Chương 17
CŨNG may, mấy ngày sau lá thư của Hoa gửi về từ trại tỵ nạn Nam Dương, qua Pháp tới tay gia đình, kế tiếp thư Hoa là một lô thư liên tiếp của lũ con Quỳ. Những lá thư mang niềm vui vô biên cho cả đại gia đình nội ngoại, đặc biệt giúp cho Ánh quên được nỗi buồn phải trở lại Vũng Tàu sinh hoạt học tập chính trị với đám hiệu bộ một tháng trước khi vào niên học mới thật sự.
Thư của Hoa:
Indonésie ngày 2-6-1980
Kính gửi bố mẹ, cô chú,
Chúng con đã đến Nam Dương an toàn vào ngày thứ Bảy 31-5. Để con xin kể từ từ.
Sáng Chủ Nhật 25-5, chúng con xuống Cần Gi- uộc, buổi chiều xuống ghe taxi ra cửa biển. Lúc sắp rời ghe taxi để lên ghe bầu đợi thuyền lớn ra (khoảng chín mười giờ khuya) thì chúng con bị du kích xã cướp vơ vét đồ đạc mang theo, nhưng may chúng không bắt. Mười hai giờ khuya chúng con lên thuyền lớn vượt thoát trạm xét cùng mấy hàng đáy an toàn. Mấy ngày đầu biển rất lặng, vậy mà nhiều người vẫn say sóng, ốm lệt bệt. Cả hai vợ chồng con và em Thiện thì không sao, khỏi chê. Đã vậy vào những lúc ghe ngừng máy để đổ dầu là bọn con cùng anh Lịch và đám “văn nghệ bỏ túi” nhà nhảy xuống biển bơi luôn. Chiều thứ Năm bọn con gặp giàn khoan dầu của Anh và Hy Lạp. Họ không vớt nhưng tiếp nước ngọt, nhiên liệu, thực phẩm cho mình, rồi lại chỉ đường nữa. Tối thứ Sáu bọn con ra ngay tuyến đường của tàu buôn đi Singapore, gặp bao nhiêu là tầu lớn. Bọn con bấm S.O.S loạn xạ, họ có đi sát lại, nhận ra mình, sợ quá, chạy cong đuôi chẳng ma nào thèm vớt.
Sáng thứ Bảy đã thấy đảo ở xa xa, đến trưa cập bến làm thủ tục rồi vào trại KuKu. Bọn con thừa hưởng trại này của dân tỵ nạn thời 1979, thuở đó bán chính thức đông đảo nhất. Nhà ở là lều tranh nhưng có nước máy thỏa thuê và Ủy ban H.C.R. yểm trợ đầy đủ về đời sống. Ở đây đúng là thiên đường của bọn trẻ. Trước mặt là biển, sau lưng là núi đồi có suối nước. Đám nhó suốt ngày đi câu cá, đi bơi, leo núi hái thanh trà về để con nấu canh chua… Thú vị lắm.
Bọn con chỉ ở trại KuKu vài ngày sau đó sẽ sang đảo Galang lớn hơn, sẽ ở đấy cho tới khi nước nào đó nhận mình. Ở đây người ta đã lấy lý lịch của bọn con rồi. Bọn con ghi nguyện vọng đi ba nơi: Hoa Kỳ, Can- ada và Úc. Vì anh Lịch là sĩ quan và sức học của con cũng khá nên chúng con có triển vọng được Hoa Kỳ nhận. Hiện thời chúng con đương nhớ nhà ghê lắm, nhưng ở đây không có cách gì đánh điện hay viết thư. Họ không cho liên lạc thẳng tới Việt Nam. Vì vậy những dòng chữ này là con cứ viết sẵn khi nào có điều kiện nhờ được một đệ tam nhân là sẽ gửi ngay. Con tạm ngừng nhé, con sẽ viết đều kể chuyện cả nhà nghe.
Thương nhớ cả nhà nhiều lắm. Con, Hoa
Bức thư của Hoa được chuyển ngay cho Phương, Quỳ đọc. Quỳ lập tức làm photocopy bức thư để gửi ngay ra Bắc cho tất cả các cô chú ngoài đó yên lòng. Sau đó Quỳ về đàng anh (ông Giáo) gặp các cháu để cùng chia sẻ niềm vui, ôi chao niềm vui càng chia sẻ càng chan hòa. Cô cháu nhiều khi chẳng có chuyện gì cũng gặp nhau tìm ra chuyện nói cười một lúc coi như một cuộc tập thể dục tình cảm giúp cho tâm trí thoải mái. Cảnh anh em nhà trong Nam ngoài Bắc đùm bọc nhau luôn luôn là điều làm Quỳ mãn nguyện thầm.
Vừa “giải phóng” được một năm thì anh bị bắt. Quỳ hết sức nhịn ăn nhịn tiêu, thu vén bù trì cho chị và các cháu lúc đó chẳng khác cảnh “mẹ góa con côi” trong khi Chu và lũ em ngoài Bắc cũng dè sẻn thu vén y hệt Quỳ gửi tiền vào Nam giúp chị, tiện ai vô thì gửi thêm đường sữa và một số nhu yếu phẩm khác. Một đứa con của Chu nói với mẹ: “Chúng con ngoài này chịu khổ quen rồi, chịu khổ thêm một chút không sao, mẹ cứ gửi những thứ đó vào cho các anh chị con.” Thực là ngược hẳn với cảnh “Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng,” mà dư luận thường nêu lên làm đề tài riễu cợt. Ngày đó ông Giáo mới bị bắt khoảng hơn một năm, còn bị nhốt ở trại Phan Đăng Lưu, Gia Định, ông có viết ra cho các con: “Bối coi tám con như tám mảnh hình hài cơ thể của bố mẹ, các con hãy noi gương các cô các chú trong Nam cũng như ngoài Bắc đùm bọc bố mà đùm bọc lấy nhau mãi mãi về sau này, nhất là vào những lúc hoạn nạn.” Lức đó đọc đoạn thư của anh viết cho các cháu mà Quỳ tưởng như nghe chính lời anh đương thủ thỉ khuyên dặn con, và
Quỳ ứa nước mắt lúc nào không biết.
Bước vào phòng khách Quỳ gặp ngay ông
Giáo và khoe liền:
- Em đã làm photocopy bức thư của cháu
Hoa và gửi ngay ra Bắc rồi.
- Tốt quá! – Lời ông Giáo.
- Cô mới mổ dạ con nhớ là phải đi rất ít, đạp xe rất gượng nhẹ - lời bà Giáo.
Quỳ lên gác với đám cháu gái, ông Giáo chẳng cần lắng nghe cũng nhận ra rất rõ tiếng từng đứa con gái và cô em ríu rít trên đó.
- A, cô, - mấy đứa con gái cùng reo mừng cực kỳ sảng khoái như cảnh tha hương ngộ cố tri.
- Hôm qua tao nằm mơ.
- Cô lại mơ thấy tụi nhóc Bích Tồ, Vân, Tỉ
- Ánh phản ứng liền.
- Không tao mơ thấy rắn.
- Eo ơi! – Út Hương rút cổ lại khiếp sợ.
- Không, - Quỳ tiếp - nhất định là giấc mộng của tao báo trước điềm lành, vạn sự hoàn hảo.
Thấy cả ba đứa cháu gái cùng một cử chỉ phản đối (chúng đều sợ rắn) Quỳ vội nói ngay:
- Chúng mày cứ bình tĩnh nghe tao kể đã. Tao mơ là trong một góc tủ tao để một cái gì đó, và tao biết cái gì đó luôn luôn đi đôi với rắn, gọi rắn tới. Mình đã biết trước vậy, đâu có sao. Nhưng lại có một đứa bé đi tới chỗ tao để cái gì đó và kêu thất thanh: rắn! Một đứa bé khác xông tới cầm một cái gì nhẹ hều đánh tới tấp vào một con rắn bạc (Quỳ khoát tay) vẩy toàn bạc lấp lánh bò ra chui vào lò sưởi.
Út Hương rụt cổ:
- Eo ơi!
- Bình tĩnh – Quỳ tiếp – tao đã bảo cứ bình tĩnh mà! Thằng bé tiếp tục đánh, những cái đánh nhẹ hều đó làm sao rắn chết, nó chỉ ngủ thiếp đi. Khi cô tiến tới thì nó vừa nhỏm dậy, toàn thân vẩy bạc trắng xóa. Tay cô cầm một cái gì khá nặng bằng sắt thì phải, nhưng cái gì đó có phép lạ nên khi cô đập xuống lập tức đầu nó nát vụn, lập tức cô đập thêm mấy cái nữa cho chắc ăn, cả khúc đầu con rắn bạc nát vụn như cám.
Bây giờ Ly cười khanh khách:
- Ủa thế cô chỉ đánh khúc đầu, để dành khúc đuôi nấu cà ri chăng?
- Đúng vậy – Quỳ hấp tấp đáp liền – chính trong giấc mơ tao nghĩ minh bạch dứt khoát như vậy đó. Chỉ đánh cho nát đầu, cho rắn độc thật chết, còn lại sẽ chặt ra từng khúc nhỏ xào lăn ăn chơi. Đúng là thịt rắn ăn như thịt gà đấy các cháu ạ.
Ánh tiếp:
- Cháu tiếc là không giỏi về thuyết phân tâm học của Freud để phân tích giấc mộng giết rắn bạc vẩy lấp lánh của cô.
- Ấy ngày xưa Lưu Bang trảm bạch xà rồi khởi nghĩa về sau được cả thiên hạ, cô mơ đập nát đầu con rắn vẩy bạc lấp lánh, cô cũng tin là điềm lành. Hễ cô mơ diệt được giống gì độc ác thì bao giờ cô cũng thấy hồ hởi và chắc chắn đó là điềm lành.
Chuyện rắn đến đó bế mạc, Quỳ lấy ra ở chiếc túi vải xách tay một quyển vở. Út Hương biết là cô sắp có câu chuyện vui khác về quyển vở đó bèn hỏi:
- Cái gì trong quyển vở đó thế cô?
- Thơ của con Vân!
Ánh ngước mắt nhìn trời thở hắt ra:
- Trời ơi! Con Vân cải lương nó làm thơ thật ư hở cô?
(Vân vốn khoái xem những phim tuồng cải lương lại hay hát bài trong phim Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài nên bị các anh chị riễu là “Vân cải lương”)
Qùy vừa giở quyển vở vừa nói:
- Ừ, nó làm thơ thật chứ bộ. Đến năm sáu bài lận! Cũng là vô tình cô lục cặp của nó, mở ra xem mấy quyển xếp trong ngăn mới khám phá ra những tác phẩm đó của nó. Chúng mày xem này, toàn là thơ tặng và thơ vịnh mà nào nó có khoe với cô với chú tí nào đâu. Nó đã làm từ năm 1978, cách đây hai năm, hai năm lận. Trời, con bé thiệt là kín tiếng.
Thế là bốn cô cháu chuyển đề tài sang bình thơ của bé Vân. Được cái đề tài rất cụ thể (thơ bé Vân sẵn đó mấy cô cháu chỉ tranh nhau đọc, tranh nhau phẩm bình và tranh nhau cười. Tất cả những bài thơ này bé Vân làm cách đây hai năm – năm 1978 – vào nằm bé Vân mới mười một tuổi. Bài thơ nào cũng được bé Vân minh họa hoặc ở trên hoặc ở dưới, hoặc ở một góc nào đó của trang thơ. Bài đầu tiên là bài lục bát, hoàn toàn không có vần, với đầu đề “Thơ Tặng Mẹ.” Do đó Quỳ đích thân đọc:
THƠ TẶNG MẸ
Mẹ tôi vất vả sớm hôm
Nuôi đàn con nhỏ ngây thơ trong nhà
Suốt ngày khổ cực chẳng than
Chỉ lo trọn đạo thánh hiền mẹ cha
Chúng con lớn bé nhủ rằng
Lớn lên ta phải biết công ơn người
Mong sao mẹ sống dài lâu
Để được nghe tiếng khuyên răn dịu hiền.
Cả bốn cô cháu cười bò, mãi sau mới cố nín cười để còn thưởng thức nét vẽ minh họa bên dứi. Bé vẽ mẹ theo đúng hình ảnh một thứ nữ tài tử xi nê, trẻ đẹp, một tay đặt lên gối, một tay đương xoa đầu con. Vì đứac con đây chính là mình nên bé Vân đã vẽ rất cẩn thận, khuôn mặt bầu bĩnh, tóc gọn gàng, đôi mắt nhìn về phía xa và môi là một điểm nhỏ xinh tô bằng bút nguyên tử đỏ, trông rất nũng nịu dưới bàn tay vuốt ve của mẹ.
Ánh phê bình:
- Nét vẽ của nó coi bột trưởng thành hơn lời thơ cô ạ.
Sang bài thứ hai là “Thơ tặng Ba.” Lần này mấy cô cháu ngắm bức minh họa của bé Vân trước. Bé vẽ Ba bận veston, thắt cravate rất trịnh trọng. Sự thự Phương luôn luôn bận sơ mi cụt tay. Vào ngày Tết, Phương mới thắt thêm một chiếc cravate. Cả nhà ai nấy mang máng nhớ vào một ngày xa xưa lắm – ngày cưới Quỳ - Phương là chú rể, ngày đó Phương quả có bận veston thật. Bài thơ này bé làm vào thời ba còn đi học tập thuộc diện quan nhân biệt phái giáo sư trung học, vì vậy chỉ có bốn câu ngũ ngôn tứ tuyệt, Út Hương cao giọng đọc:
THƠ TẶNG BA
Ba tôi đi học tập
Đã suốt hai năm liền Mẹ nhà lo cơm nước Chăm sóc đàn con thơ.
Vào dịp này bà nội vô Nam lần thứ nhất, ông Giáo đã bị bắt giữ, cụ chờ mười ba tháng, ông Giáo vẫn thăm thẳm trong tù chưa biết ngày nào mới được ra, cụ đành trở về Bắc. Bài thơ thứ ba của Vân “Tặng Bà Ngoại” trở về thể lục bát. Ly cao giọng đọc:
THƠ TẶNG BÀ NGOẠI
Bà tôi nay tuổi bảy ba
Dáng người thâm thấp nước da hồng hào
Thương con thương cháu bà vào Đầu xoa lưng gãi bà nào nguôi tay Mỗi lần bà đến em hay
Em pha một tách trà đường bà xơi
Bà cười đậu phọng lấy ra cô ạ.
Miệng bà bỏm bẻm đỏ tươi miếng trầu
Nay bà về Bắc buồn sao
Vần thơ nho nhỏ con trao tặng bà.
Bé Hương gật đầu:
- Đã có sự tiến bộ, nghĩa là đã có câu có vần
Ly lắc đầu:
- Nhưng còn nhiều câu vẫn tỉnh bơ không vần. Mà năm 1978 bà bảy mươi lăm tuổi chớ có phải bảy mươi ba đâu.
Ánh nêu ngay điểm giảm khinh:
- May mà nó nhớ lầm tuổi bà ngoại nên câu thơ vào bài đó mới có vần!
Bức minh họa bên dưới bé Vân vẽ bé đương cung kính dâng bà ngoại chén trà đường bốc khói. Chắc chắn những nét vẽ bà ngoại làm bé Vân loay hoay gấp năm gấp sáu lần khi vẽ mẹ (vẽ người già bao giờ cũng khó) và mặc dầu bé đã cẩn thận vẽ tới ba nét nhăn trên trán mà nhìn bà ngoại trông vẫn còn trẻ, quá trẻ so với bà ngoại thực bên ngoài.
Kế tiếp là mấy bài bé Vân vịnh cái tủ (đựng quần áo), cái phi-de nhà em (tủ lạnh) và một bài tả cảnh làm mứt chuối, bài nào cũng đều được minh họa, và đều có những câu “tỉnh bơ” không vần, nhưng luôn luôn là cái nhìn ngộ nghĩnh, những ý nghĩ ngộ nghĩnh chỉ có thể ở tuổi đó mới nhìn ra thế, nghĩ như thế. Cả bốn cô cháu đều rất thưởng thức những vần thơ đó. Hai bài thơ cuối cùng của bé Vân được thay phiên đọc lại mỗi bài hai lần:
CON MÈO
Nhà em nuôi một con mèo
Suốt ngày nó chạy leo trèo nghịch ghê
Nhưng ai chớ vội cười chê
Tuy rằng nghịch ngợm chẳng hề phá ai
Một lần chuột đến ra oai
Móng xòe mắt sáng chuột to cũng gờm
Khi chuột hết mèo lành như bụt Nằm khoanh tròn đôi mắt lim dim Hai tai nghe ngóng im lìm
Đuôi dài phe phẩy như tìm vật chi
Chúc cho mèo nhỏ ngoan hơn.
Và bài sau chót “Nội Trợ” được chi thành hai chương đánh số la mã hẳng hoi. Về điểm này quả thực bé Vân rất ngoan, chịu khó đi chợ mua những thứ giản dị tại các bà các cô bán hàng quen, rồi về nhà vừa phụ bếp vừa hát vang (bé Vân rất hay hát), thuờng được mẹ khen là “con gái mẹ đảm ba đảm bốn” (đảm lắm) chẳng lười sượt xác như chị Bích tồ:
NỘI TRỢ
I
Sáng rồi tỉnh dậy đi mau
Quét nhà, đun nước, nhặt rau, xào mì
Ăn rồi ta chuẩn bị đi
Ra chợ Bà Hạt mua gì được đây
Đầu tiên mua ký khoai tây
Thịt bò mềm thớ hành tây xen vào
Mua dăm ba củ xu hào
Củ to xanh lá lại thêm mớ hành
Xong rồi mua một hào chanh
Thịt heo băm nhuyễn nấu canh với hành
Nhịp nhàng chân bước nhanh nhanh
Túi tiền đã sạch sành sanh còn gì
Bây giờ chuẩn bị đi về.
II
Về nhà thịt cất phi de
Rau ta đem nhặt, muối mè ta rang
Tang tang tịch tịch tình tang
Ngân nga tiếng hát vang vang khắp nhà
Chanh, hành, tiêu, tỏi lấy ra
Bắc cơm lên bếp chúng ta nhóm lò
Xong rồi ta thái thịt bò
Nêm mắm nêm muối ta cho lên xào
Lại còn gọt củ xu hào
Xanh xanh mầu lá ngọt ngào tô canh
Công em quên được sao đành
Đảm ba đảm bốn nổi danh trong nhà.
Ở dưới nhà ông bà Giáo lắng nghe thấy tiếng cười đám cô cháu đã ngớt coi bộ kỳ này gần hết chuyện rồi.
Quả thực đề tài vui của mấy cô cháu đã hết. Quỳ đứng dậy sắp về, chợt đưa mắt nhìn ra khoảng bao lơn rồi nói giọng trách móc:
- Trời ơi, chúng mày bậy quá, ai lại để cây ngâu và đám chậu hoa ngoài kia thiếu nước héo cong cả lá. Hồi Hoa còn ở nhà có bao giờ nó để thế đâu. Để cây cỏ khát nước như vậy, chúng mày bậy thật!
Thế là mấy cô cháu xúm nhau lại tưới cho các bồn cây và chậu hoa. Quỳ luôn miệng nói:
“Chúng mày để cho cây khát nước thế này là bậy quá, bậy quá.” Bỗng Quỳ chuyển hướng câu chuyện:
- À, này chúng mày, tao mới được biết cái khó đặc biệt của người vượt biên, đó chúng mày biết là cái gì?
- Nhớ nhà có phải không cô? – Út Hương nói.
- Nhớ nhà, nguy hiểm trên mặt nước, nguy hiểm gặp cướp biển… tất, tất cả những cái đó để qua bên, không kể. Đó là những điều dĩ nhiên mà. Phải chợt khám phá ra điều gì mới kia.
- Đi là khổ biệt ly rồi – Ánh nói – chẳng còn tránh vào đâu được.
Quỳ giơ một ngón tay lên:
- Hơn một lần biệt ly, các cháu nên nhớ như vậy. Lúc ra đi biệt ly với người thân. Được tàu vớt, lênh đênh trên tàu ít ngày tới trại tỵ nạn biệt ly với tàu với những ân nhân trên tàu. Tới trại tỵ nạn ở vài tháng, có khi trọn năm, kết bạn với những người đồng cảnh ngộ, rồi lại biệt ly với họ, người này được bốc đi định cư nơi này, người kia được bốc đi định cư nơi khác. Rồi đến chính mình được bốc đi định cư, biệt ly với những bạn thân còn ở lại, biết có bao giờ còn gặp lại nhau.
Ấy, tiếng là bàn về biệt ly nhưng giọng Quỳ vui như Tết, thêm những tiếng cười ranh rách của mấy đứa cháu gái góp thêm những ý ngộ nghĩnh ngược đời.
Lòng bà Giáo vui không kém, không cần phải nhìn ảnh con Hoa, chỉ cần nhìn lại tập bài học trong giảng khóa in ronéo của nó, bà cũng có cảm tưởng được nhìn thấy mặt nó. Nhân bà bạn hàng xóm có đứa con đầu vừa sinh con so nặng ba ký hai, bà Giáo ôn lại chuyện sinh đẻ của mình.
Tôi ấy bác ơi, sinh tám cháu mà không đứa nào được ba ký hết. (Vi vừa đi vào). Thằng Vi này, bây giờ cao lớn nhất nhà mà ngày đẻ có hai ký chín, thằng Hải hai ký tám, con Ly hai ký sáu, con Hoa hai ký bẩy, con Út Hương hai ký tư…
Bà nói thuộc vanh vách. Ở trên đời những học trò ngoan nhất thuộc bài làu nhất cũng chỉ đến thế là cùng. Bà hàng xóm hỏi:
- Cháu Út Hương có hai ký tư có thiếu tháng không bác?
- Không đâu bác ạ, giá như có thiếu thì chỉ thiếu một hai tuần. Vì các cháu nhẹ ký nên tôi đẻ dễ lắm, có lần anh ấy đèo vespa tôi tới nhà thương, lên giường đẻ liền, cứ y như đẻ rơi. Có đuôi có đầu nuôi lâu cũng lớn!
Và bà Giáo cười, tiếng cười ròn tan.
Nếu họa vô đơn chí thì phúc cũng hữu trùng lai. Ngày hôm sau Quỳ nhận được thư của cô gái trưởng, Bích tồ.
Dagmar Maersk, ngày 13-4-1980
Ba mẹ kính yêu,
Chắc rằng ba mẹ mong tin tụi con từng giờ từng phút, biết vậy mà mãi đến hôm nay con tàu cứu sống chúng con – Dagmar Maersk – mới cặp bến cho nên chúng con viết thư về thăm gia đình.
Năm ngày lênh đênh trên biển với một cái ghe chút xíu quả thật vô cùng hãi hùng với tụi con. Hôm đầu tiên nằm trên ghe taxi thoải máy vô cùng, ăn uống đủ hơn ở nhà nữa đó, nói chuyện cười đùa và chọc phá mấy người trên ghe. Ôi quả thật là sung sướng! Sang đến ngày thứ hai đã lên ghe lớn, chao ôi giai đoạn thử thách đã đến, sóng gió dập vùi. Dây điện lại quấn vào chân vịt, đã tưởng chuyến này hỏng luôn, may sao cuối cùng có một người hùng lặn xuống đáy ghe cắt gỡ được. Hú vía! Chật chội khó chịu đến mức ba mẹ không sao tưởng tượng nổi đâu, giờ đây chỉ mới thoáng nghĩ đến mà con đã muốn bệnh. Ui chao; không sao kể xiết được sự dơ dáy của cái gọi là quần áo mà chúng con mặt trên người, tẩm đủ nước biển, mồ hôi, nước ói, dầu nhớt, kể cả… nước tiểu nữa. Chúng con được ăn cơm sống, khê, nhão đều đặn, dĩ nhiên gạo không hề vo. Ấy thế mà con gái kén ăn của mẹ vẫn xực ngon lành, nhiều nữa là đằng khác.
Mẹ ơi, chanh mẹ mua công hiệu vô cùng, chúng con bó vỏ mà ăn từng múi ngon lành tỉnh táo vô cùng mẹ ạ! Ba mẹ đừng lo, con đúng là phái mạnh, không hề say sóng. Hai hôm đầu, sóng khá to đấy, con chỉ ói chút xíu, còn bà Vân thì khỏi chê, ói mửa cả bịch, tùm lum. Khiếp lắm mẹ ạ. Chỉ có vài hôm mà con thấy đứa nào mặt cũng vêu ra. Tóc tai rối bù. May mà trước khi đi chị Hoa cắt tóc ngắn như con trai cho con nên không bị rối. Trên con đường lênh đênh như vậy, tụi con gặp nhiều tàu lắm mẹ à, không biết của nước nào. Lần nào gặp cũng nhốn nháo cả ghe, nào bắn đạn sáng, nào phất cờ trắng, nào đàn bà con gái tủa ra ngoài vẫy, nhưng vì một lẽ bất khả kháng nào đó họ đi luôn. Mãi đến chiều 9-4, tụi con mới nhìn thấy một chiếc tàu nữa. Lúc đó con quá nản cứ nằm lỳ một chỗ mặc cho mọi người xôn xao không hiểu đó là tàu nước nào. Chú Phúc cho bắn pháo hiệu và cho ghe cập sát gần tàu. Thật sự kể cả tới lúc đó con cũng chả hy vọng tí nào. Con nghĩ may ra thì xin thêm được nhiên liệu và nước ngọt. Chị Kim đã đại diện ghe nhà lên nói chuyện với thủy thủ đoàn trên tàu. Trời ơi không thể tả nỗi vui mừng khi biết được rằng người ta đã chấp thuận với tụi con. Con là người thứ ba leo lên thang dây.
Đây là chiếc tàu chở dầu Đan Mạch, bề dài ba trăm thước, bề ngang năm chục thước. Lúc lên tàu lớn vững vàng rồi, con và mọi người mới thấy đầu óc choáng váng, chân tay run lẩy bẩy. Lúc đó tất cả chúng con là những cái bia cho hàng chục cặp mắt xanh. Ba mẹ ơi, nghĩ đến bây giờ con còn thấy xấu hổ. Dơ dáy hôi hám như đoàn người ăn xin mạt hạng nhất. Chỉ một số rất ít người mang được dép lên, còn hầu hết đi chân không. Tụi con ngơ ngác đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Trời ơi, người ta sang trọng và lịch sự quá mẹ ơi! Ngay trên tàu có cả piscine, thành ra con rất khoái cứ rủ tụi thằng Tỉ con Vân nhào xuống bơi hoài à. Con cũng có việc trên tàu đấy nhá, con làm phụ bếp và servir bữa ăn. Ông đầu bếp tên Henry khoái con lắm, cười đùa với con suốt ngày. Mẹ ơi, con không hổ danh là con mẹ và em chị Hoa đâu, con rất chịu khó nói tiếng Anh (hì, hì xử dụng cả chân lẫn tay nữa) để làm quen với hầu hết mọi người trên tàu, từ thuyền trưởng đến phụ bếp. Con thấy ông mũi lõ mắt xanh nào hiền hiền một tí là chọc phá loạn cào cào. Nhưng có qua có lại, họ cũng biết trả đũa đấy, ba mẹ ơi! Nói tóm lại mọi người rất vui vẻ, cởi mở, hồn nhiên như con nít vậy. Thú ghê! Trên tàu chúng con có bao nhiêu là phương tiện giải trí: cờ ca-rô, cờ đam, trò chơi mikado, cá ngựa, bơi lội, xi nê. Cười đùa suốt ngày.
Thôi con phải stop here để còn phải viết thư cho bà và hai bác nữa. Chúc ba mẹ luôn luôn vui khỏe và luôn nhớ đến tụi con.
Nhớ ba mẹ nhiều, thiệt là nhiều. Bích
Bà và hai bác kính yêu!
Cháu vẫn mạnh khỏe và sung sướng vô cùng! Chỉ tiếc hôm ra đi cháu không kịp lại chào bà và hai bác. Bà ơi, cháu nhớ những đêm được bà gãi đầu xoa lưng quá! Cháu mong bà luôn luôn khỏe mạnh sống vui với con cháu.
Bác trai ơi, ở đây bơ sữa ê hề nhưng chẳng bao giờ cháu quên chảo mì xào hoặc cơm rang của bác đâu, cũng như không bao giờ cháu quên những lời khuyên răn dạy bảo của bác. Bữa trưa ăn thịt ngán luôn đấy hai bác ơi. Mỗi người một miếng to tổ bố bằng miếng mà cả nhà ta ăn hai buổi. Có bữa dư rất nhiều đổ đi cỡ mấy ký thịt cá nữa, hai chảo cá mà có hôm chỉ ăn hết có một chảo, dư một chảo nguyên, cũng đổ luôn, hai bác tính thế có tiếc không. Cháu quen hầu hết trên tàu. Cháu lại mới quen một ông thủy thủ người Hòa Lan nữa, dễ thương, hiền, tốt kinh khủng hai bác ạ. Cháu đã tình nguyện giúp ông sơn, trước tiên là ở ngoài boong, sau đó xuống hầm máy, ở đây trời ơi nóng kinh khủng, 69 độ đấy. Mặc dầu mồ hôi nhễ nhại cháu vẫn cần cù sơn. Hôm sau Vân nó cũng theo cháu gia nhập công tác sơn tầu giúp. Người ta khen các cháu bác lắm đấy. Cháu nhớ câu đầu tiên hỏi khi nói chuyện với người Đan Mạch là: “Do you have a piano?” Người ta đáp: “No”, làm cháu thất ọng ghê. Mấy tuần nay cháu đâu được tập piano. Đành chờ vậy thôi.
Cũng trên thuyền vượt biên trước đây cháu có thấy mấy người mà nhân cách làm cháu ngại lắm, nhưng lên đến trên tàu này ăn uống no đủ, thừa mứa, nếp sống ngay thẳng cởi mở, tất cả những tính xấu ti tiện nơi họ làm cháu lo sợ hoài nay bỗng biến mất, họ cũng trở thành vui vẻ, cởi mở, và ngay thẳng nữa. Đúng như trở thành vui vẻ, cởi mở, và ngay thẳng nữa. Đúng như lời bác thường nói: về vật chất được nuôi dưỡng no đủ thừa mứa, về tình cảm được nuôi dưỡng trong tình người, nhất định con người dễ đẹp dễ cao thượng. À trên này cháu mới làm quen với hai đứa trẻ Đan Mạch, một trai một gái. Cháu khá thân với đứa con gái tên Hane. Bọn chúng cháu nói chuyện với nhau hầu như chỉ bằng chân tay – múa loạn xà ngầu. Ôi chao, chúng đẹp như thiên thần (tại ăn uống đầy đủ và nuôi dưỡng trong tình người, bác nhỉ).
Tàu cặp bến Đài Loan đã, rồi mới về Tân Gia Ba, tính ra tụi cháu lênh đênh theo tàu hai tuần lận thưa bác. Đêm hôm qua, trước khi từ giã chiếc tàu đầy ơn nghĩa, đám người vượt biên chúng cháu có tổ chức một văn nghệ nho nhỏ trình diễn trước thủy thủ đoàn của tàu. Thoạt chúng cháu giới thiệu dân ca ba miền. Chị miền Bắc mặc bộ bà ba đen (đáng lẽ nâu mới đúng), chít khăn mỏ quạ hát bài “Qua Cầu Gió Bay.” Chị miền Trung mặc áo dài trắng đội khăn vành dây, hò mái đẩy giọng thật dễ thương và xúc động. Cháu đóng vai miền Nam, mặc bộ bà ba vải bông, có chiếc khăn che đầu như mấy bà bán cá bên chợ chiều khu nhà, hát bài Lý Quạ Kêu. Cháu mới ra, máy hình đã bấm tanh tách. Vì hai bài đầu nhẹ nhàng quá đi, nên cháu vừa cất tiếng hát “kêu cái mà quạ kêu…” toàn bộ khán giả Đan Mạch và Việt Nam cười ồ lên. Trong buổi đó cháu hát đến khan cả giọng đủ hết các bài Anh, Pháp và Việt Nam. Cả đám thính giả thủy thủ đoàn tàu thích lắm, nhìn họ vỗ tay cháu khoái ghê.
Ngoài những người Đan Mạch, họ còn gồm cả một số Thụy Sĩ, Hòa Lan, Tây Đức. Ngay từ hôm chúng cháu mới lên tàu còn đói rách dơ dáy mà họ không hề tỏ ra khinh bỉ, trái lại còn sống hòa mình nữa. Cháu còn nhớ ngày đó ông Henry đầu bếp còn đặt cho cháu thêm một cái tên hiệu “Miss only skin and bone and spaghetty hair.” Ở Việt Nam cháu thuộc hạng mảnh khảnh, nhưng dưới mắt những ông mũi lõ mắt xanh này cháu hoàn toàn là cô bé da bọc xương thôi. Còn tóc cháu sở dĩ lởm chởm mì ống, vì trước khi đi, chị Hoa cắt tóc ngắn như đàn ông cho cháu, chỉ sợ tụi hải tặc Thái Lan.
Sau buổi tối trình diễn văn nghệ, hôm sau vào lúc chia tay, mỗi người (Đan Mạch và Việt Nam) đều khóc. Cháu vừa khóc vừa nhớ đến chiếc ghe chở tụi cháu. Hai bác có biết không, hôm chúng cháu vừa bước lên chiếc tàu chở dầu này đầu óc còn choáng váng… chân tay còn run lẩy bẩy, cháu có nhìn xa xa thấy chiếc ghe tí hon của tụi cháu. Nó bập bềnh, bập bềnh trôi dần. Lúc đó nhìn nó cháu cũng chảy nước mắt như thế này. Sao nó cô đơn quá!
Các anh chị yêu quí! Em nhớ các anh chị vô cùng! Hẳn nhà mình cũng im lặng bớt phải không vì vắng cái giọng rè rè của con Bích tồ và vắng tiếng đàn ầm ầm của nó! Em sẽ viết thư sau dài thiệt dài há.
Cháu của hai bác, em của các anh chị. Bích
Rồi những bức thư kế tiếp có cả ảnh nữa. Chuyến đi, cuộc sinh ly giữa ruột thịt, những người thân yêu nhất, đã làm cho cả đám trẻ đó trưởng thành biết lo lắng, biết thương nhau. Những dòng chữ đôi khi cuống quýt kể lại những chuyện, nhắc lại những chuyện (đủ thứ chuyện) với ba mẹ, với hai bác.
Thư con Vân:
“… Chị Bích chăm học các lớp Anh ngữ lắm ba mẹ ạ. Suốt ngày học thôi à, đôi khi quên cả nấu cơm. Bây giờ chúng con ngán thị gà luôn, bữa nào cũng thịt gà, gà rô ti, gà rán, gà hầm, gà nấu canh. Chợ cách trại có nửa cây số, chỉ bán có thịt gà, họa hoằn mới có thịt heo, còn thịt bò thì hoàn toàn vắng bóng. Từ hôm chúng con rời chuyến tàu Đan Mạch, chẳng được ăn miếng thị bò nào nữa…”
Thư thằng Tỉ:
“… Hồi còn ở trên tàu ngày ba bữa chúng con ăn sáng bánh mì săng uých, bơ, trứng gà, sữa tươi. Ở trại Tân Gia Ba này cũng sêm sêm thôi ba mẹ ạ, cũng ngày ba bữa, bữa sáng bánh mì săng uých kẹp trứng hay cá hộp (đôi khi chúng con ăn mì gói) và một ly cà phê sữa (sữa rẻ vô cùng). Sau những bữa cơm, chúng con thường đét-se vài quả cam hoặc táo. Nho hơi đắt nên thỉnh thoảng chúng con mới ăn. Xế chiều buồn buồn tụi con làm một cây kem ét-ki-mô. Tụi nhóc thì tha hồ suốt ngày nhóp hép suynh-gum. Bác gái ơi, ở nhà bác thích sô-cô-la, ở đây chúng cháu đứa nào cũng ngán vì ngọt quá, kể cả những đứa hảo ngọt như cháu…”
Thư Bích:
“… Bác ạ, sáng nay cháu vừa đi xem một chiếc piano ở một thương xá Singapore. Đẹp vô cùng nhưng cũng mắc vô cùng, khoảng từ năm đến sáu ngàn đô la Singapore. Cháu nhào zô đập thử bài Polonaise của Chopin, chết thật, cháu quên tùm lum, bác ơi. Cháu nhới cái đàn Đức cũn kỹ nhà mình quá. Tiếng của nó vẫn là ấm vang thanh thoát bác nhỉ…”
Thư con Vân:
“… Hôn nay tự nhiên con nớ ông Doede, cái nhà ông thợ sơn người Hòa Lan trên tàu Đan Mạch, chị Bích xuống hầm tàu sơn cho ông, con sơn được ba bức tường, sơn bắn tùm lum lên đầu, lên cổ, lên quần áo, đúng là thợ sơn con nít mẹ nhỉ. Đêm cuối cùng con cắt móng tay cho ông, ông vừa làm hiệu vừa hỏi đại ý: “Những ngón tay sứt mẻ xấu lắm phải không?” Con đáp là “Phải.” Con thấy mặt ông buồn buồn. Cắt xong ông khen con: “Very good.”
Thư của Bích:
“… Thấm thoắt con ở trại này đã được ba tuần rồi. Thương nhớ ba mẹ vô cùng!!! Đêm nào con cũng nằm mơ về thăm nhà đó. Con thèm canh chua rọc mùng của mẹ quá. Úy, còn cả canh dưa và canh cà bung nữa chứ, mẹ. Bây giờ thì con tham gia hầu hết các lớp Anh ngữ trung cấp ở đây, có tập nghe, tập nói cho trơn tru. Các bà thầy đều khen con nói Anh ngữ rất khá (con mẹ, em chị Hoa, phải thế chứ, hì hì). Các bà ấy dạy có phương pháp và tận tâm lắm, nhưng vẫn chưa hay bằng mẹ đâu, hì hì). Con đọc thêm những quyển truyện của bà giáo. Chữ nào bí con tra tự điển. Khổ nỗi chỉ có tự điển Anh-Anh, nhiều khi tra một chữ lòi ra một đống chữ hổng rành, để lại có cái màn đi hỏi bà giáo lung tung, xử dụng cả “ngôn ngữ quốc tế” (là múa chân múa tay) đó mẹ. Rồi cuối cùng cũng ra. Con đã đặt mua cuốn tự điển Anh Việt nhưng chưa có. Người Việt tỵ nạn mình đến ngày một đông ba mẹ ạ, tới 2.600. Chúng con vừa gặp anh Đạt (được tàu Tây Đức vớt) mới hay rằng ông nội mất sau mấy ngày chúng con đi. Chúng con bàng hoàng và thông cảm nỗi buồn xót xa của ba mẹ. Các cô chú ở đây đương sửa soạn làm lễ phát tang ở ngay một ngôi chùa Singapore gần trại. Nhà ta bây giờ vắng vẻ quá ba mẹ nhỉ, con thương ba mẹ quá, biết làm thế nào bây giờ…”
Thư con Vân:
“… Chị Bích đúng là con mẹ, em chị Hoa, giỏi Anh văng đáo để, hôm nay chị làm thông dịch viên đấy mẹ ạ. Chả là có một phái đoàn ngoại quốc tới diễn múa rối cho tụi nhóc trong trại xem, nội dung nói về Chúa ở trong lòng tin của mọi người, Chúa đem lại hòa bình cho nhân loại. Chị Bích đã báo trước với bà Mỹ đó là nghe được chút xíu nào thì dịch cho khán giả nghe, nhưng suốt buổi chị dịch rõ ràng lắm mẹ ạ. Các bà khen chị Bích lắm và cám ơn, rồi mời chị Bích và cả con nữa ăn một bữa cơm chay Cơ Độc gồm cơm, bắp, bánh mì, cà chua và nước lạnh. Thức ăn thanh đạm nhưng vui và ấm cúng. Nhân tiện nhà các bà ở có piano, chị Bích bèn tập một lúc. Chị Bích kêu là quên quá xá mẹ ạ…”
Thư thằng Tỉ:
“… Tối hôm qua có một chiếc ghe sáu thước gồm mười mấy thanh niên, một đàn bà và một con nít được tàu Na Uy vớt, con vội vàng chạy ra, mong ơi là mong được gặp lại những khuôn mặt thân yêu, nhưng toàn dân thuyền chài và một số công an cộng sản cũng ở Vũng Tàu trốn đi. Mấy hôm sau là 147 người được tàu Tây Đức vớt. Dạo này biển đã bắt đầu có bão nhưng mọi người vẫn tiếp tục “over sea” với những chiếc ghe ngày càng nhỏ nhắn, xinh xắn, máy móc giản dị hơn trước nhiều!
Ba mẹ ạ, từ dạo các cô chú hùn tiền mua cho chị Bích chiếc cassette hai loa bốn băng (260 Đô-la Singa- pore) nghe nhạc rất hay, nhưng chị Bích chỉ có băng học Anh văn mà thôi. Chị học tấn tới lắm. Chị thay mặt cả nhà trả lời những câu phỏng vấn của nhân viên sở di trú Mỹ. Nếu giấy bảo lãnh cô Hoàn tới lẹ, thì khoảng hai tuần nữa là tụi con được ký giấy nợ (sở phí chuyên chở tới Mỹ) và passeport. Ba mẹ ạ, ông nội thương con lắm, từ ngày ông nội mất, ông nội phù hộ cho chúng con gặp nhiều may mắn lắm…”
Thư Bích viết cho hai bác:
“… Thưa hai bác, mấy hôm nay tàu Tây Đức lại vớt được thêm 428 người (mười hai chiếc ghe nhỏ), cháu vội vã chạy ra xem có phép lạ nào mà gặp được mấy anh chị không. Nhưng… buồn thay! Có lẽ tại tụi cháu lấy hết cái may mất rồi. Theo nguyên tắc chúng cháu được tàu Đan Mạch vớt sẽ được đi định cư tại Đan Mạch, nhưng vì thằng Tú đã ở Mỹ với cô Hoàn nên chúng cháu đã theo lời khuyên trong điện của ba cháu là xin đi Mỹ, để đủ bốn anh em đoàn tụ một nơi. Chúng cháu cũng có học qua tiếng Đan Mạch. Ngôn ngữ này hơi rắc rối và nặng nề hơn tiếng Anh, về văn phạm chúng cháu chưa rõ mấy vì họ chỉ dạy những câu đối thoại thông thường. Cháu đã bập bẹ được vài câu xã giao rồi. Thực ra vì cháu rất mến những người Đan Mạch trên tàu nên cũng rắp tâm sang đó học hành, mọi người đều biết đời sống bên Đan Mạch rất cao, dân chúng hiếu hòa. Hơn nữa, cháu muốn mai sau khi học hành đã thành tài cháu còn phải làm cái gì để trả ơn những người đó (ôi chao, nói nghe ghê quá hai bác nhỉ). Nhưng nay đã nhận được điện của ba cháu khuyên hãy sang Hoa Kỳ để sống với thằng Tú cho đủ bốn anh em, thôi thì học hành ở đâu cũng được, miễn là khi thành tài mình phải làm cái gì để trả ơn người Đan Mạch cho xứng đáng với lòng tốt của người ta, hai bác nhỉ?
Hai bác ạ, nhiều đêm chợp ngủ cháu lại mơ nhìn thấy chiếc ghe tí hon của tụi cháu bập bềnh trôi dần. Lần nào cũng vậy khi thức giấc cháu đã thấy mình chảy nước mắt rồi. Thương nó cô đơn quá, không có người lái tất nhiên chỉ qua một thời gian ngắn là nó chìm nghỉm mất thôi. Để một chiếc ghe đã chở mình và bao nhiêu người thân khác bập bềnh cô đơn đợi lúc lật chìm chất đuối như vậy có phải là bất nhân, bất nghĩa không hở hai bác…”
Ông bà Giáo đọc xong lá thư trên của cháu gái nghẹn ngào rơm rớm nước mắt, vừa thông cảm nỗi buồn da diết của cô cháu gái về chiếc ghe bồng bềnh cô đơn đợi lúc lật chìm, vừa ngùi ngùi sung sướng vì thấy tình cảm cháu mình trung hậu.
Quỳ thì đọc đi đọc lại cả xấp thư của lũ con, rồi lại ngắm bốn tấm ảnh màu của chúng gửi về, đứa nào trong cũng như cao lớn vồng lên. Thằng Tỉ trong như Tây con, con Vân chụp nhìn thẳng hai má phinh phính đến cả hai vợ chồng cũng phải ngạc nhiên, người nọ hỏi người kia: “Con Vân đấy ư? Trời ơi, mới có hơn một tháng trời mà trong chúng lạ hoắc. Của đáng tội duy có Bích tồ là trông không khác mấy; con bé đẻ sau anh Thiện hai ngày, năm nay mười bảy tuổi coi bộ lớn hết cỡ, rồi lại tạng gầy nên trông thì cũng có vẻ lên cân đấy những không khác xưa là mấy.
Chợt Quỳ rùng mình liên tưởng đến bức thư người chồng cô bạn vượt biên qua ngả Miên “… Tất cả phụ nữ bị hãm hiếp hết, cưỡng lại bị bắn chết ngay, trong nhóm cùng đi có một cô la hét kháng cự bị bắn chết ngay tại chỗ. Đói, khát, cá sấu, trăn rừng, rắn, rết, đỉa, vắt, voi, hùm, beo, rồi người (còn tàn bạo gấp ngàn lần hơn tất cả những giống vật trên hợp lại) đều không thành vấn đề, người đi tìm tự do quả thực phải có một ý chí sắt đá biết tiến không lùi mới thành công được.”
Quỳ không hề cảm thấy hạnh phúc tăng bồng lên khi so sánh sự may mắn cùng cực của lũ con cháu mình với sự bất hạnh cùng cực của người thiếu nữ bạc phước vì la hét kháng cự mà bị người lính nhảy dù Miên trong lực lượng tự do Siha- nouk bắn chết ngay tại chỗ. Quỳ chỉ cảm thấy xót xa thấm thía. Quỳ (nghĩ là mình) cũng giống ông Giáo ở chỗ thương người còn hơn thương chính thân mình. Quỳ tưởng như mình đứng trên một đỉnh chót vót cao ngất Trường Sơn, tuy phía biên Đông chan hòa nắng vàng nhưng phía đồi núi Tây Nguyên chập chùng thì mây đen cuồn cuộn, sấm chớp ngợp trời. Họa phúc sao đây? Quỳ chỉ thấy lòng nặng trĩu u sầu về phía cả vùng đồi núi ngập trong bão tố. Một lần Quỳ được Bích dẫn đi dự một buổi hòa nhạc tại Quốc Gia Âm Nhạc Viên. Nghe tiếng cor nức nở trong một khúc giao hưởng của Haydn, Quỳ chợt thấy lòng nao nao thổn thức tưởng như chứng kiến một con thú bị đoàn người đi săn theo hiệu lệnh của tiếng cor bi hùng dồn vào bước đường cùng. Họa phúc sao đây với đám người nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, chỉ một ngày một nhiều đến nỗi cả thế giới tưởng như đã có một phút cảm thấy bão hòa về nỗi thống khổ của đoàn người trùng trùng điệp điệp ra đi. Không hề vì cái họa kia mà cái phúc này chói lọi thêm. Quỳ chỉ thấy xót xa. Mấy chục ngàn người đã chết chìm nơi biên sâu. Còn biết bao nhiêu nữa chết vùi rập, chết tan rữa trong rừng sâu, bùn lầy.
Tuy buồn thì buồn thật, buồn lắm, nhưng Quỳ cương quyết giữ lòng can đảm. Y như lần đi thăm nuôi ông Giáo ở trại cưỡng bách lao động về, Quỳ viết thư ngay cho anh:
“… Chuyến thăm anh vừa rồi em phải tự nhận là can đảm. Không khóc. Chị em cùng chuyến đi đã dặn nhau từ lúc còn ngồi trên xe đò: Đừng khóc! Khóc sẽ mất hết thì giờ nói chuyện! Chỉ có lúc anh nhắc đến mẹ và nghẹn ngào, em cũng nghẹn ngào lây, thế rồi thôi.”
Nhưng khi nhận bức thư cuối cùng của lũ con ở Tân Gia Ba trước khi chúng được di chuyển qua Mỹ, thì Quỳ đã khóc thật lực, khóc thở không được khi đọc đến đoạn thư của thằng Tỉ:
“… Con vừa nhận được thư cô Hoàn và thằng Tú He-lù gửi từ California, Hoa Kỳ. Tội nghiệp thằng Tú quá mẹ ơi, nó tưởng chúng con đi Đan Mạch, bỏ nó một mình không ba mẹ, không anh em ở bên đó. Nó viết mà như rống lên: “Hay là chị Vân hay là anh Tỉ, hay là chị Bích hãy sang đây với em. Buồn quá rồi. Không có ai cả sao?” Bây giờ thì con mới thấy là mẹ nói đúng. Khi còn sống chung con ghét thằng He-lù, khi xa mới thấy thương em. Hôm qua con được lá thư nhật ký của mẹ, con vừa đọc vừa khóc, vì con đọc trang nhật ký nào cũng thấy những lời mẹ thương chúng con, và buồn nhất là câu: “Mẹ đã giữ được làm kỷ niệm mỗi con một bộ quần áo xếp trong rương kia. Đêm đêm mẹ ngủ thỉnh thoảng mẹ thức giấc nhìn sang giường thấy vắng tất cả tụi con, mẹ chỉ còn biết gọi thầm tên từng con…”
Và đoạn thư khác của con Vân:
“… Tối hôm qua con nằm mơ thấy mẹ đang ngồi viết viết cái gì đó mà con không biết. Con vội chạy tới vòng tay ôm mẹ và hỏi mẹ có buồn không. Mẹ nói là không buồn nhưng con lại thấy mẹ kh1c. Con nói là bây giờ con không đi đâu nữa (vậy mà bây giờ con lại ở đây). Lúc đó con chợt tỉnh dậy nghe tiếng sáo nhạc Việt nam ở radio, con nhớ mẹ quá và khóc. Mẹ có thương con không?”
Kèm theo trang thư của Vân là một tờ khác, nguyên trang bên này Vân nắn nót chép lời ca bài “Lòng Mẹ” với dòng chữ ghi giữa hai ngoặc đơn (chép lại để dâng mẹ). Trang kia Vân ghi một số ý nghĩ của Vân về mẹ, ghi theo kiểu cách tư tưởng của danh nhân. Trang chép bài ca “Lòng Mẹ” Vân gạch dưới bằng bút đỏ những lời ca Vân ưng ý nhất: Tình mẹ bao lao như biển Thái Bình dạt dào… Thân gầy mẹ hiền chẳng quản nắng mưa dãi dầu… Dù muôn trùng xa, lòng con luôn luôn hướng về bóng mẹ yêu…
Sang trang ghi những dòng tư tưởng trân trọng của Vân, tiêu đề “Mẹ” tô rất đậm, dòng chữ bên dưới cực kỳ nắn nót. Tư tưởng nhất định trưởng thành hơn những bài thơ hai năm về trước của Vân.
Mẹ!
Mẹ: Ngôi sao sáng nhất của đời con, ngôi sao
Bắc Đẩu!
Mẹ: Tượng trưng cho sự thương yêu vô bờ bến. Mẹ: Tượng trưng cho sự chịu đựng bất diệt tất cả mọi khổ đau để con mình nên người.
Mẹ: Không một sức mạnh nào có thể lấn át được tình thương bao la rộng lớn của một người mẹ.
Mẹ: Đôi mắt mẹ sáng hơn mặt trời và dịu dàng hơn mặt trăng.
Mẹ: Cái nhìn trìu mến an ủi của mẹ xóa tan mọi sự tăm tối, ngờ vực, lo sợ trong đầu con.
Mẹ: Ba nhớ mẹ không bằng mẹ nhớ con khi đi xa. Mẹ: Dưới mắt chúng con, mẹ là một người trọn vẹn!
Khi ông Giáo đọc xong những trang thư trên của Vân, ông nói với Quỳ:
- Cô với lũ nhóc nhà này cứ trêu con Vân là cải lương, nhưng tình cảm của nó dạt dào và sâu sắc ra phết đấy chứ rỡn sao.
Quỳ nói:
- Em nghĩ về sau nó có thể viết văn làm thơ được, lúc đó bác… huấn luyện cho cháu.
- Dĩ nhiên! Tôi vẫn còn giữ cả khóa trình dạy về tiểu thuyết ở Văn Khoa Sài Gòn kia kìa! – Ông Giáo cười thật ròn và nói thật vui để cố thoa dịu nỗi buồn tưởng như không bao giờ nguôi của Quỳ lúc đó.
Cũng may, ít lâu sau là lá thư vui của Bích tồ tường thuật lại chuyến di chuyển qua Mỹ của mấy chị em bằng phi cơ, và cuộc xum họp của cả bốn chị em nó ở Westminster, California.
Pan Am ngày 17-7-1980
Ba mẹ kính yêu,
Con, Tỉ và Vân hiện đang ngồi trên chiếc Boeing 747. Ba đứa chúng con được ngòi gần nhau, con lại được xếp ngồi ghế sát cửa sổ nên tha hồ ngắm phong cảnh bên ngoài. Để con tường thuật từ đầu đến cuối cuộc hành trình vĩ đại này nhé. Chúng con đã sửa soạn sẵn sàng hành lý từ chiều hôm qua để sẽ lên đường vào lúc bốn giờ sáng. Tối hôm qua con và Vân đi chào từ biệt tất cả những người quen trong trại đã từng cùng nhau gắn bó gần ba tháng trời. Đúng thế mẹ ạ, bây giờ con mới biết quả thiệt cuộc chia ly nào cũng buồn. Về nằm trằn trọc mãi đến gần một giờ sáng con mới chợp ngủ được một tí. Ba giờ rưỡi, mọi người lục đục dậy lo sửa soạn. Bốn giờ rời trại ra phi trường. Ba mẹ ơi, con cố gắng ghi sâu trong óc hình ảnh thương mến của trại và căn nhà 22 đầy kỷ niệm. Gần năm giờ tới phi trường, lo sửa soạn gởi hành lý, lãnh vé máy bay. Xong mọi thủ tục, khoảng bảy giờ chúng con đã cùng gia đình các chú thím ngồi thoải mái trên những chiếc ghế nệm êm ái. A, ba mẹ có biết các con ba mẹ ngồi trên chiếc phi cơ hùng vĩ và lịch sự này ăn mặc ra sao không? Con và Vân cùng bận quần Jean, áo sơ mi thun tay dài sắn lên, đeo kính gọng trắng, mang săng-đan trắng và vớ trắng. Thằng Tỉ thì mặc áo sơ mi ca rô màu gạch, trước hôm đi nó còn lên chợ mua một cái áo mặc đi tuyết có cái mũ đẹp lắm.
Ôi chao, các con của ba mẹ lịch sự lắm kia, ngồi lịch sự, nói chuyện lịch sự, cười lịch sự, cám ơn mỗi khi cô chiêu đãi phục vụ mình (hì hì, mèo khen mèo dài đuôi!) Mười lăm phút sau máy bay chuyển ra phi đạo rồi cất cánh. Ngồi trên phi cơ tiện nghi như ở nhà, con bấm nút nghe nhạc cổ điển, con được gặp lại bản Scherzo du Carnaval de Vienne của Schumann, mười ngón tay con ngứa ngáy quá! Con đành xử dụng 36 cái răng để nhai suynh gum cho… hả giận vừa để chống ù tai nữa. Bữa sáng của chúng con trên phi cơ: cơm chiên với đùi gà, trái cây đét se, cà phê. 10g45 tụi con xuống Hồng Ko6ng chuyển sang một phi cơ Pan Am khác để đi Tokyo. Xuống Tokyo đợi khoảng một giờ (7g30) chúng con lên lại chiếc phi cơ cũ. Lần này thẳng tiến đến Los Angeles ba mẹ ạ. Khoảng 8g00 hôm sau (tức 15g00 nước Mỹ) chúng con đã sửa soạn xuống phi trường trên đất Mỹ. 15g45 tụi con đã có mặt ở tại phi trường Los Angeles. Khí hậu ở đây ngộ lắm, nắng vẫn chiếu xuống chói chang, mà gió lạnh vô cùng. Chờ đợi ở qua thuế để lo thủ tục định cư mất gần 2 tiếng. Rủi thay máy bay về Santa Ana không còn chỗ, xe buýt thì không mướn được, nhân viên phụ trách bọn con bảo mọi người hãy ra ngoài cổng phi trường đợi người nhà (họ đã gọi điện thoại báo).
Tụi con chống mắt lên ngóng cái xe nào màu đỏ của cô Hoàn (như cô đã dặn) trong đó có cả thằng Tú tới đón. Trời gió lạnh quá, con cứ thọc tay vào túi áo len mà xuýt xoa. Những gia đình khác đều đã lần lượt có người tới đón; tụi con đều nôn nóng vô cùng. Mãi tới 19g30 (trời hãy còn ánh nắng mẹ ạ) thình lình con thấy một chiếc xe đỏ xuất hiện. Con hét lên (tất nhiên giọng con vẫn rè rè) một tiếng: “Cô Hoàn!” Mọi người đổ xô lại. Con vội vàng mở cửa xe hét lên: “He-lù đâu rồi?” Và nước mắt dàn dụa chảy ra. Vân và Tỉ cũng thế. Thằng He-lù bây giờ cao hơn và mập hơn trước một tí. Buồn cười nó quen “à há, à há” mỗi khi trả lời tụi con (như người Mỹ vậy đó). Để thử tài Anh văn nó, con đã hỏi ngay: “What’s your name.” Nó xưng danh ngay: “My name’s Tú!” Câu thứ hai: “How old are you?” (bao nhiêu tuổi) nhưng con đã chơi xỏ nó, nuốt nhanh chữ “old” (câu hỏi thành: khỏe mạnh không?) Quả nhiên He-lù mắc bẫy đáp: “I’m fine, thank you!” (Tốt, cám ơn!) Cả bọn chúng con cười ồ trêu nó, nhưng nó tỉnh bơ cười hếch mũi. (Điều này y như hồi nó ở nhà). Bây giờ nó ăn mặc lịch sự lắm đó, quần tây, giầy ba ta, mang vớ đàng hoàng. Câu chuyện còn dài, con sẽ kể tiếp thư sau vì hết giấy rồi.
Con nhớ ba mẹ nhiều, Bích