← Quay lại trang sách

- XII -

Hai người tới một cái miếu trống thiên bên đường, Ngọc bảo Nam:

– Đây rồi. Anh đợi tôi một lát nhé, tôi lại đằng kia lấy bức tranh đang vẽ dở.

Nam để dựa xe đạp vào một gốc cây, rồi nằm xuống cỏ dang tay duỗi chân, ngửa mặt nhìn trời nghĩ ngợi. Cái bệ thờ rêu bám đen, trên có cái bình hương gãy một tai, chàng trông rất quen mắt. Nơi này, khoảng hai mươi năm, khi còn là một cậu học trò nhỏ, chàng thường đến chơi với mấy người bạn. Cả một thời xưa hiện về trong trí nhớ, thời vô tư lự, thời đẹp đẽ nhất của người ta.

Thốt nhiên chàng tưởng đến Biên, vì trong số những người bạn cùng đến đây với chàng thường có Biên. Rồi từ Biên, trí nghĩ chàng đi thẳng ngay tới Lan. Lan mới xa chàng sáng nay, ban nãy, mà chàng tưởng chừng đã lâu lắm rồi. Không phải vì tình yêu mà chàng cảm thấy thế, song những phút hiện tại bình thản, thảnh thơi chàng đương sống, chàng tưởng đã kéo dài từ bao năm. Một chút nhớ tiếc làm lòng chàng hơi bùi ngùi. Nhưng nhớ tiếc chỉ thoáng qua. Nam không kịp nghĩ và cũng không muốn suy xét kỹ xem mình nhớ tiếc cái gì. Chàng tự nhủ: “Việc gì mình đã làm, là xong rồi, dù tốt hay xấu. Nhưng việc xảy ra trong đời mình cũng vậy, nhớ tiếc làm gì! Sống đầy đủ phút hiện tại đó là tất cả thuật sống của người ta. ”

Chàng cất tiếng cười, và thấy mình sung sướng. Rồi lặng lẽ nghĩ đến hạnh phúc, nghĩ đến một cách hồn nhiên, không tìm tòi sâu xa. Trên đầu chàng lá cây đan dầy. Ở một khoảng thưa những chiếc lá, ánh vàng lọc qua, run run trong gió. Chàng ví với những chiếc thuyền bềnh bồng trên biển xanh, nhưng nhớ ngay ra rằng tư tưởng ấy chàng đã đọc ở bài thơ nào hình như hay lắm thì phải.

– Thế nào! Chưa làm gì hết?

Nam vẫn yên lặng nhìn trời, như không nghe thấy câu hỏi của bạn. Ngọc cũng để mặc chàng, một mình sửa soạn ngồi vẽ. Bỗng Nam hỏi:

– Anh Ngọc, sao người ta lại gọi là “mộng huyền” nhỉ?

Ngọc lơ đãng hỏi lại:

– Ai gọi thế?

– Các thi sĩ.

Ngọc cười:

– Các ông thi sĩ thì còn phải nói! Muốn gọi thế nào mà chẳng đưọc? Trời ngọt, ý xanh, gió tím…. Có trời hiểu!

Nam như vẫn theo đuổi ý nghĩ của mình:

– Có lẽ mộng huyền là mộng đen chăng? Nghĩa là tối đen mờ mịt, buồn rầu, sầu thảm…

Ngọc cười:

– Hay anh đương mơ mộng buồn rầu?

– Không, tôi chỉ nghĩ đến chữ “Mộng huyền” trong một câu thơ mới.

– Tôi thì tôi cho là mông mị huyền hoặc..

– Quyết nhiên không đúng. Ít ra cũng không đúng theo ý tác giả bài thơ, vì câu thơ tôi nhớ mang máng hình như: “đẹp tựa giấc mộng huyền”.Thiết tưởng đã đẹp thì không thể huyền hoặc được.

Ngọc đã bắt đầu vẽ, trả lời vẩn vơ:

– Biết đâu đấy!

Nửa giờ sau quay lại vẫn thấy Nam nằm ngửa nhìn trời, Ngọc hỏi:

– Anh nhất định không làm gì cả.

Nam đáp lại một tiếng “suỵt!” Ngọc cười:

– Cái gì mà bí mật thế?

– Tôi đương làm việc lung lắm.

Ngọc cười càng to:

– Làm việc? Mơ mộng là làm việc đấy?

– Mơ mộng cũng là làm việc. Nhưng tôi không mơ mộng. Tôi viết văn.

– Viết văn?

– Phải,viết văn. Tôi đương soạn một quyển tiểu thuyết dài lắm, dài ít nhất là bốn trăm trang. Vừa xong được phần thứ nhất, đến đoạn …

Ngọc trang nghiêm ngắt lời:

– Thôi vẽ đi, Nam! Đùa mãi, mất cả thời giờ.

Nam cũng trang nghiêm đáp lại:

– Anh cứ vẽ đi. Còn tôi, thì giờ này tôi thích viết hơn. Mà khi người ta đương viết thì cố nhiên người ta không thể vẽ được. Ai mà làm nổi cả hai công việc cùng một lúc, nhất hai công việc lại cùng khó khăn như nhau.

Ngọc yên lặng, lơ đãng, trí nghĩ để cả vào hội họa. Nam tiếp luôn:

– Vậy ra anh vẫn tưởng tôi nói đùa. Vì anh cho một họa sĩ không viết được văn. Tôi thì tôi thấy một bức tranh không khác gì một bài thơ hay một thiên tiểu thuyết…

Nam ngừng lại, và như chợt nghĩ ra, chàng kêu:

– Ừ, mà tôi tìm thấy rồi, anh Ngọc ạ.

Ngọc vừa cầm dao miết màu vừa hỏi:

– Anh tìm thấy cái gì đấy?

– Tôi tìm thấy rằng hội họa là tổ văn chương cũng như loài khỉ là tổ loài người.

– Nhưng loài khỉ không là tổ loài người. Vậy hội họa không thể là tổ văn chương được.

– Thế thì đáng tiếc.

– Nhưng anh bằng cớ vào đâu mà nói hội họa là tổ văn chương?

Nam cười:

– Anh ngắt lời làm tôi quên mất rồi. Những bằng cớ ấy chắc chắn lắm, vững chải lắm. Để khi nào chúng nó trở về trong óc tôi, tôi sẽ nói cho anh biết. Lại đây nữa nhé: Ban nãy hình như anh có đọc câu thơ: “Gió tím thổi ý xanh về”. Vậy rồi trong văn chương người ta sẽ phô bày tư tưởng toàn bằng màu cả cho mà xem. Văn chương phải đến trình độ ấy...

Ngọc ngắt lời:

– Tôi nói ý xanh, gió tím chứ tôi có đọc một câu thơ nào đâu! Nhưng xin anh viết cho xong thiên tiểu thuyết của anh đi.

– Nghĩa là để im cho anh vẽ, phải không?

– Không phải. Vì vừa vẽ vừa nói chuyện, sao không được?

– Anh nói đúng lắm. Không biết anh thế nào, chứ tôi thì lúc tôi vẽ mà tôi nói chuyện thì hình ảnh câu chuyện hiện thành nét, thành màu lên bức tranh ngay.

Ngọc cười:

– Vậy khi vẽ không nên nói chuyện phiếm, sợ nét và màu thành phiếm mất.

– Phiếm càng hay. Vì còn gì đẹp bằng một bức tranh mà nét và màu chỉ là nét và màu chạy lăng quăng, như mấy con bướm bay lượn trên những đóa hoa xuân. Điều ấy can hệ lắm đấy nhé. Tôi biết một họa sĩ đã sản xuất một tác phẩm rất tầm thường, chỉ vì trong khi vẽ, vặn đi vặn mãi một đĩa hát.

– Đĩa hát gì?

– Đĩa “La Victoire”! Thành thử các nhân vật trong bức tranh mà họa sĩ muốn hoạt động vui vẻ như sự thắng trận, chỉ cứng nhắc và đầy lòng tự phụ kiêu căng..

Ngọc phá lên cười:

– Anh nói Bắc-Hải, phải không? Nghe nói một lần họa sĩ vẽ mây tàu trong điệu âm nhạc một bài “mélođie” của Schubert. Nếu anh viết tiểu thuyết thì đó, sẵn sàng một nhân vật tiểu thuyết.

– Nhân vật tiểu thuyết thì thiếu gì! Ai mà không là nhân vật tiểu thuyết. Kén chọn nhân vật cầu kỳ, ngộ nghĩnh để tả thì có khác gì kén chọn toàn người đẹp để vẽ… Nhưng hình như tôi chưa nói cho anh biết đại ý cuốn tiểu thuyết của tôi nhỉ?

– Hình như thế.

– Anh có biết nguồn cảm hứng của tôi, tôi đã tìm thấy ở đầu không?… Ở anh. Hay đúng hơn: chính anh đã gợi nguồn cảm hứng cho tôi.

– Thế à? Hân hạnh cho tôi quá!

– Anh đừng vội tự phụ. Vì nguồn cảm hứng chỉ là một phần cỏn con, một trong nghìn phần của sự thành công. Tưởng rằng tìm thấy nguồn cảm hứng là đủ cũng chẳng khác gì chỉ nghĩ đến món ăn mà đã cho là đủ. Còn cần phải là một người bếp khéo nữa chứ.

Ngọc mát mẻ:

– Sự so sánh của anh kể cũng hơi nhạt nhẽo và tầm thường.

– Nhưng không sao, quý hồ anh hiểu. Tôi nói anh đã cho tôi nguồn cảm hứng. Quả có thế. Ban nãy anh kề chuyện anh Thuyết và cô tình nhân bé bỏng của anh ấy. Thuyết sẽ là vai chính trong tiểu thuyết của tôi. Đại khái cốt truyện sẽ như thế này: một văn sĩ đương sống một đời bình thường, giản dị. Ấy là nói về bề ngoài. Còn bề trong thì chả đời một ai lại bình thường giản dị hết. Có một tâm hồn phong phú, đáng lẽ văn sĩ nên tự cho là đủ. Nhưng văn sĩ vẫn băn khoăn, và luôn luôn như nghe có tiếng gọi xa xăm ở một cõi đời huyền ảo. Tiếng gọi một ngày một thêm thúc giục. Rồi một hôm văn sĩ choàng tỉnh: chàng thấy cái đời bình thường giản dị của chàng không đáng sống. Một đời thể chất đáng sống cho nghệ sĩ phải cân đối, phải xứng hợp với cái đời tinh thần phong phú của mình. Nếu không, cái phong phú bên trong sẽ bị ảnh hưởng của cái nghèo nàn bên ngoài mà một ngày một trở nên tầm thường, vô vị, rồi cũng nghèo nàn theo. Tới đó thì tác phẩm sản xuất ra sẽ không còn một chút giá trị gì. Bởi vậy văn sĩ vội dấn thân vào một đời sống phong phú…

Ngọc không ngừng vẽ, phê bình:

– Cái luận đề của anh hơi cũ và hơi sáo.

– Có lẽ. Vả ý tưởng gì mà không cũ, không sáo. Có cái gì mà cổ nhân chưa nói chưa viết? Mới chỉ ở cách nói cách viết mà thôi.

Ngọc cười:

– Vậy cách viết của anh thì hẳn mới, vì lần này là lần đầu anh cầm bút; tôi nói bút viết, vì bút vẽ thì anh cầm đã lâu và đã khá thạo. Nhưng cái đời thể chất phong phú kia bắt đầu từ đâu và đi tới đâu?

Nam giọng hơi buồn rầu:

– Đó là một đời sáo như anh vừa nói. Nhưng biết sao, lỗi không tại tôi, lỗi chỉ tại đời,vì đời sống nào mà không sáo, kể cả đời sống của Diogène. Chỉ có tâm hồn phong phú là luôn luôn mới lạ. Đó cũng lại là một ý chính trong tiểu thuyết của tôi: Văn sĩ của tôi sẽ tìm mới lạ trong sự biến đổi bề ngoài, sẽ tìm cảm hứng trong sự ngây ngất say sưa. Nhưng đi từ chán nản này đến chán nản khác, và thất vọng cứ ấn mãi chàng vào trong thất vọng. May mà chàng sẵn có một tâm hồn phong phú, và chính tâm hồn chàng trong một phút tự chủ đã cứu thoát chàng ra khỏi cái đời hắc ám, cái đời nồng nực trong men rượu, và u mê trong khói thuốc phiện.

Ngọc đứng dậy vừa ngắm nghía bức tranh đặt trên giá, vừa nói:

– Sao mà tiểu thuyết của anh giống tiểu thuyết “Băn khoăn” của Nguyên thế! Giống cả ở chỗ mãi mãi sẽ dự định viết.

Nam thản nhiên đáp:

– Nếu giống thì tôi chả cần viết nữa, để rồi đọc tiểu thuyết của anh Nguyên cũng đủ.

Ngọc cười:

– Không hề gì, vì ít ra cũng vài chục năm nữa Nguyên mới viết xong. Nhưng giống nhau thì giống nhau thực…Một đằng tìm quên có lẽ vì buồn, một đằng tìm sống một đời thể chất phong phú có lẽ cũng vì buồn. Giá đừng ai buồn cả thì sẽ không có tiểu thuyết. Mà muốn không buồn tất phải có một lý tưởng để theo đuổi.

Nam ngồi dậy trân trân nhìn Ngọc hỏi:

– Lý tưởng ấy thuộc về xã hội, hay thuộc về quốc gia đây?

– Tùy! Nhưng hãy tạm có một lý tưởng dễ dàng để theo, để quên, để quên buồn nản: Tìm cái đẹp.

– Tìm trong đời sống?

– Chứ ai lại đi tìm cái đẹp trong đời chết bao giờ!

– Biết đâu! Nhưng anh ngồi lại vẽ, tôi về trước nhé?

– Chờ cùng về một thể, chứ!

– Hay anh cứ ngồi chờ ở đây, tôi đi đằng này một lát, rồi chút nữa tôi mua các thức ăn đem lại đây, chiều chúng ta hãy về cũng được.

Dứt lời Nam nhảy xe cắm đầu chạy mau, Ngọc nhìn theo lắc đầu.