiến, mà cũng không lui. Bị anh em trêu ghẹo, chàng chỉ cười, – cái cười ngây thơ cũng vụng về. Thỉnh thoảng có lúc bỗng dưng chàng phát khùng và văng ra đủ hết lời cáu kỉnh, lỗ mãng. Nhưng so với cái vụng về trong tranh, thì những cái vụng về trong ngôn ngữ, cử chỉ không đang kể. Hoành-sơn là một họa sĩ chưa vẽ cái gì đúng kiểu bao giờ. Mỗi lần ông giáo đi qua chỗ chàng là ông ta phải kêu: “ Trời ơi! trời ơi!”. Trước kia ông ta cũng có dừng lại bảo ban nhiều lời, nhưng sau thấy dạy bảo bao nhiêu, cũng vô ích, nên từ đó ông ta chỉ kêu:“Trời ơi!”, hoặc chỉ lặng thinh bước qua không dám ngó tới tác phẩm của chàng.
Nhưng Hoành-sơn vẫn năm năm lên lớp. Được thế là nhờ sự chăm chỉ, cần cù hơn là nhờ ở tài-năng. Hoành-sơn không vắng một buổi học nào, không bỏ dở một bức tranh nào. Thế thôi. So với cái tính lười biếng tự nhiên của các họa sĩ thì đó là một tính rất tốt mà ông giám đốc phải lưu ý tới. Nhưng không phải vì thế mà ông này yêu mến Hoành-sơn. Trái lại ông là một kẻ thù tàn nhẫn của chàng. Mỗi buỗi dạy vẽ sơn của ông, ông lại tìm ra được những tiếng độc địa mới mẻ để bình phẩm cái vụng về của người học trò hiền lành.
Rồi năm cuối cùng ông buồn rầu bảo Hoành-sơn “ Anh mà vẽ sơn thì thực ở đời không còn một sự gì mỉa mai hơn nữa. Tôi nói thế cũng khí tàn ác đối với anh đấy, nhưng sự thực là như thế, còn biết làm sao! Chẳng lẽ tôi lại khuyên anh thôi học. Công anh theo đuổi gần xong năm năm rồi. Nhưng tôi không hiểu tại sao anh lại xin vào trường Mỹ-thuật và nhất là tại sao tôi lại lấy anh vào… Tôi thử tìm một ngành mới cho cái tài của anh xem, nếu quả thực anh còn có thể có được chút tài nào. Bây này, nhà trường đương nghiên cứu tìm tòi về sơn An-nam và tranh lụa Tàu. Anh thử vẽ tranh lụa xem, và trước hết anh thử học cách bồi lụa của người Tàu xem. Tôi để riêng anh về ngành ấy, anh tha hồ nghiên cứu. Và tôi xin anh từ nay lánh xa hẳn tranh sơn dầu..”
Hoành-sơn vâng lời, hì hục làm việc. Trước kia, chàng có ở gần một họa sĩ Tàu và đã thường ngắm họ bồi và vẽ tranh lụa. Nay chàng cũng cứ thế làm theo. Rồi một hôm chàng đem mấy tác phẩm đầu tiên trình ông giám đốc. Vừa nhác thấy, ông này trợn mắt kêu:
– Trời ơi! trời ơi!
Hoành-sơn lo sợ, nhưng can đảm chờ nhận những lời mỉa mai cay nghiệt của ông thầy. Chàng kinh ngạc biết bao khi ông giám đốc tiếp luôn:
-Trời ơi! không ngờ! thực không ngờ! Anh Hoành-sơn, anh đã sáng tạo ra tranh lụa ở trường Mỹ-thuật rồi đây,cũng như tôi đã sáng tạo ra anh, anh đã biết chưa? Những cái ngây thơ, ngớ ngẩn, hời hợt, nông nổi của anh mãi nay mới đặt vào đúng khung! Trời ơi! thực không ngờ!
Hoành-sơn tưởng mình chiêm bao. Có thể tin được rằng đó là sự thực không? Cụ đốc khen mình! Và chàng cũng kêu: “Trời ơi!” Khiến các anh em bạn xúm lại đứng xem tranh của chàng đều phá lên cười. Ông giám đốc tưởng bọn họ chế nhạo Hoành-sơn, liền gắt:
– Các anh cười à? Các anh phải biết không một ai trong bọn các anh sẽ theo kịp Hoành-sơn. Đó là một thiên tài mà mãi nay tôi mới tìm ra. Tôi vẫn thường bảo các anh rằng vẽ sơn dầu các anh dù có tài đi nữa cũng chỉ trở nên một họa sĩ trung bình bên Pháp ; chứ vẽ tranh lụa hay tranh sơn An-nam, các anh sẽ có thể nổi tiếng lừng lẫy ở Á-đông và ở hoàn cầu nữa.
Sự thực, năm sau Hoành-sơn nổi tiếng ở bên Pháp. Ông giám đốc gửi tranh của chàng sang Pháp trưng bày ở các phòng triển-lãm, và được các nhà thẩm mỹ rất chú ý tới. Một tờ họa báo lớn viết bài phê bình ca tụng và in màu những bức tranh lụa của Hoành-sơn. Vì thế tác phẩm của Hoành-sơn bán rất chạy, rất đắt, và vì thế, sau có vài năm, họa sĩ đã dễ dàng kiếm được một món tiền dăm vạn.
Nhưng hình như cái sính chơi tranh lụa An-nam chỉ có một thời ở Âu Mỹ. Rồi người ta thấy chán. Và tác phẩm của Hoành-sơn đọng lại. Dẫu sao chàng cũng đã tậu ở quê nhà được hơn trăm mẫu ruộng. Và nay chàng có thể chỉ coi nghề vẽ là một thứ tiêu khiển như ngày xưa, khi chàng còn dạy học và vẽ những bức tranh thủy mặc treo tường.
Tưởng thế là lầm. Hoành-sơn đã có một thú khác, mãnh liệt hơn cái thứ hội họa: Thú tậu ruộng. Vì thế chàng vẫn chăm vẽ và năm nào chàng cũng có riêng một phòng triển lãm để bán tranh. Nay giá tranh tuy không cao nhưng tiếng của chàng vẫn còn, và tranh chàng bán vẫn chạy. Nghệ-thuật của chàng có tiến hay không, có lẽ chàng cũng chẳng cần nghĩ tới. Vả cái quan niệm về nghệ thuật của chàng, người ta thấy lờ mờ lắm.
Nhưng chàng vẽ. Và chàng vẽ như con chim hót, như con bướm bay, như hoa hồng nở, và như vợ chàng đẻ. Vì vợ chàng rất mắn, liền liền năm một hay ba năm hai. Ngày nay chàng có một gia đình khá đông: ba trai và năm gái. Đó, cũng như vợ chàng, toàn là những nhân vật trong tranh lụa của chàng. Trong tranh, dung nhan và thân thể người đàn bà đã biến đổi. Tuy không có nét dăn trên trán nhưng đôi mắt, cặp môi đã kém ngây thơ, tầm vóc đã mất mảnh dẻ, dáng bộ nhiễm đầy vẻ nặng nề, chậm chạp, dù người kiểu mẫu vận quê hay vận tân thời. Nhưng “ vai chính ” nay đã có con gái lớn của chàng kế chân, và cũng đóng được đầy đủ như vợ chàng thủa trước.
“Một gia đình họa sĩ! Một gia đình nghệ sĩ!”
Nam mỉm cười nghĩ thế. Và chàng trang nghiêm nghĩ tiếp: “Ừ! sao người ta lại không có thể cứ theo đuổi nghệ ỉhuật khi người có một gia đình đông con?” Chàng tưởng tượng vợ Hoành-sơn ra một người đàn bà siêng năng, cần cù, trông coi hết các việc tề gia để mặc chồng miệt mài với hội họa. “Như thế có lẽ một nghệ sĩ lại được rảnh rang và yên ổn hơn là sống một đời cô đơn và phóng lãng để hình chất và tinh thần tiêu tán trong những đêm chơi bời quá độ.” Tự nhiên Nam vui vẻ sung sướng. Và chàng nghĩ đến Lan với tất cả vẻ tươi đẹp, trí thông minh và tính thuần thục của người vợ chưa cưới.