← Quay lại trang sách

Chương 16

HAI đứa con trai còn lại của ông Giáo – Vi và Hy – đều đã lớn, một đứa mười tám nên đều đã có thái độ với cuộc sống. Vi mới mười chín mà cao tới 1,75 mét, cao hơn anh Hải, cao hơn cả bố. Vi có thái độ khác hẳn về đi. Có tin ai đi, ai thoát, ai bị bắt, ai bị nạn hải tặc… Vi luôn luôn giữ thái độ bình tĩnh. Vi rất ít nói, nhất là với bố mẹ. Đã nhiều lần bà Giáo nghe Vi trả lời lí nhí phải quát lên: “Mày mở mồm ra to to một tí cho tao nghe rõ!” Một lần Ánh dí dỏm nói khẽ với mẹ: “Vặn không đúng tần số đấy mẹ ạ.”

Kể ra khi Vi ngồi giữa bạn bè nói có lớn hơn chút ít, nhiều hơn nhưng không bao giờ ồn ào, giọng thật êm, thật ngọt, nhưng trái lại nếp sống của Vi thật ẩu, hễ muốn tiêu tiền mà không có tiền thì vớ được cái gì bán cái ấy, bán quần áo của mình và của anh chị, bán thuốc men của bà Giáo (loại âu dược bằng hữu gửi từ ngoại quốc về để bán lấy tiền chợ dần), hoặc lấy tiền nếu lục được đúng gói tiền của mẹ. Đã có lần các chị giận quá cương quyết nói với mẹ: “Đã bao lần mẹ mắng nó mà vẫn chứng nào tật ấy, lần này mẹ hãy đuổi ra khỏi nhà, một là nó ra khỏi nhà này, hai là chúng con ra khỏi nhà này. Bố ở tù, nó không biết thương mẹ còn lấy đồ của mẹ đi bán lấy tiền tiêu, còn giời đất nào nữa!”

Lần đó nhân đà tức giận của lũ con, bà Giáo lớn tiếng đuổi Vi ra khỏi nhà. Bà biết thừa ngay trong lối xóm nó cũng có mấy thằng bạn thân vẫn cà phê cà pháo với nhau. Khi Vi cúi đầu ra tới cửa bà còn hét lên cốt để giữ mình khỏi chuyển hướng: “Mày không xứng đáng là con bố!” Bữa cơm trưa hôm đó vắng bóng Vi, mà Vi cũng không hề ăn nhà bạn. Buổi chiều Vi lảng vảng về gần nhà, ngồi ghếch trên thành xe ba gác của nhà hàng xóm. Bà Giáo đã thương hại lắm rồi nhưng còn cố làm ra cứng rắn vì thấy Hy đã đã xúc đầy đĩa cơm trộn với canh dưa lại gắp thêm mấy miếng tóp mỡ lẳng lặng mang ra cho Vi. Chiều xẩm, gà lên chuồng đã lâu, Vi mới lẻn về. Bà Giáo vẫn cố moi ra công việc dưới bếp, khi kín đáo quan sát thấy Vi lẻn vào nhà rồi mới yên tâm lên gác mà lòng nhường như càng vô cùng xúc động vì thương con, vô cùng ân hận vì đã quá cứng rắn với con.

Mấy ngày sau xảy việc một đứa trạc tuổi Vi trong lối xóm đi cướp giật đồ ngoài bến xe, bị bắt tù, bà Giáo thêm một lần giật mình hốt hoảng, đôi mắt sáng lên và nói với mấy chị gái Vi: “Thà để nó lấy của nhà đi bán còn hơn dồn nó vào thế đi ăn cắp ăn trộm của người.” Một tuần sau hay tin thằng bé lối xóm đã bị đưa đi trại cải tạo tít ngoài miền Trung, bà Giáo càng hú vía cho thái độ cứng rắn của mình với Vi.

Bà nhớ đã có lần trước đây ông giáo được người bạn xem số tử vi cho, rồi nói với cả ông bà: “Số anh chị suốt đời lo lắng cho con. Chẳng được hưởng cái gì cả.” Người bạn nói đúng, có điều là cả ông lẫn bà đều lấy việc lo lắng cho con làm niềm vui sướng của chính mình. Tựa như chính những lo lắng đó cho những đứa con thân yêu làm ông bà ý thức được rằng mình đương sống và cuộc sống do đó có được một ý vị đậm đà đặc biệt. Cái gì cũng nhường nhịn thu vén cho con, nhìn con mặc thấy mình đẹp, nhìn con ăn thấy mình no.

Khoảng thời gian này ông Giáo có được đọc những giòng chữ của Vi trong xấp thư gia đình gửi tới trại cải tạo:

“… Bố ơi, trường Chu Văn An của con vừa giải thể ở niên khóa 1978-197, tụi con được chuyển sang trường Hùng Vương. Một số lớn giáo sư ở đây có gửi lời thăm bố, phần lớn là học trò cũ của bố. Việc học của con vẫn tiến hành đều. Khoảng cuối năm lớp 11, theo lời bàn của một số chú ở Hà Nội, con định thi vào trường Kỹ Thuật, nhưng việc học đòi hỏi quá nhiều công phu về toán học, mà con lại đang theo ban Sinh Hóa. Trở ngại trên khiến con phải theo nốt năm cuối của chương trình phổ thông mặc dù việc học bây giờ thấp kém và chán nản lắm. Tuy nhiên con đã sắp sẵn một dự định là khi tốt nghiệp cấp ba xong con sẽ thi vào một trường chuyên nghiệp về canh nông theo đúng lời nhắn nhủ của bố là gia đình cần một người làm việc ruộng vườn gần thiên nhiên…”

“… Thưa bố, kỳ thăm nuôi vừa rồi đã làm nét mặt ngày càng gầy xanh của mẹ tươi lên vì chị Ly báo cáo là bố vẫn gầy đen nhưng mạnh khỏe hơn những lần thăm nuôi trước. Mẹ chỉ sợ bố không chịu đựng được cái khắc nghiệt của vùng núi nếu bất ngờ ngã bệnh thiếu thuốc men, thiếu người săn sóc thì làm sao. Ước nguyện của chúng con bây giờ là mong sao cho bố khỏe mạnh, giữ vững tuổi già trong ngày tháng còn lại nơi trại đợi ngày trở về xum họp với bà, mẹ, và dạy dỗ chúng con…”

“… Bố ạ, chương trình phổ thông học hành chẳng ra gì, quá thấp kém, có có ý định bỏ học theo một ông bạn của chị Hoa học nghề. Ông ta là một điêu khắc gia và họa sĩ cỡ lớn. Ông đã nhận xé là con rất có năng khiếu về hai bộ môn này, ông hứa nếu gặp dịp thuận tiện ông sẽ tận tâm chỉ dạy con tới mức, đủ trình độ cảm nhận màu sắc và hình tượng của cái thế giới đầy trừu tượng đáng yêu này. Con biên thư cho bố vào lúc trời thật khuya và con thật buồn ngủ, chữ lem luốc khó đọc, bố đừng mắng con. A bố cần phải mặc thật ấm bố nhé! Trời dạo này đã bắt đầu lạnh, bố mà bị cảm hẳn sẽ cản trở không ít tính lạc quan của bố đấy…”

Ngày ông Giáo được tha về mới hay Vi đã bỏ học, không thi Tú tài, có theo học về điêu khắc và hội họa nhưng ông thầy lại bận việc khác nên bỏ dở, Vi xin được một chân làm ở tổ hợp sản xuất hóa chất.

Cảnh khắp các hẻm Sài Gòn những người già trẻ lớn bé đủ cỡ ngồi cần cù sảy gạo nhặt thóc, nhặt sạn. Gạo nhà nước bán vốn đã nhiều thóc trấu, tới phường còn trộn thêm trấu cát vào nữa trước khi bán cho dân chúng theo giá chính thức. Cảnh đường phố Sài Gòn nhan nhản những bảng nhỏ bằng giấy bìa gấp, đề: “Mua giấy.” “Mua giấy đủ loại.” “Nhận bơm mực bút nguyên tử.” Cảnh hè phố có những người trải tấm ni lông bày bán đồ phụ tùng xe đạp, đồ điện, thuốc tây… hễ thấy bóng áo, mũ vàng (công an, cảnh sát) thì ai nấy gói gọn lại thành một túi xách trốn lảng vào những hẻm gần. Cảnh những hè phố được vun lên thành những luống khoai gầy do những người gầy đói hàng ngày trông nom. Cảnh những người dân gầy nuôi đàn vịt gầy ngay trên những vỉa hè tương tự có cái nhìn nửa như vỗ về nửa như nài nỉ vịt hãy chóng lớn để có tiền. Buồn thảm nhất là sáng sáng con chó đói nhà hàng xóm tới vọc mõm vào thùng rác lục tung tóe tìm cái ăn, mỗi lần bị đuổi còn lần khân, bịn rịn tần ngần đứng ngay ngoài cổng ngoái nhìn lại.

Nói tóm lại khuôn mặt bệ rạc bị bần cùng hóa của Sài Gòn. Vi có biết và có thông cảm – nỗi sầu hận mênh mông của xứ sở bất hạnh, niềm sầu hận đó chắc chắn sẽ thể hiện thành những nét nhạc buồn đây đó trong ba ca khúc ngắn Vi sáng tác mà các anh chị em trong nhà cùng đám bạn trẻ của gia đình gọi đùa là concerto số 1, concerto số 2 và concerto số 3. Tuy nhiên, Vi cũng nhận thấy những nét đẹp Sài Gòn không hiếm. Có biết bao gia đình hàng tháng nhận được qua của thân nhân bằng hữu gửi về: quần áo, thuốc men, thực phẩm. Nền kinh tế tư nhân – mà chính phủ xã hội chủ nghĩa muốn bóp nghẹt hoàn toàn để giành lấy độc quyề phân phát sự sống – vẫn còn đó ng- hênh ngang bất trị phản ánh lên khuôn mặt còn hồng hào đầy đặn, lên những ánh mắt còn tinh khôn dí dỏm. Đúng như một họa sĩ hay một điêu khắc gia thực thụ Vi thích thú thấy mình bất chợt gặp được những nét mặt thật đẹp, những đường cong cơ thể thật đẹp. Điều làm Vi vui nhất chính là Vi nhận thấy những nét đẹp đó rõ ràng tượng trưng cho một cái gì bất trị bất biến, chúng sẽ còn đó mãi mãi như một thách thức với những bàn tay tàn bạo muốn nghiền nát chúng, muốn tận tình hủy diệt chúng. Cán bộ nòng cốt tại những địa phương xa Sài Gòn thấy không hoàn toàn siết chặt được cái dạ dày quần chúng để điều khiển khối óc bèn xử dụng dư luận chụp mũ thường tình: những người nhận quà ngoại quốc là những người nhận tài trợ của C.I.A. Mỹ. Nhưng ăn thua gì những mảnh mây đen tơi tả muốn che mặt trời đó.

Quả thực tuy chưa là một họa sĩ, một điêu khắc gia nhưng Vi nhìn và thưởng thức những đường nét đẹp, màu sắc đẹp như một họa sĩ, một điêu khắc gia thực thụ với cái nhìn bất chợt, tình cảm bén nhạy. Một khuôn mặt bầu bĩnh hay trái soan, nước da nâu hồng tràn bờ sinh lực hay trắng mịn kín cổng cao tường, khóe mắt sáng ngời yêu đời tin tương lai hay mơ màng chìm vào xa vời, cặp đùi khỏe như một lực sĩ hay dáng đi uyển chuyển thanh tân, một nét son môi, một nụ cười tươi với hàm răng ngà, hay nụ cười chúm chím e dè kín đáo, một thoáng nước hoa theo gió, hương thơm của một thời văn minh xa xưa luôn luôn tôn trọng và đề cao cái đẹp… Tất, tất cả những thứ đó với Vi rõ ràng tượng trưng cho một cái gì bất trị bất biến, chắc chắn chúng sẽ còn đó mãi mãi như một thách thức với những bàn tay tàn bạo muốn nghiền nát chúng, muốn tận tình hủy diệt chúng. Tất nhiên phần đẹp nhởn nhơ bất trị đó của cuộc đời cũng được phản ảnh thành những nét nhạc tươi tắn trong ba ca khúc của Vi.

Riêng về việc đi, Vi không hề băn khoăn thắc mắc nghĩ tới. Trong thâm tâm hình như Vi chỉ đơn giản nghĩ: bố mẹ còn ở đây thì mình ở đây, chẳng sao; mai đây bố mẹ đi tất nhiên mình cũng đi theo thôi.

Hy, thằng con trai thứ ba cũng có khuynh hướng thích đi vào chiều sâu của suy tư giống chị Ánh của nó. Đọc kịch Hamlet của Shakespeare Hy rất khoái đối thoại giữa vua và Hamlet. Vua hỏi về Polonus, Hamlet đáp Polonus đương ăn bữa tối. Vua hỏi ăn bữa tối ở đâu? Hamlet đám là không phải ở chỗ lõa ấy ăn mà là ở nơi lại ấy đang bị ròi bọ ăn, chúng ta nuôi béo các sinh vật khác để ăn cho béo và ăn cho béo để làm mồi cho ròi bọ.

Trong những cuộc họp vui Hy nói đùa khá nhiều và khá lớn tiếng (thực ra về tinh thần hài hước thì cả gia đình ông Giáo không ai thiếu). Hy cũng rất chán nản về thời cuộc như các anh chị, đặc biệt chán đến cảm thấy như bị sỉ nhục mội khi nghe nhắc rằng thi vào đại học sẽ có được hàng tháng 16 ký gạo và mười tám đồng trợ cấp. Tuy nhiên khác với hai anh (Hải, Vi) Hy vẫn học xong cấp ba và thi vào đại học. Hy thi vào Trường Bách Khoa ngành cơ khí. Một ngàn năm trăm thí sinh lấy có tám mươi.

- Bố ơi, mở tung cửa đại học cho ai học được gì theo năng khiếu thì học, sao lại hạn chế hở bố? Hy hỏi bố.

- Đấy là họ quy hoạch trí thức quốc gia với nền sản xuất quốc gia đó, con ạ - ông Giáo đáp lời con.

Và Hi cũng như Vi không hề nặng lòng thắc mắc về vấn đề đi cho lắm, hoàn toàn nghĩ là mình sẽ đi với bố mẹ theo con đường chính thức H.C.R. (Cao Ủy Tị Nạn) can thiệp chứ không phải đi chui bằng G.H.E (Ghe) như mọi người trong gia đình thường nói đùa.

Một lần vào lúc có đúng hai cha con ngồi ngoài phòng khách, radio nhà hàng xóm vang lên buổi phát thanh thiếu nhi. Tiếng kèn đồng nguy nga vừa dứt, tiếng một em gái vang lên chững chạc nhiệt tình: “Vì lý tưởng của bác Hồ vĩ đại, vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta hãy sẵn sàng!”

Thoáng thấy khuôn mặt Hy muốn phẫn nộ, ông Giáo dịu dàng nói với con:

- Con có thấy giọng em bé hô khẩu hiệu thật trong sáng thơ ngay. Em đâu có ngờ tâm hồn, tư tưởng đã bị bao vây, đúng hơn là nằm gọn trong nanh vuốt ác quỷ mất rồi. Đám quỷ vừa bỏm bẻm nhai nhau hài nhi tán nhỏ, bào thai tán nhỏ trộn với bột nghệ làm thuốc trường sinh vừa bình tĩnh đắc thắng nhìn các em sẽ lớn lên thành cán bộ nòng cốt xây dựng sự nghiệp cho “Bác muôn vàn kính yêu,” sự nghiệp tàn phá nhân tính, hủy diệt nhân phẩm con người tự do.

- Con hiểu – Hy đáp lời bố - vì vậy nhiều khi con cứ muốn nổi khùng. Như vậy có thiếu bình tĩnh không hở bố?

- Con còn ít tuổi nhưng con cũng có thể hiểu rằng không có giận hờn thực sự thì cũng không có tha thứ thực sự. Bước thứ hai là bước con phải cố gắng đạt tới. Chúng ta phải biết phẫn nộ, tởm lợm cái xấu, do đó mới biết thiết tha với cái đẹp để mà tha thứ, sửa chữa cho cái xấu. Rồi lớn lên con sẽ hiểu dần. Có những điều thể đốt giai đoạn hiểu ngay được.

Hy nhớ suốt thời gian bố ở tù không một lá thư nào bố kêu đói, luôn luôn là “bố ở trên này cái gì cũng thừa đủ, mẹ và các con ở nhà cứ yên tâm.” Nhưng một lần Hy ăn phải củ khoai hà vội lè ra vứt vào thùng rác. Lần đó bố thủ thỉ với Hy: “Bất kỳ loại động vật nào cũng biết chê khoai hà. Ném củ khoai hà cho chó cho lợn, dù đói đến mấy chúng cũng không thèm ăn, kiến không thèm tha, nhưng với tù nhân trong trại cải tạo cộng sản thì khoai hà vẫn nhắm mắt nhắm mũi nuốt được và tự an ủi chất đắng của khoai hà có thể là môn thuốc chữa đau dạ dày. Sự thực nuốt vào chỉ để cho dạ dày dầy thêm chút xíu, an ủi phần nào cảm giác đói, đói thường xuyên, đói dằn vặt, đói ngơ ngác.” Ấy, nhiều khi Hy có được những câu chuyện tâm sự như vậy với bố.

Kể từ ngày bố tự trại cưỡng bách lao động cộng sản về, lần nào bố nói chuyện hay giảng dạy cho chị Hoa nghe những đề tài có tính cách siêu hình và phá chấp về sắc không của nhà Phật thường cũng có Hy hiện diện (Hy có duyên với bố ở điểm này chăng). Và Hy thành tâm lắng nghe, đôi khi hỏi thêm, và tuy còn non tuổi thật, Hy nghĩ rằng mình cũng đã hiểu được phần nào những tình những ý bố gói ghém qua những lời bố nói. Có khi lần nói chuyện trước Hy chưa hiểu, sang lần sau, đề tài khác, Hy lại do đó mà vỡ lẽ đề tài trước. Rõ ràng – Hy thấy rõ lắm – bao nhiêu đề tài khác nhau bố đề cập chung quy vẫn hướng về một mối như trục trái đất hướng về sao Bắc Đẩu. Ấy là không kể nhiều khi cùng một đề tài nhưng bố diễn giảng mấy lần khác nhau bằng những hình ảnh khác nhau, hoặc ngược lại nhiều đề tài khác nhau được bố chỉ cho thấy mẫu số chung của tất cả, nên chi chỉ cần gỡ mối một đề tài là thấy cách gỡ mối cho tất cả. Lời và ý của bố vẫn nồng nhiệt mà vẫn bình thản, cứ như là được đưa vào một phòng có lò sưởi điện ngầm vẫn hưởng hơi ấm đấy mà không thấy lửa. Hy nhớ lời bố thấp thoán đây đó trong vài mành đàm thoại:

- Vô tư như trẻ thơ, như thiên nhiên cò cây cầm thú là nhất đấy, nhưng không bao giờ mình muốn bản thân sinh ra là cỏ cây cầm thú, mình cũng chẳng thể sinh ra vĩnh viễn là trẻ thơ, trừ những người chẳng may sinh ra bị bệnh mất trí. Khổ nạn của con người ý thức là biết rồi lập tức tự xóa nhòa để thoát ra khỏi cái biết đó (như không còn biết nữa). Dòng sông in bóng nhạn vô tư hoàn toàn, nhưng dòng sông tâm thức con người thì thoạt biết có bóng nhạn qua nhưng lập tức sau đó phải siêu hóa thành dòng sông thiên nhiên để vẫn phản chiếu bóng nhạn mà vẫn như chẳng hề hay mình phản chiếu.

- Bám vào ý thức là các con sa vào cái nhìn nhiễm đối đãi có-không, yêu-ghét, tốt-xấu, khổ- vui… Hãy siêu lên thành bình lặng không nọ không kia.

Hy còn nhớ đã cố gắng theo lời bố, nghĩ rằng mình có hiểu, đồng thời Hy thốt lên “Đạt được như vậy khó quá bố ơi!” Chị Hoa chín chắn hơn đã tiếp lời Hy:

- Đạt được như vậy là đạt đạo rồi. Khó lắm chứ. Nhưng đường đi phải vậy. Đạo mà, phải không bố?

- Đúng đấy con! – lời bố đáp đầm ấm và trầm tĩnh như bao giờ. Được rồi sẽ mất, được mà không được thì mới không mất!

- Các con đạt được thành công mà kh6ong biết giữ cho lòng chan hòa bình lặng – một hình thức của vui thanh tịnh đấy – lại đi vui kiêu, vui ồn ào tức là các con chưa phải hiểu trong thắng có mầm bại, trong vui có mầu sầu, các con tránh đâu cho thoát nỗi buồn thất bại tất nhiên sau đó. Cổ nhân khuyên thắng không kiêu là thết!

- Thế còn bại không nản, hở bố? Hy luôn có ứng phó mau lẹ như vậy khi chợt thấy điều muốn hỏi.

Thì thất bại là liều thuốc đắng dẫn mình tới thành công, là mầm thành công chứ còn gì nữa. Các con ý thức điều đó là các con đương uống thuốc đắng và đợi trước ngày lành bệnh. Có điều các con nên nhớ… Điều gì nào?

Lần đó Hoa cười đáp lời bố:

- Giữ cho lòng chan hòa bình lặng khi khỏi bệnh. Thắng không kiêu bại không nản, bố nhỉ.

- Đúng! Không lìa dòng đời mà cũng chẳng để dòng lôi cuốn!

Ông Giáo có vẻ hài lòng ra mặt, mặc dầu cả ba bố con cũng tự riễu như vậy là lòng rềnh lên đó, không bình lặng đâu! Người mà!

- Thấy đời bẩn mà mình đứng riêng chỗ sạch, đời ồn ào mình đứng riêng chỗ bình lặng, như vậy có mang tiếng “đào ngũ” không bố?

Bố cười hiền nhìn thằng con tốt hỏi:

- Mình chỉ giữ cho không nhiễm ngay giữa ô tạp, giữ cho bình lặng ngay giữa hỗn độn đấy chứ. Mình như ngọn đèn tùy theo khả năng mà chiếu sáng mà sưởi ấm đấy chứ. Mình có đào ngũ đâu. Chữ nhà Phật nói “chân không mà diệu hữu” là như vậy đó con. Mà ông Lão Tử nói “vô vi nhi bô bất vi” cũng là như vậy đó con.

Ấy, Hy là đứa con hay nghĩ nhất trong bốn đứa con trai và bạo hỏi hơn chị Ánh nên hay được nói chuyện loại này với bố. Âu cũng là cái duyên bố con!

Và điều này Hy vui đến cảm động nữa, là tất cả những bức thư bố gửi về hồi bố còn nơi trại tập trung với những ngày gặp lại bố, gần bố, được trực tiếp nói chuyện với bố, rõ ràng là câu chuyện giữ được vẻ liên tục thuần nhất như con sông dòng suối từ cao nhìn xuống đương miết mải xuôi dòng.

Hy có duyên với bố, phải, có duyên với bố về loại chuyện nầy. Nhưng vì tuổi Hy còn non nên mỗi khi thấy Hy loay hoay suy nghĩ vẻ mặt đăm chiêu là các anh chị lại rúc rích cười gọi riễu là Hy gàn. Chính vào dịp sinh nhật mình năm ngoái Hy cũng đã nhận được món quà hình một chú thanh niên chơi violon gọt bằng gỗ đứng trên đế cao hình vuông có hàng chữ khắc: Hy gàn. Hy còn vụng nữa, vụng nhất nhà nếu không phải là nhất xóm, nhất trường. Khi ngồi vào bàn ăn hai tay khuềnh khoàng xới cơm chan canh, đụng đâu đổ vãi đấy. Trường hợp đi đâu về muộn hết cơm, Hy hùng hục thổi lấy trên sống dưới khê là thường. Được cái Hy ăn vẫn thấy ngon vì trong khi ăn Hy suy nghĩ về những vấn đề Hy khoái nhất, mặc dầu cơm vãi đằng cơm, canh vãi đằng canh. Nhiều lần bà giáo phải kêu lên: “Mày ăn uống gì mà cơm vãi như hoa nắng, canh đổ tung tóe thế này, Hy ơi!

Trở lại vấn đề ĐI. Duy bà nội không phải là người ra đi nhưng bây giờ cụ lại là người quan tâm thắc mắc nhiều đến chuyện ra đi của cả đám con cháu trong gia đình kể cả thằng con trưởng của cụ - ông Giáo! Cụ lắng nghe mọi câu chuyện cả đứng đắn lẫn vui đùa của đám con cháu, kể cả đám khách của ông Giáo. Cụ luôn luôn niệm Phật, cầu nguyện cho thế giới hòa bình, quốc gia an lạc, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn được siêu sinh tịnh độ.

Dư luận tại Sài Gòn vào dạo này bàn tán nhiều đến những điều tụi này (ý chỉ chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) đã ký với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Genève tháng

7 năm 1979 về những người tỵ nạn. Tụi này ký nhận bằng lòng để cho những người Việt còn trong nước được quyền chính thức ra đi đoàn tụ với gia đình; những người Việt không thích hợp với chế độ cũng vậy, trừ trường hợp những người này nắm giữ bí mật quốc phòng, hay thiếu nợ nhà nước, hay bị tù thường phạm. Ngược lại tụi này do đó mà được nhận viện trợ tính theo số đầu người ra đi, thường dân bảy tám trăm Đô-la một đầu người, giá đó tăng dần theo các cấp Úy, Tá, Tướng. Nghĩa là một cách tụi này bán dân lấy tiền. Lẽ ra chiến dịch di cư đại quy mô này thực hiện từ tháng 6-1980 vừa qua nhưng tụi này lươn lẹo gian dối luôn luôn viện cớ này cớ nọ không chịu thực thi những lời chúng cam kết. Và mặc dầu những gì chúng cam kết công khai ở Genève về đến Việt Nam đã được giấu nhẹm cũng đã khoảng 80 vạn dân chúng Sài Gòn chuyển được đơn xin tỵ nạn tới tay Cao Ủy Liên Hiệp Quốc khiến – vẫn theo dư luận quần chúng tố cáo – tên Thủ tướng chính phủ phải đập bàn mắng đàn em cấp dưới là giăng màng lưới công an thế nào mà tới ngần nhiêu đơn xin tỵ nạn lọt qua!

Sang tháng 8-1980, dân chúng được biết nghe đâu Cao Ủy Liên Hiệp Quốc bằng lòng cho tụi này lĩnh tiền trước bằng xe buýt, máy cày, lương thực. Cách nộp đơn tỵ nạn ngày một phổ biến bán công khai, nơi di dân sẽ là Úc châu. Nếu tụi này không nuốt lời hứa, camion sẽ đón từng gia đình tập trung rồi cho lên Tân Sơn Nhất vào những giờ giới nghiêm từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Năm phi đạo bên trường bay quân sự cũ đã được sửa chữa cẩn thận cho cuộc di tản mau lẹ và kín đáo (để tụi này đỡ mất mặt) bằng đường hàng không. Trường hợp chúng cố tình lươn lẹo, Liên Hiệp Quốc sẽ trực tiếp cứu trợ dân chúng không qua tay chính phủ (trường hợp bên Cao Miên). Vào dịp trực tiếp cứu trợ này người dân sẽ trực tiếp nộp đơn xin tỵ nạn, tụi này sẽ không còn viện được cớ gì để cản trở nữa. Nếu giải pháp thứ hai này cũng không thực hiện được, Liên Hiệp Quốc đành thực hiện kế hoạch Okinawa, trực thăng rợp trời, quân đội mũ xanh Liên Hiệp Quốc đổ bộ xuống giữ trật tự cho những người dân tỵ nạn lên phi cơ. Thoạt hãy cứ mạnh ai nấy lên rồi với phương pháp quy mô khoa học và nhân đạo cha con, vợ chồng, anh em… trong một gia đình sẽ gặp nhau rất chóng. Đã nhận tiền viện trợ - tiền bán dân – trước rồi tụi này tới lúc đó không còn thể viện bất kỳ cớ gì để cản trở.

Vẫn trong dư luận dân chúng cho hay tụi này đã bắt đầu phải cho bật đèn xanh: đám trẻ con lai, những thương phế binh của chế độ cũ, những người dân bỏ vùng kinh tế mới về sống cầu bơ cậu bất trên vỉa hè Sài Gon, đã được chuyển dần tới trường bay Tân Sơn Nhất khu quân sự cũ, hàng ngày ăn đồ hộp đợi phi cơ tới di tản dần.

Đã có người gặp được nhân viên ngoại quốc thuộc Cao Ủy Tỵ Nạn biểu lộ thái độ bán tín bán nghi hỏi liệu câu chuyện di tản đại quy mô dân Việt lánh nạn Cộng sản qua Úc có thực không?

Nhân viên ngoại quốc đó đã đáp dí dỏm:

- Nếu quí bạn ra ga mà thấy một đầu máy xe lửa đã nối liền với các toa cho hành khách thì chuyến xe tất sẽ tới lúc khởi hành. Tuy nhiên, từ lúc xe đậu nơi ga tới lúc xe khởi hành cũng còn phải qua một số thủ tục cần thiết, bán vé cho hành khách, xếp hành lý, xếp chỗ ngồi cho hành khác, kể cả việc huýt còi và phất cờ đỏ làm hiệu cho đoàn xe đi.

Tất cả những chuyện trên bà nội đều lắng nghe và mặc dầu cụ đã cố gắng lắm mà vẫn là chỗ được chỗ không. Tuy nhiên về đại thể cụ cũng hiểu.

Một lần trên gác chỉ còn hai mẹ con, cụ nói với Giáo:

- Này con ạ, con đừng đi chui nhé. Nó bắt được thì khốn đốn đó.

Ông Giáo cười rất lớn, rất thực tình nói với cụ:

- Không đâu cụ ơi, xin cụ đừng lo, khi mà con ra đi phải là đi cả gia đình và có công an cảnh sác hộ vệ…, chữ không đi… chui như đám nhóc đâu.

Trước khi ra Bắc, cụ vẫn lắng nghe mọi câu chuyện, và cụ biết ở miền Nam này càng ngày càng nhiều người xông xáo đi chui. Thế giới nhường như đã hết xúc động về thảm trạng người Việt Nam chạy trốn ra nước ngoài rồi. Cụ nghe thấy nói – chẳng biết có đúng hay không – Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba đã lập những đội tuần tiểu ngăn không cho thuyền những người vượt biên cập bến nước họ, vì người tỵ nạn vào đông quá rồi làm mất quân bình nền kinh tế nước họ. Cụ cũng nghe nói những lời cam kết ở Genève hồi mùa Thu năm ngoái, nghĩa là phải để cho những người không thích hợp chế độ ra đi chính thức với những phương tiện do Liên Hiệp Quốc cung cấp để tránh những thảm cảnh vượt biên làm thương tổn quá nhiều đến uy tín của chính phủ xã hội chủ nghĩa.

Lại một buổi chiều chỉ có hai mẹ con trên gác, cụ nói với ông Giáo:

- Hay là nếu người ta chỉ có thể cho từng người một, thì con cứ đi trước đi.

Ông Giáo cũng lại cười lớn thưa với cụ:

- Chưa có chuyện đó đâu cụ ạ. Ra đi chính thức đâu có phải là chuyện dễ thực hiện được. Ít nhất là vào lúc này. Cụ cứ yên chí, con còn ở Sài Gòn, cuối năm nay khi được cấp đầy đủ giấy tờ hợp lệ con còn ra Bắc cải táng cho thầy đã.

Cụ gật đầu ưng ý:

- Ờ, ờ thế thì còn gì bằng. Nhưng dù con ở hay con đi thì con cứ yên tâm rằng mẹ ở đâu thì mẹ cũng niệm Phật cầu Phật phù hộ độ trì cho các con cháu, mà mẹ nói thật đấy, dù con có đi Tây đi Mỹ, khi nào nhận được điện là mẹ có thê đi máy bay gặp con cháu ngay. Thì mẹ đã máy bay từ Hà Nội vào Sài Gòn đấy, có sao đâu.

Ông Giáo vội vã gật đầu rất hỉ hả:

- Cụ nói đúng lắm, người ta đi ngoại quốc bằng máy bay như đi chợ ấy mà có gì là trở ngại đâu.

Bà nội nhìn đám cháu còn lại. Cụ biết rồi đây khi cụ đã ra Bắc rồi, nếu cái tổ chức gì (ý cụ nghĩ về H.C.R) mà bảo lãnh cho chúng đi tất nhiên chúng sẽ ra đi hết. Nhưng cụ vẫn cảm thấy gần chúng nó. Có bao giờ cụ quên niệm Phật cầu nguyện cho chúng đâu.