Chương 15
CON người xứng danh với Thượng Đế chính là ở điểm tự chốn hữu hạn luôn luôn ngưỡng vọng về vô biên. Đám người cương quyết ra đi chính là cương quyết vùng ra khỏi cái ngột ngạt cục bộ tìm lại cái mênh mông toàn bộ, như cá thèm khát vùng nước mênh mông. Tội nghiệp cho những kẻ giữa đường đứt gánh. Hải, trưởng nam của ông Giáo, nghĩ tương tự như vậy, mừng chị và em đi thoát.
Trước đây, vào tối hôm 30-4-1975, chính Hải là đứa con đầu tiên đã nói với bố: “Bố phải đi, tư tưởng của bố chống họ như vậy, bố ở lại sao được!” Ngày 2-5 Hải xin phép bố ra đi với thằng bạn thân cùng học ở tiểu học và cùng tên là Hải, chỉ khác đứa thì tầm vóc đẹp trai kiểu thư sinh (Hải, con ông Giáo), đứa kia thì to lớn lực lưỡng lực sĩ. Phải, tự ngày đó ông Giáo đã hiểu cái cảm giác nhói buốt nơi tim, thót buốt nơi bụng của sinh ly. Bà Giáo đi chợ chưa về, ông Giáo lấy ra mười ngàn cho con, giúp con ghi địa chỉ một số bạn thân bên Pháp và Mỹ và ân cần dặn con là chỉ khi nào cực chẳng đã hãy phiền đến các bác, và khi đã cầu cứu thì cũng chỉ phiền các bác ở mức tối thiểu. Ông Giáo vốn tối kỵ cung cách lạm dụng lòng tốt của người khác.
Bà Giáo xách giỏ từ chợ về, bà rụng rời khi được ông Giáo cho hay Hải đã đi. Giỏ thức ăn rớt khỏi tay bà, bà ôm mặt quay đi. Bà lên lầu. Trưa hôm đó bà không làm cơm, mặc mấy đứa con gái. Buổi chiều hai mắt bà xưng húp. Ba hôm sau cũng vào buổi chiều, bà lật đật chạy lên gác, gọi ông Giáo tự dưới cầu thang: “Anh ơi, thằng Hải về rồi!”
Nguyên do: Mười giờ ngày 2-5 hai thằng Hải lên xe đò tại xa cảng miền Tây đi Gò Công. Tới đây không khí vắng lặng rờn rợn, dân chúng ngơ ngác, súng vứt đầy đường, cờ giải phóng kéo phấp phới trên dinh Tỉnh Trưởng, trước dinh, hàng đống súng gom lại. Các cửa biển đều đóng, hai thằng Hải đi kiếm hoài mấy ngày không gặp ghe cho ra khơi. Đành về. Lên xe đò làm bộ là lính ngụy trở về với gia đình, chủ xe cho đi quá giang nhờ không lấy tiền, dọc đường còn thấy trên mười xác Việt Cộng chết nằm rải rác bên vệ đường chưa chôn. Xe chạy được nửa đường thì kẹt không tiến lên được vì một chiếc cam nhông nào đó pan nằm chình ình giữa đường. Hai chú xuống đi bộ trên mười cây số mới gặp được một xe chở heo cho đi quá giang về Sài Gòn.
Một tuần sau hai thằng Hải lại thử một chuyến đi nữa. Lần này trưởng nam ông Giáo không xin thêm tiền bố. Hải lực sĩ, nhà bán phở phát tài, được anh cho hai lạng vàng đủ để hai đứa tính chuyện ra đi. Hai đứa xuống ghe ở ngay bến
Hàm Tử khoảng tám giờ sáng. Trên ghe chở hai mươi bảy khách hàng (không kể chủ ghe) trong số có một người, ý hẳn là một cựu quân nhân, nhét một khẩu súng sáu xinh xinh vào một ổ bánh mì, nói khẽ với đôi bạn Hải: “Các chú cứ yên chí, nếu chủ ghe ra khơi giở quẻ đã có anh.”
Ghe máy lên đường, có mấy chặng bị du kích chặn hỏi, chủ ghe nói cho những người này đi Vũng Tàu vì đường xe hơi bị nghẽn. Cũng có đám du kích xuống khám, lật ván ghe, không thấy gì khả nghi, cho đi. Ghe lênh đênh ngoài khơi hai ngày hai đêm, một lần gặp tàu Hòa Lan, ghe kéo cờ trắng cầu cứu, tàu có quay mũi lại định vớt, nhưng lúc đến gần chẳng hiểu nghĩ sao lại bỏ đi. Kế đó gặp một tàu Hải Quân Hoa Kỳ loại chiến đấu nhỏ, tàu chạy song song bên hông ghe một quãng nhỏ rồi cũng bỏ đi. Hải Quân Mỹ trong khoảng tháng 5 năm đó (1975) đương rút khỏi hải phận Việt Nam thì phải.
Sang ngày thứ ba lênh đênh, biển hết êm đẹp bắt đầu sóng lớn. Một đám quân nhân hiểu biết trên ghe (trong số có anh chàng nhét súng sáu vào ổ bánh mì) đề nghị với chủ ghe chở mọi người đi Thái Lan, tới nơi họ cũng sẽ trả bằng vàng. Chủ ghe không chịu, trở về còn đi chuyến khác. Như vậy chắc ăn hơn. Và ghe đã trở về bến Hàm Tử trong Chợ Lớn an toàn. Thế là lần thứ hai bà Giáo khóc nhìn con đi rồi lại khóc thấy lại con.
Buổi đầu “cách mạng” các bà con miền Nam tiếp đón nồng nhiệt bà con miền Bắc, coi đây như một thứ trang điểm thời thượng, một thứ bùa hộ mệnh, ra cái điều gia đình cũng có người “cách mạng,” cũng có hơi hướng “cách mạng,” cũng thấp thoáng ra vô những người mũ cối dép râu. Bầu không khí hân hoan này qua đi rất mau với phong thái những cán bộ tự miền Bắc tới tổ chức cơ sở quần chúng trong phường khóm, reo rắc mâu thuẫn, căm hờn kiểu miền Bắc nhưng hết sức lạc điệu tại miền Nam; với phong thái xảo, tham lam của một số lớn người miền Bắc vào thăm họ hàng tại miền Nam. Khuôn mặt Sài Gòn
- cũng là khuôn mặt của cách mạng – bệ rạc đi trong thấy với thời gian.
Một cán bộ văn nghệ có tinh thần vô tư tới Sài Gòn ngay những buổi đầu, ngủ khách sạn Caravelle đường Tự Do, trên thượng tầng nhìn xuống đám xe cộ ngút ngàn trên các ngả đường giao thông của khu trung tâm Sài Gòn mà cảm thấy choáng váng. Anh không ngờ đời sống Sài Gòn phồn thịnh vượt xa các thủ đô Đông Âu (kể cả Moscou của Liên Sô) là những nơi anh đã từng đi qua. Anh có cô em gái cũng đã từng du học sáu năm ở Roumanie, anh viết thư về Hà Nội giục em hãy cố gắng xin vào Sài Gòn tham quan ngay đi. Càng về sau anh càng nóng lòng mong cô em gái vì, thật là thê thảm, anh rõ ràng thấy Sài Gòn từng ngày đương tắt ngấm đi rất nhanh những hào quang cũ và giống dần Hà Nội. Anh là đảng viên, và với các bà con bằng hữu thân tình anh gặp lại Sài Gòn, anh tâm sự thẳng là chỉ vào Đảng đê yên thân. Là đảng viên nên anh hiểu đường lối Đảng nhất định sẽ triệt hạ bất kỳ kẻ nào có nền kinh tế độc lập với Đảng, triệt hạ bất kỳ kẻ nào không cần biết tới Đảng mà vẫn sống thoải mái. Đời sống không riêng gì Sài Gòn mà cả miền Nam sẽ như hệt miền Bắc hắt hiu nghẹt thở, lúc đó tổ chức Đảng đã theo thế chân rết bám tới tận đơn vị tổ, dân chúng đói khổ đến đâu Đảng vẫn giữ được địa vị độc tôn. Và tới lúc đó tất cả chỉ còn thuần danh từ, dĩ nhiên càng những danh từ hoa mỹ càng cho người nghe một cảm giác chán chường đến não nề, tác dụng ngôn từ không còn là để chuyên chở, phản ảnh sự thực nữa mà là một phương tiện để dối người và dối mình. Người cán bộ văn nghệ có tinh thần vô tư đó, là đảng viên chỉ để yên thân đó, luôn luôn thẳng thắn nghĩ vậy. Anh rất khoái đi gặp lại một thằng văn nghệ cũ di cư vào Nam từ 1954, có một cảm quan và cái nhìn hết sức bén nhạy, hắn đã thân mật nói thẳng với anh bằng một giọng hài hước đặc biệt của những kẻ quen sống trong bầu không khí tự do dân chủ: “Tao nói thực với mày, nhìn vào đời sống thực tế rõ ràng ngày một xuống dố thật nhanh, nghe những lời hoa mỹ nơi đài phát thanh, đọc những lời hoa mỹ trên khắp các mặt báo, tao có cảm tưởng chứng kiến cảnh một thằng chủ bất lực vì cù đinh thiên pháo đương hãm hiếp một cô gái thất thế bằng cái lõi ngô hay củ khoai gì đó, trong khi đám đàn em (đám văn công, văn nghệ, văn nô) của nó ôm đàn cất cao giọng đồng thanh ca ngợi chủ soái chúng đương ân ái với Hằng Nga và sẽ hạ sinh ra những hoàng tử kiêu hùng, những công chúa chi sa cá lặn. Đ.m. đúng là thủ dâm bằng mồm!”
Đám sinh viên đã thấy rõ biển khơi trí thức đương biến thành vũng lầy rồi vũng chồ trí thức và hai câu thơ của người bạn trẻ nào đó thống thiết và hiện thực làm sao, được phổ biến rất nhanh rất rộng:
Dép cao su giẫm nát hồn tuổi trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai.
Dân chúng Sài Gòn sợ đói, có những ông bố bà mẹ mang gạo từ miền ruộng lên tiếp tế cho con cháu ở đô thành bị công an chặn. Một bà mẹ phản ứng bộc trực theo tính tình người Nam đứng ngay trước cửa đồn công an la lối: “Trước đây ai che chở cho bọn mi, ai tiếp tế cho bọn mi mà bây giờ bọn mi ơn trả nghĩa đền như vậy?”
Tại chợ có những bà miền Nam nói với những bà miền Bắc di cư vào Nam từ sau hiệp định Genève, đại ý: “Bây giờ chúng tôi mới thông cảm sự ra đi bỏ làng bỏ nước của các bà.” Các bà miền Bắc cũng đáp lại đại ý: “Chưa hế đâu các bà ơi, đây mới là màn đầu thôi, còn nhiều cụp lạc về sau này nữa.”
Vào dạo này ông Giáo đã bị bắt và còn giam ở trại Phan Đăng Lưu, Gia Định. Hải học xong lớp 12 trung học, bỏ không thi và bỏ học luôn, kiếm việc làm giúp thêm cho ngân quỹ gia đình của mẹ vài chục bạc hàng tháng, thêm chút nhu yếu phẩm tiếp tế cho bố. Cũng khoảng thời gian này Hải thử thời vận vượt biên hai lần nữa, đều đi về miền Tây, một lần tới Rạch Giá, một lần tới Vĩnh Long nhưng đều thất bại, may không bị bắt tại trận, về được đến nhà an toàn. Công an phường gọi Hải đi nghĩa vụ lao động, Hải không đi. Gọi đi nghĩa vụ quân sự. Sức mấy! Công an phường đòi bà Giáo là chủ hộ mang sổ hộ khẩu tới, chúng đóng dấu loại Hải ra khỏi sổ hộ khẩu. Mặc kệ! Nếp sống Hải hoàn toàn tạm bợ từ đây.
Chiến dịch kiểm kê tài sản đánh tư sản thương mại, rồi đánh tiểu thương, rồi kiểm kê văn hóa đạt tới tối cao độ vào năm 1978, cả Sài Gòn sống trong cơn sốt kinh hoàng chạy đồ, bán đồ, gửi đồ, gửi sách, giấu vàng. Đám cán bộ nòng cốt đã chuẩn bị thiết lập một đấu trường điển hình ở ngay đầu xa lộ Biên Hòa. Phúc thay cho những người miền Nam thật thà, rộng rãi, bộc trực, chính quyền bị mắc sâu vào cuộc chiến Việt Miên, rồi lại cuộc chiến biên giới Hoa Việt, cả guồng máy đấu tố, khủng bố miền Nam giảm hẳn tốc độ. Tất cả những người dân Việt miền Nam nghe những lời nguyền rủa, kết tội Việt Nam ngu xuẩn hiếu chiến trên các đài phát thanh quốc tế đều cảm thấy như họ nguyền rủa ai, kết tội ai, tuyệt nhiên không một ai đồng hóa mình với danh từ Việt Nam giả trá đó. Người Việt Nam thực không phải thế, nước Việt Nam thực không phải thế.
Khi Hải vừa bị gạch sổ hộ khẩu, một người học trò cũ của ông Giáo mang Hải đi làm rẫy tại Bà Rịa. Khi guồng máy khủng bố của chính quyền xã hội chủ nghĩa buộc phải giảm phần khắc nghiệt vì bị mắc vào vòng chiến tranh, Hải lại trở về với gia đình, mang tên em (Vi) vào làm một cơ sở tổ hợp sản xuất lốp xe đạp.
Vào dịp cuối năm Kỷ Mùi đó (ông Giáo còn bị giam giữ trên cao nguyên), chính bà Giáo đã cùng hai bà bạn đồng cảnh cùng đứng ra giao thiệp tìm đường cho ba bà gửi được ba đứa con trai (Hải, Đông, Phân, cùng đã bị xóa tên hộ khẩu) vượt biên theo đường bộ qua Miên. Ba bà liên lạc được với một anh bộ đội tên Bàng, cấp Thiếu úy. Chín giờ tối hôm đó Bàng đến kiểm soát chăn màn, ba lô của ba thanh niên vượt biên xem có đúng cách không, nhắc lại tên, số quân, ngày nhập ngũ của từng người. Những tên đó đều có thật nhưng về phép ngoài Bắc chưa vô. Bốn giờ sáng hôm sau Bàng đến đón cả ba (quân phục đàng hoàng, đeo ba lô đúng cách), đưa ra Ngã Tư Bảy Hiền đón xe đi nhờ. Mãi tới tám giờ sáng Bàng và ba thanh niên vượt biên mặc giả đồ bộ đội mới gặp đoàn bốn xe đi về phía Tây Ninh cho quá giang. Xe chạy đến chiều thì tới một đồn bên chiếc cầu lớn, chỉ còn cách Nam Vang có sáu mươi cây số nữa.
Họ ngủ lại trong đồn, sớm hôm sau lên xe đi tiếp. Rủi thay khi xe chở bốn người vừa qua khỏi Nam Vang được một quãng thì đụng phải một xe vận tải của người Miên, trên xe có ba người thì hai người chết, một bị thương nặng. Quân xa bỏ chạy, tới một trạm liên lạc xe ngừng chạy, bốn người quá giang vội xuống thì trưởng trại cũng vừa nhận được điện báo phải giữ chiếc quân xa gây tai nạn lại.
Bàng đem ba thanh niên vào nhà một người Miên quen để chờ tìm người dẫn đường tiếp tục tới biên giới Thái Lan, nhưng nhà họ bận đám cưới nên không đi được. Bàng bèn rủ Phân (võ vẽ nói được tiếng Miên) đi tìm lấy tại nhà một người quen khác. Gia đình Miên này đãi cơm. Bàng uống rượu quá chén nằm lăn ra ngủ nên hai người đến tối mịt mới về. Trong khi đó Hải và Đông ở nhà đợi mãi, nghĩ rằng Bàng và Phân đã bỏ đi rồi, bèn thú thật với người đàn bà Miên biết tiếng Việt với ý định nhờ người này giúp đỡ cho được vượt sang biên giới Thái Lan càng sớm càng hay. Chính vì vậy mà việc đổ bể, tên tổ trường là người Việt tới định bắt, vừa lúc Bàng và Phân về. Bàng kịp thời can thiệp để tên tổ trưởng bỏ qua vì đôi bên vốn là chỗ quen biết cũ. Bốn người tiếp tục lên đường, ngủ lại ở Sisophon. Mưới hai giờ khuya đên đó hai phe Cộng Sản bắn nhau mấy giờ liền. Ngày xưa là Cộng Sản đột kích, công đồn quốc gia. Ngày nay là Cộng Sản đột kích, công đồn Cộng Sản. Lâu lắm, ba thanh niên vượt biên mới được nghe những tiếng súng phản phúc bất ngờ thành liên hồi ác liệt bất phân thắng bại, nhưng coi bộ cả ba cùng hả dạ vì hết còn ở địa vị nạn nhân mà sang địa vị khán giả, tuy là thứ khán giả bất đắc dĩ và đương ở một hoàn cảnh cheo. Cả ba cùng đương theo Bàng khom lưng chạy nép theo các bờ ruộng. Có bộ đội Việt Cộng chết.
Hôm sau Bàng tìm được hai bạn nằm dưỡng bệnh tại Sisophone sắp về đơn vị bèn nhờ họ dắt theo Hải, Đông, Phân lên sát biên giới. Từng ở biên giới lâu rồi nên họ rất rành đường, có thể qua Battambang họ sẽ đưa ba thanh niên vượt thẳng sang Thái Lan. Ba thanh niên còn bốn chỉ vàng. Bàng bảo đưa cho hai bạn y ba chỉ làm tiền thù lao. Trước khi khởi hành ba thanh niên nấu cơm nhờ tại nhà một người Miên ngay bên quân y viện Sisophone. Trong khi Đông và Phân phụ trách nấu cơm, Hải đi tìm mua thịt kho hay thịt quay về. Hải đi khá xa và khá lâu mới tìm được một tiệm ăn và mua được ba chiếc đùi gà luộc. Về tới nhà người chủ nhà cho Hải hay hai bạn đồng hành đã bị bộ đội bắt rồi. Hải sang bên nhà thương báo cho người bạn của Bàng hay, hai người này đưa cho Hải một tờ giấy phép hết hạn bảo phải tìm đường về ngay. Chẳng còn chọn lựa nào khác, Hải hết sức lo sợ nhưng cũng giữ được đủ bình tĩnh ra đón xe quá giang.
Một xe dân sự đã đưa Hải đi quá Nam Vang một chặng khá xa. Từ đấy Hải phải đi bộ khoảng hai mươi cây số gặp lại đồn canh bên cây cầu lớn bữa nào cả bốn người cùng ngủ lại. Lần này Hải cũng vào đồn xin ngủ nhờ. Sáng hôm sau lại ra đường đón xe xin quá giang, trở về Tây Ninh. Qua một đồn chót bên Miên, Hải có bị bộ đội xét giấy tờ, may mà y đọc không thạo, không biết là giấy phép đã hết hạn nên cứ cho đi. Hú vía, Hải về đến Sài Gòn khoảng năm giờ chiều, còn bận y nguyên bộ đồ… Việt cộng.
Bà Giáo thấy con mà muốn té xỉu, chưa cần nghe con kể lại một lời mà bà đã linh cảm thấy hết những gian truân nguy hiểm con vừa trải qua. Bà khóc nức nở và ngay buổi chiều Hải ngã bịnh đến một tuần sau mới tạm gọi là bình phục, thì vừa đúng ngày Đông và Phân lù lù… dẫn xác về như Hải. Thì ra Đông và Phân bị bộ đội bắt vì cho là lính đào ngũ, nhưng cả hai đều khai là công nhân viên có đủ giấy tờ đưa cho họ coi, lại giải thích thêm là vì đói quá nên theo bộ đội sang buôn đồ về Sài Gòn bán vào dịp nghỉ phép thường niên, nhưng chẳng may bị bộ đội lừa lột mất hết tiền nong bỏ bơ vơ không còn tiền về. Cả hai được giao cho công an biên phòng và bảo nhau giữ đúng lời khai. Trại giam khá đông, toàn thanh niên nam nữ vượt biên. Gặp được viên công an trưởng đồn, Đông, Phân lấy ra chỉ vàng còn lại biếu và năn nỉ làm ơn cho về.
Viên công an trưởng đồn hỏi vặn sao bảo bị lột hết mà lại còn chiếc nhẫn một chỉ vàng. Đông và Phân cùng nói là đã cố giấu trong gấu quần. Viên công an hỏi còn gì nữa không, cả hai đều đáp là kh6ong. Viên công an lần khám hết gấu áo gấu quần không thấy gì nữa bèn đồng ý tha, tiện thể có việc về Sài Gòn y còn cho đi nhờ xe về nữa. Phúc đức!
Một trong ba bà mẹ đã phát biểu: “Giá như biết quân đội bí mật của mình ở đâu, tôi gửi cháu nó đi ngay. Thà nó chết bờ chết bụi còn hơn sống chui sống lủi sống như súc vật, sống héo mòn u tối với tụi mọi rợ này.”