Hạ Cánh Tháp không lưu quốc tế JFK
Đĩa ra đa, người ta gọi vậy. Rực một màu xanh đon sắc (hon hai năm nay, JFK vẫn đang chờ để được thay màn hình màu mới), như bát xúp đậu đính thêm mớ chữ cái đằng sau những đốm sáng mã hóa. Mỗi đốm sáng tưọng trưng cho hàng trăm sinh mệnh, hay linh hồn, theo cách gọi của ngôn ngữ hàng hải cổ mà ngày nay ngành hàng không vẫn dùng.
Hàng trăm linh hồn.
Có thể đó là lý do mọi nhân viên kiểm soát không lưu đều gọi Jimmy Mendes là "Giám mục Jimmy". Giám mục là nhân viên kiểm soát không lưu duy nhất đã đứng nhiều hơn ngồi suốt cả ca làm tám tiếng, cầm cây bút chì HB đi tới đi lui, đàm thoại với các máy bay thương mại tới New York từ đài không lưu cao 97,84 mét so với Sân bay Quốc tế John F. Kennedy, giống như một chàng chăn cừu đang chăm sóc đàn cừu của mình. Anh dùng đầu tẩy màu đỏ để hình dung cái máy bay đang nằm dưới sự điều khiển của mình và mường tượng ra khoảng cách tương đối giữa hai máy bay, chứ không hoàn toàn dựa vào màn hình ra đa hai chiều.
Trên đó hàng trăm linh hồn đang bíp bíp, từng giây một.
"United 6-4-2, rẽ phải hướng 1-0-0, lên độ cao một nghìn rưỡi." Nhưng ta chẳng thể nghĩ như vậy khi ta ở trên đĩa ra đa. Ta chẳng thể chăm chăm nhìn mọi linh hồn đã đặt số phận của mình vào mệnh lệnh của ta: những con người bị nhét bên trong
những cỗ máy có cánh lao vùn vụt trên không cách mặt đất hàng nghìn mét. Ta chẳng thể nào bao quát hết được: mọi máy bay nằm trên đĩa của ta, và mọi kiểm soát viên đang rì rầm các cuộc đàm thoại mã hóa qua tai nghe xung quanh ta, và mọi máy bay trên các đĩa ra đa của họ, và tháp không lưu của sân bay LaGuardia lân cận... và mọi tháp không lưu ở mọi sân bay trên mọi thành phố Mỹ... và trên toàn thế giới...
Calvin Buss, giám đốc khu vực không lưu và là sếp trực tiếp của Giám mục Jimmy, xuất hiện ngay sau lưng anh. Ông quay trở lại sớm sau giờ nghỉ giải lao, thật ra miệng vẫn đang nhai thức ăn, "Tình hình Regis 7-5-3 thế nào rồi?"
"Regis 7-5-3 đã hạ cánh." Giám mục Jimmy liếc mắt qua đĩa ra đa để xác nhận. "Đang tiến đến cổng." Anh kiểm tra bảng phân cổng, dò tìm chiếc 7-5-3. "Sao vậy?"
"Ra đa giám sát mặt đất cho thấy ta có một máy bay đang đứng bất động ở Foxtrot."
"Ở đường lăn sao?" Jimmy kiểm tra lại đĩa ra đa lần nữa để chắc chắn các bộ thu phát đều hoạt động bình thường, rồi mở lại kênh DL753. "Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, hết."
Không động tĩnh. Anh thử lại.
"Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, hãy trả lời, hết." Anh chờ đợi. Không động tĩnh, thậm chí chẳng một tiếng lạo xạo từ radio.
"Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, nghe rõ trả lời, hết." Một trợ lý lưu thông xuất hiện ngay phía sau Calvin Buss.
"Hay hệ thống liên lạc trục trặc?" anh ta gọi ý.
"Lỗi cơ khí hiển nhiên thì đúng hon." Calvin Buss đáp. Nghe nói cái máy bay đó tối om."
"Tối om?" Giám mục Jimmy thốt lên, kinh ngạc trước một vụ thoát hiểm trong gang tấc, cái máy bay dính lỗi cơ khí hiển nhiên chỉ vài phút sau khi hạ cánh. Anh tự nhủ là trên đường về nhà sẽ dừng lại đánh con số 753 cho ngày mai.
Calvin cắm tai nghe của mình vào cổng âm thanh trên thiết bị liên lạc của Jimmy. "Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, xin trả lời. Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu, hết."
Chờ đợi, lắng nghe.
Không động tĩnh.
Giám mục Jimmy theo dõi các đốm sáng còn chưa được xử lý trên đĩa ra đa - không có cảnh báo va chạm, toàn bộ máy bay của anh đều ổn. "Tốt hơn hết chúng ta nên cảnh báo tránh đường lăn Foxtrot," anh nói.
Calvin rút dây tai nghe và lùi lại. Anh mắt ông xa xăm, nhìn qua bàn điều khiển của Jimmy hướng ra bên ngoài cửa sổ ca bin tòa tháp, về phía đường lăn. Trông ông đầy bối rối lẫn lo lắng. "Chúng ta cần dọn quang Foxtrot." Ông quay sang người trợ lý lưu thông. "Cử ai đó kiểm tra đi."
Giám mục Jimmy bấu tay vào bụng, chỉ mong sao có thể thò tay vào trong xoa dịu cảm giác nhộn nhạo đang cuộn lên. Nghề của anh, về cơ bản, chính là công việc đỡ đẻ. Anh hỗ trợ các phi công đưa những cái máy bay chở đầy linh hồn an toàn rời khỏi dạ con không trung để đến với mặt đất. Giờ anh thấy nhói lên cảm giác sợ hãi, như một bác sĩ trẻ lần đầu đỡ đẻ một đứa bé chết non.
Thềm đế máy bay nhà ga số 3LORENZA RUIZ đang trên dường lái một xe băng tải hành lý, về cơ bản là một hệ thống thủy lực được lắp đặt trên các bánh xe, tới cổng ra máy bay. Không thấy chiếc 753 xuất hiện ở góc đường như dự kiến, Lo bèn lái xe băng tải ra xa hơn để ngó nghiêng xem sao, dù gì thì cũng sắp tới giờ nghỉ của cô. Cô đeo tai nghe chống ồn, mặc áo trùm đầu Mets bên trong áo gi lê phản quang, đeo kính bảo hộ - cái thứ bụi đường băng đó quả là đồ chết tiệt - cùng một cây dùi cui điều khiển giao thông màu cam đặt cạnh hông cô, trên ghế ngồi.
Cái quái gì vậy?
Cô tháo kính ra như thể phải nhìn bằng mắt thường mới được. Nó đây rồi, một chiếc Regis 777, một bé bự, một trong những thành viên mới của đoàn phi cơ, đang nằm im lìm trên đường lăn Foxtrot trong bóng tối. Bóng tối tuyệt đối, thậm chí đến cả đèn tín hiệu ở đầu cánh. Tất cả những gì cô nhìn thấy là bề mặt hình ống nhẵn nhụi của thân máy bay cùng đôi cánh lờ mờ sáng dưới ánh đèn hiệu hạ cánh của những máy bay đang tới gần. Một trong số chúng, chiếc Lufthansa 1567, vừa kịp dừng lại khi càng hạ cánh chỉ cách mặt đất ba chục phân.
"Lạy Chúa!"
Cô gọi về báo cáo.
"Chúng tôi đang trên đường tới rồi," sếp cô nói. "Phía đài quan sát muốn cô lái xe băng tải ra đó kiểm tra."
"Tôi ư?" Lo nói.
Cô cau mày. Cái giá cho sự tò mò đấy. Vậy là cô lái xe dọc theo làn đường phục vụ, rời xa khỏi nhà ga hành khách, băng qua những đường lăn được son trên thềm đế máy bay. Cô hơi lo lắng, và rất thận trọng, vì chưa từng ra xa đến thế, FAA[I] có các quy tắc nghiêm ngặt về phạm vi hoạt động của các xe moóc chở hành lý và xe băng tải.
Cô băng qua những chiếc đèn hiệu xanh bên rìa đường lăn. Cái máy bay có vẻ như đã bị tắt máy hoàn toàn, từ đầu đến đuôi. Không ánh đèn pha, không ánh đèn hiệu, không một ánh đèn bên trong cửa sổ buồng lái. Thông thường, thậm chí từ dưới mặt đất cách tầm chín mét, qua phần kính chắn gió nhỏ xíu như hai con mắt nghiêng nghiêng trên phần mũi rất đặc trưng của chiếc Boeing, ta vẫn có thể nhìn xuyên vào bên trong buồng lái, thấy bảng điều.khiển phía trên cùng các đèn báo phát ánh sáng đỏ như trong buồng tối. Nhưng lúc này đây không có bất cứ ánh đèn nào.
Lo đứng lặng cách đầu cánh trái máy bay tầm chục mét. Khi đã làm việc trên thềm đế máy bay đủ lâu - tính đến giờ Lo đã trong nghề tám năm, lâu hơn cả hai cuộc hôn nhân của cô gộp lại - ta sẽ học được chút này chút kia. Các cánh tà sau và cánh liệng, các cánh tà lưng nằm trên phần phía sau lưng cánh, tất cả đều dựng thẳng đứng như Paula Abdul[II] - các phi công luôn đặt chúng như vậy sau khi hạ cánh xuống đường băng. Các động cơ phản lực im lìm; thường thì sau khi tắt, chúng vẫn phải mất một lúc mới có thể ngừng ngấu nghiến không khí và nuốt sạch đám bụi bẩn cùng lũ côn trùng như một cỗ máy hút chân không háu đói. Vậy là bé bự này không những đã đến đây gọn gàng rồi đáp xuống ngon lành mà còn lăn bánh được xa chừng này, trước khi... tắt phụp.
Đáng lo ngại hon, nếu nó đã hạ cánh an toàn, vậy thì cho dù biến cố có là gì đi nữa thì nó cũng chỉ có thể xảy ra trong khoảng hai ba phút. Biến cố gì mà lại có thể nhanh đến thế?
Lo tiến lại gần hơn chút nữa, lái tới khu vực dưới cánh. Nếu những động cơ phản lực kia bất thình lình khỏi động lại, cô chẳng muốn bị hút vào trong và tan xác như bọn ngỗng tròi Canada chút nào. Cô lái đến gần khoang hành lý, khu vực cô quen thuộc nhất trên máy bay, tiến về phía đuôi rồi dừng lại bên dưới cửa thoát hiểm sau. Cô khóa phanh và chỉnh cần để nâng băng tải lên độ cao tối đa, nghiêng một góc tầm ba mươi độ. Chưa đủ, nhưng cũng ổn. Cô bước ra, với tay về phía sau lấy chiếc dùi cui và bước ngược lên băng tải tiến về phía cái máy bay chết đó.
Chết ư? Sao cô lại nghĩ thế nhỉ? Thứ này chưa từng sống...
Nhưng trong một thoáng, Lorenza tưởng tượng ra một cái xác khổng lồ, đang mục rữa, một con cá voi mắc cạn. Trong mắt cồ, cái máy bay giống như thế đó: một cái xác đang thối rữa, một con thủy quái đang hấp hối.
Gió lặng đi khi cô lên gần tới đầu băng tải, và có một điều cần biết về thời tiết tại thềm đế máy bay của JFK: gió không bao giờ lặng. Tuyệt đối không bao giờ. Thềm đế máy bay luôn luôn lộng gió, vừa có các máy bay bay vào lại vừa có vùng đầm lầy ngập mặn và Đại Tây Dương chết tiệt nằm ngay phía bên kia bán đảo Rockaway. Nhưng đột ngột, nó trở nên hoàn toàn yên ắng - yên ắng đến nỗi Lo phải gỡ cái tai nghe có lóp đệm dày cộm ra cho chắc chắn. Cô tưởng như nghe thấy tiếng thình thịch vọng ra từ bên trong máy bay, nhung rồi nhận ra đó chính là tiếng tim mình đập. Cô bật đèn pin lên, chĩa về phía sườn phải máy bay.
Theo hướng ánh đèn tròn, cô có thể nhìn ra thân máy bay vẫn còn tron mượt và bóng loáng do vừa hạ cánh, có mùi như mưa xuân. Cô chiếu đèn vào hàng dài những ô cửa sổ. Mọi tấm màn che cửa sổ đều được hạ xuống.
Lạ thật đấy. Giờ cô thấy rợn người. Rọn người thực sự. Chẳng khác gì một người lùn khi đối diện với cỗ máy biết bay khổng lồ nặng 383 tấn đáng giá 250 triệu đô la, cô đột nhiên có một cảm giác dù thoáng qua nhung rõ rệt và ớn lạnh rằng cô đang đứng trước một con dã thú mang hình dáng của loài rồng. Một con quái vật đang ngủ nhưng thật ra chỉ vờ như đang ngủ, có thể mở mắt và há cái miệng khủng khiếp của mình ra bất cứ lúc nào. Một khoảnh khắc tê liệt, một con ớn lạnh chạy dọc sống lưng khiến cô bị kích động cực điểm, toàn thân như đông cứng.
Rồi cô nhận ra lúc này một tấm màn che đã được kéo lên. Những sọi tóc tơ ngứa ran lên sau gáy, cô bèn đưa tay lên xoa dịu chúng, như đang dỗ dành một con thú cưng đang bồn chồn hốt hoảng. Khi nãy cô đã không để ý đến khung cửa đó. Nó vốn được kéo lên từ trước rồi - vốn từ trước đã thế rồi.
Chắc vậy...
Bên trong máy bay, bóng tối xao động. Và Lo cảm thấy như có thứ gì đó đang quan sát cô từ bên trong.
Cô rên lên, hệt như một đứa con nít, nhưng cô chẳng thể kiềm chê được. Toàn thân cô tê liệt. Máu cô chạy rần rật, cuộn trào lên như bị ai đó điều khiển, thít chặt cổ họng cô...
Và cô chợt hiểu ra, một cách chắc chắn: thứ gì đó ở bên trong kia sẽ ăn thịt cô...
Gió lớn lại nổi lên, như thể chưa từng ngừng lại, và Lo không cần đợi thêm bất kỳ sự thúc giục nào nữa. Cô thoái lui về phía đầu kia băng tải, nhảy vọt vào trong buồng lái và cho nó chạy lùi, trong khi chuông báo vẫn kêu bíp bíp và băng tải vẫn đang được nâng lên cao. Một chiếc đèn xanh trên đường lăn bị nghiến lạo xạo dưới bánh xe khi cô tăng tốc, lấn cả lên bãi cỏ, hướng về phía những ánh đèn đang tiến lại gần của nửa tá xe cứu hộ.
Tháp không lưu quốc tế JFKCALVIN BUSS đã đổi sang một bộ điện đàm khác và giờ đang ra các mệnh lệnh theo cuốn sách hướng dẫn của FAA về các vụ xâm nhập đường lăn. Mọi chuyến bay đến và đi trong không phận bán kính tám ki lô mét quanh JFK đều phải tạm hoãn. Việc này khiến cho tổng số máy bay lưọn vòng chờ hạ cánh tăng lên đáng kể. Calvin hủy giờ nghỉ và yêu cầu mọi nhân viên kiểm soát không lưu đang trong ca trực đều phải cố gắng bắt liên lạc với chuyến 753 trên mọi tần số hiện có. Tháp không lưu JFK gần như roi vào một tình trạng hỗn loạn mà Giám mục Jimmy chưa từng thấy bao giờ.
Người bên Quản lý Cảng - những gã mặc vest làu bàu vào bộ đàm Nextel - túm lại sau lung anh. Chẳng bao giờ là một dấu hiệu tốt. Thật nực cười vì con người ta cứ tự nhiên tụ lại vọi nhau mỗi khi phải đối mặt với những vấn đề không thể giải thích.
Giám mục Jimmy thử gọi một lần nữa, nhưng không ích lọi gì-
Một gã mặc vest hỏi anh, "Có tín hiệu không tặc không?" "Không," Giám mục Jimmy nói. "Không có gì cả." "Không có báo động cháy?" "Dĩ nhiên là không."
"Không có báo động từ cửa buồng lái?" một gã khác lên tiếng.
Giám mục Jimmy nhận thấy họ đã vào đến giai đoạn "những câu hỏi ngu ngốc" trong quy trình điều tra. Anh bèn huy động sự kiên nhẫn và óc suy xét, những thứ đã giúp anh trở thành một nhân viên kiểm soát không lưu giỏi. "Nó tiến vào một cách êm thấm và hạ cánh ngon lành. Regis 7-5-3 xác nhận lệnh chỉ định cổng và rẽ khỏi đường băng. Tôi bèn tắt ra đa và chuyển nó sang ASDEƠ)."
Phủ một tay trên micro tai nghe cá nhân, Calvin nói, "Có thể phi công buộc phải tắt máy?"
"Có thể," Giám mục Jimmy nói. "Hoặc cũng có thể nó đã tự tắt."
Một tên lên tiếng, "Vậy tại sao họ không mở cửa?"
Giám mục Jimmy cũng đang đau đầu về vấn đề này. Hành khách, theo lệ thường, chắc chắn sẽ không ngồi yên quá một phút so với yêu cầu. Tuần trước, một chiếc jetBlue từ Florida suýt chút nữa đã phải chịu một cuộc nổi loạn, và chuyện chỉ vì vài chiếc bánh mì thiu. Còn ở đây, những người này vẫn ngồi yên trong, bao lâu nhỉ... có lẽ mười lăm phút. Hoàn toàn trong bóng tối.
Giám mục Jimmy nói, "Bên trong đó hẳn đã bắt đầu nóng lên. Nếu điện bị ngắt, hệ thống tuần hoàn gió bên trong sẽ không hoạt động. Không có thông gió."
"Vậy họ đang chờ cái quái gì vậy?" một gã khác hỏi.
Giám mục Jimmy nhận thấy mọi người đều càng lúc càng bất an. Cái cảm giác sôi ruột khi ta nhận thấy chuyện gì đó sắp xảy ra, chuyện gì đó rất, rất không ổn.
"Lỡ như họ không thể di chuyển?" anh lẩm bẩm trước khi kịp ngăn mình lại.
"Một vụ bắt giữ con tin hả? Có phải ý anh là thế không?" một gã hỏi.
Giám mục gật đầu lặng lẽ... nhung anh không nghĩ vậy. Không rõ vì sao, điều duy nhất anh có thể nghĩ tói... những linh hồn.
1. Airport Surface Detection Equipment (Thiết bị bảo vệ bề mặt sân bay) cung cấp cho người quản lý các hiển thị theo màu sắc trên bản đồ để làm nồi bật vj trí cùa máy bay và các phương tiện giao thông trên đường băng cũng như đường lăn, cho phép nhân viên kiểm soát không lưu đàm bào an toàn, tránh xảy ra va chạm máy bay trên mặt đất.
Đường lãn FoxtrotĐỘI CỨU HỎA - cứu hộ máy bay của Cơ quan Quản lý Cảng xuất hiện theo đội hình cơ bản giải cứu máy bay dân dụng, sáu xe bao gồm xe phim bọt chữa cháy, xe bơm và xe thang. Họ dừng lại bên xe băng tải hành lý mắc kẹt trước hàng đèn xanh bên rìa Foxtrot. Đội trưởng Sean Navarro trong trang phục cứu hỏa đội mũ bảo hiểm nhảy khỏi bậc để chân phía đằng sau xe thang, đứng trước cái máy bay chết. Ánh đèn xe cứu hộ nhấp nháy rọi vào thân máy bay, như thể nhuộm lên nó đường nhịp mạch màu đỏ. Trông nó như một cái máy bay không người được chuẩn bị cho một cuộc diễn tập vào ban đêm.
Đội trưởng Navarro bước về phía đầu xe và trèo vào ca bin cùng tài xế, Benny Chufer. "Gọi đội bảo trì dẹp hết đám đèn sân khấu này đi. Rồi đỗ xe ở đằng sau cánh."
Benny nói, "Nhưng chúng ta được lệnh phải chờ mà."
Đội trưỏng Navarro nói, "Đó là một cái máy bay chở đầy hành khách. Chứng ta không được trả lương để làm cảnh. Chúng ta được trả lương để cứu người."
Benny nhún vai, làm theo lời đội trưởng. Đội trưởng Navarro ra khỏi ca bin, trèo lên nóc xe, và Benny nâng thang lên cao, vừa đủ cho ông leo lên trên cánh máy bay. Đội trưởng Navarro bật đèn pin và bước lên mép sau giữa hai cánh tà đang dựng đứng, giày của ông giẫm đúng vị trí in một dòng chữ đen đậm KHÔNG BƯỚC LÊN ĐÂY.
Ông đi men theo sải cánh rộng, ở trên cao cách đường lăn chừng sáu mét. Ông tiến tới cửa thoát hiểm cánh, cửa duy nhất trên máy bay được lắp đặt chốt mở khẩn cấp từ bên ngoài. Có một ô kính nhỏ không bị che trên cánh cửa, và ông ngó vào, cố gắng nhìn xuyên qua những giọt nước ngưng tụ bên trong hai lóp kính dày, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài bóng tối đen kịt. Trong đó hẳn phải kín như một cái lồng phổi sắt.
Tại sao họ không tri hô cầu cứu? Tại sao ông không nghe thấy bất cứ động tĩnh nào bên trong? Nếu vẫn còn được điều áp, máy bay hẳn kín khí. Những hành khách đó đang cạn dần ô xy.
Với đôi tay đeo găng chống cháy, ông ấn vào hai cái nắp lật màu đỏ và kéo tay nắm cửa ra khỏi hốc chứa. Ông xoay tay nắm cửa theo hướng mũi tên, gần 180 độ, rồi giật mạnh. Cánh cửa đáng lẽ phải bật ra, nhung nó không mở. Ông lại kéo lần nữa, nhưng ngay lập tức hiểu rằng mình chỉ đang cố gắng vô ích - chẳng có bất kỳ tác dụng nào. Không thể có chuyện cửa bị kẹt từ bên trong. Tay nắm chắc hẳn đã bị kẹt. Hoặc thứ gì đó đang giữ chặt nó từ bên trong.
Ông quay ngược trở lại, tới chỗ đỉnh thang. Ông thấy một cái đèn hiệu màu cam đang xoay tít, một xe trung chuyển đang trên đường chạy ra khỏi nhà ga quốc tế. Khi chiếc xe tiến lại gần hon, ông thấy nó được lái bởi các nhân viên áo vest xanh của Cơ quan An ninh Vận tải.
"Đây rồi," đội trưởng Navarro lẩm bẩm, bắt đầu leo xuống thang.
Có năm nhân viên, mỗi người lần lượt tự giới thiệu, nhưng đội trưởng Navarro chẳng thèm phí công cố gắng nhớ tên của họ làm gì. Ông đã phải mang theo dụng cụ cứu hỏa và thiết bị phun bọt ra máy bay; họ thì mang máy tính và điện thoại di động. Mất một lúc, ông chỉ đứng nghe trong lúc họ nói vào điện thoại và thảo luận với nhau.
"Chúng ta phải cân nhắc thật cẩn thận kỹ càng trước khi nhấn cái nút An ninh Nội địa này. Chẳng ai muốn làm rộn hết cả lên trong khi chẳng có chuyện gì hết."
"Ta thậm chí còn không biết đang có chuyện gì. Anh mà báo động rồi lôi cả binh đoàn từ Căn cứ Không quân Otis tới đây thì cả bờ Đông sẽ loạn lên mất."
"Nếu là một vụ đánh bom, bọn chúng sẽ đợi cho tới phút chót."
"Cho nó nổ trên đất Mỹ, có lẽ vậy."
"Có lẽ chứng đang tạm thời giả chết, cắt đứt liên lạc. Nhử ta đến gần hơn. Chờ đám truyền thông."
Một gã đang đọc tin từ điện thoại. "Chuyến bay khỏi hành từ Tegel, Berlin."
Một gã khác nói vào điện thoại. "Tôi cần ai đó trên mặt đất ở Đức có thể sprechen ze Engishn). Chúng tôi cần biết liệu họ có để ý thấy bất cứ hoạt động đáng ngờ nào ở đó không, bất cứ vi phạm nào. hơn nữa, chứng tôi cần tài liệu chuẩn về các thủ tục xử lý hành lý của họ."
Một gã khác yêu cầu: "Kiểm tra lịch trình bay và rà soát lại danh sách hành khách. Đứng vậy, từng cái tên một, kiểm tra lại lần nữa. Lần này ghi rõ mọi cách đánh vần nhé."
"Được rồi," gã khác vừa nói vừa nhìn di động. "Đầy đủ thông tin chi tiết. Số hiệu máy bay N323RG. Boeing 777-200LR. Lần kiểm tra quá cảnh gần nhất là bốn ngày trước, tại Atlanta Hartfield. Đã thay thế một thanh trượt bị mòn ở bộ phận đảo chiều đẩy của động cơ trái và một bạc lót bị mòn ở động cơ phải. Hoãn sửa chữa một vết lõm ở cánh tà trong bên trái do lịch trình bay. Nói tóm lại, cô nàng có giấy chúng nhận sức khỏe tốt."
"Mấy con 777 đều là hàng mới, phải không? Một hay hai năm nhỉ?"
"Sức chứa tối đa ba trăm lẻ một người. Chuyến bay này có hai trăm mười người. Một trăm chín mươi chín hành khách, hai phi công, chín tiếp viên."
"Có ai miễn vé không?" Tức trẻ sơ sinh.
"Tôi không thấy có."
"Chiến thuật kinh điển," gã đưa ra giả thiết khủng bố nói. "Gây hỗn loạn, thu hút lực lượng phản ứng, lôi kéo khán giả - rồi cho nổ để gây tác động tối đa."
"Nếu vậy, chúng ta hẳn đã phải chết rồi."
Họ nhìn nhau lo lắng.
"Ta phải cho các xe cứu hộ này lùi lại. Thằng ngốc nào đã giẫm lên cánh máy bay thế kia?"
Đội trưởng Navarro chen lên trước trả lời, khiến họ bất ngờ. "Tôi đấy."
1. Sprechen ze English (tiếng Đức): nói tiếng Anh.
"ô. Ra vậy." Gã bụm tay ho một tiếng. "Chỉ có nhân viên bảo trì mới đưọc lên đó, thưa đội trưởng. Quy định của FAA."
"Tôi biết."
"Vậy hả? ông có thấy gì không? Bất cứ gì?"
Navarro nói, "Không. Không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì. Các cửa sổ đều bị kéo tấm che xuống."
"Ông bảo là kéo xuống ư? Tất cả?"
"Tất cả."
"Ông đã thử cửa thoát hiểm trên cánh chưa?"
"Tôi thử rồi."
"Và?"
"Nó bị kẹt."
"Kẹt ư? Không thể nào."
"Nó bị kẹt," đội trưởng Navarro nói, nhẫn nại với năm gã này còn hơn cả với lũ con của ông.
Gã già nhất bước tránh ra chỗ khác để gọi điện thoại. Đội trưởng Navarro nhìn những người còn lại. "Vậy ta làm gì ở đây bây giờ?"
"Chứng tôi vẫn đang đợi xem sao đây."
"Đợi xem sao ư? Có bao nhiêu hành khách trên máy bay này? Họ đã gọi bao nhiêu cuộc cho 911 rồi?"
Một gã lắc đầu. "Vẫn chưa có cuộc gọi 911 nào từ cái máy bay này."
"Chưa ư?" đội trưởng Navarro hỏi.
Gã đứng bên cạnh ông lên tiếng, "Không một cuộc gọi nào trên tổng số một trăm chín chín người. Không ổn."
"Không ổn chút nào."
Đội trưởng Navarro kinh ngạc nhìn họ. "Chúng ta phải làm gì đó, ngay lập tức. Trong khi người ta đã chết hoặc đang hấp hối ở trong đó, thì tôi không cần phải được cho phép mới túm lấy cây rìu cứu hỏa mà phá cửa sổ đâu. Trong cái máy bay đó làm gì có không khí."
Gã già hơn đã gọi điện xong và quay trở lại. "Họ đang mang đèn xì tói. Chúng ta sẽ cắt cửa."
Bến càng tối, VirginiaVỊNH CHESAPEAKE, tối tăm và cuộn sóng vào lúc tối muộn đó.
Ở khoảnh sân trong bao kính của ngôi nhà, trên một dốc đứng tuyệt đẹp nhìn từ trên cao ra vịnh, một người đàn ông ngả mình trên chiếc ghế y tế đặc biệt. Ánh đèn lờ mờ khiến ông ta cảm thấy thoải mái và bình yên. Ba chiếc điều hòa công nghiệp, dành riêng cho căn phòng này, giữ nhiệt độ ở mức 16°c. Bản The Rite of Spring của Stravinsky vang lên nhẹ nhàng từ những chiếc loa ẩn, át đi tiếng bom suỵt suỵt không ngừng của máy lọc máu.
Một làn hơi mỏng thoát ra từ miệng ông ta. Người ngoài có thể sẽ nghĩ người đàn ông này đang hấp hối. Có thể sẽ cho rằng họ đang chứng kiến những ngày, những tuần cuối cùng của một cuộc đòi - dựa trên cái cơ ngoi trải rộng bảy héc ta kia mà đoán - cực kỳ thành công. Thậm chí có thể bình luận về sự trớ trêu của cuộc đòi khi một kẻ giàu có và quyền thế nhu vậy mà rồi cũng gặp cùng kết cục nhu một tên ăn xin.
Chỉ có điều, Eldritch Palmer không phải đang ở đoạn kết. Ông ta đang ở tuổi bảy mươi sáu, và không hề có ý định từ bỏ bất cứ thú gì. Không một thứ gì.
Nhà đầu tu, doanh nhân, nhà thần học đáng kính và người bạn tâm tình quyền lực này đã phải trải qua quá trình trị liệu nhu vậy ba đến bốn giờ đồng hồ mỗi tối trong suốt bảy năm qua. Sức khỏe ông ta tuy yếu nhung dễ chăm nom, được săn sóc bởi đội ngũ bác sĩ trực hai tu trên hai tu, với sụ hỗ trợ của các thiết bị y tế đủ tiêu chuẩn dùng trong bệnh viện được ông ta mua để sử dụng riêng tại nhà.
Người giàu thì đủ điều kiện chi trả cho những dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất, đồng thời cũng đủ điều kiện để cho phép mình lập dị. Eldritch Palmer giấu kín cái lập dị của mình với người ngoài, thậm chí cả với đám người thân tín. Ông ta chưa từng kết hôn. Ông ta cũng chẳng có người thừa kế. Và vì thế mà người ta thường bàn tán không biết ông ta có kế hoạch gì cho khối gia tài kếch xù của mình sau khi chết. Ông ta không có cấp phó ở tập đoàn đầu tư của mình, Tập đoàn Stoneheart. Ông ta cũng không gắn bó công khai với bất kỳ tổ chức hay quỹ từ thiện nào, không như hai con người vẫn luôn ganh đua với ông ta để giành ngôi vị số một trên bảng xếp hạng thường niên ghi danh những người Mỹ giàu nhất thế giới của tạp chí Forbes, nhà sáng lập Microsoft, Bill Gates, và nhà đầu tư của Berkshire Hathaway, Warren Buffet. (Nếu lượng vàng dự trữ ở Nam Mỹ và cổ phần trong các công ty ma của ông ta ở châu Phi được Forbes tính tói, Palmer hẳn sẽ nắm giữ vị trí đầu bảng.) Palmer thậm chí chưa từng thảo di chúc, một thiếu sót trong việc hoạch định tài sản không thể tưởng tượng nổi đối với một người thậm chí chỉ giàu bằng một phần ngàn ông ta.
Nhưng Eldritch Palmer, rất đon giản, chưa định chết.
Thẩm tách máu là quá trình máu được đưa khỏi cơ thể thông qua hệ thống ống dẫn, được tinh lọc bằng máy thẩm tách, hay thận nhân tạo, sau đó được đưa trở lại cơ thể sau khi các chất thải và độc hại đã được loại bỏ hoàn toàn. Các mũi kim dẫn máu ra và vào được cắm vào một tĩnh mạch nhân tạo gắn CỐ định vào cẳng tay. Hỗ trợ quá trình này là các đòi máy móc tân tiến nhất của công ty Fresenius, liên tục kiểm tra các thông SỐ quan trọng nhất của Palmer và cảnh báo Fitzwilliam, luôn ở cách đó không quá hai căn phòng, về bất cứ thông số nào vượt ngưỡng bình thường.
Những nhà đầu tư trung thành đã quen với ngoại hình luôn tiều tụy của Palmer, về cơ bản, đó đã trở thành thương hiệu của ông ta, một biểu tượng mỉa mai cho sức mạnh kinh tế của ông ta, vì một lão già hốc hác, xanh xao đến thế lại có thể sở hữu quyền lực và tầm ảnh hưởng như vậy trên cả hai phương diện tài chính và chính trị thế giới. Đội quân các nhà đầu tư trung thành với ông ta lên tới ba mươi ngàn con người khỏe mạnh có địa vị tài chính: số tiền ban đầu là hai triệu đô la, và với nhiều người đã đầu tư cùng Palmer hàng thập kỷ nay thì giờ SỐ tiền đã lên đến nửa tỷ đô. Sức mua của Tập đoàn Stoneheart cho ông ta một lọi thế kinh tế khổng lồ, và ông ta tận dụng nó vô cùng hiệu quả, cũng có khi rất nhẫn tâm.
Cánh cửa phía Tây mở ra từ phía hành lang lớn, và Fitzwilliam, người đồng thời là quản lý đội vệ sĩ của Palmer, tiến vào mang theo một chiếc điện thoại bảo mật cầm tay đặt trên một cái khay bằng bạc ròng. Fitzwilliam là cựu lính thủy đánh bộ Mỹ được xác nhận là đã tiêu diệt bốn mươi hai lính đối phương và là một người rất nhanh nhạy, đã được Palmer tài trợ học y sau khi giải ngũ. "Thứ trưỏng Bộ An ninh Nội địa, thưa ngài," anh ta nói, phả ra một luồng hơi sương trong căn phòng lạnh.
Thường thì Palmer sẽ không cho phép bất cứ ai làm phiền trong lúc trị bệnh hằng đêm, bởi ông ta muốn dùng khoảng thời gian này để suy ngẫm. Nhưng đây chính là cuộc gọi ông ta đang chờ. Palmer nhận điện thoại từ Fitzwilliam, và đợi anh ta nghiêm cẩn lui ra.
Palmer nhận điện và được thông báo về cái máy bay đang ngừng hoạt động. Ông ta được biết các nhân viên JFK đang rất do dự về cách thức xử lý tình huống này. Người ở đầu dây bên kia nói bằng giọng lo lắng, với vẻ trịnh trọng bồn chồn, như một đứa trẻ tự hào khoe chiến công của mình. "Đây là một vụ hết sức bất thường, và tôi nghĩ ngài muốn được thông báo ngay lập tức, thưa ngài."
"Đúng vậy," Palmer nói với người kia. "Tôi đánh giá cao tác phong của anh."
"Ch-chúc một buổi tối tốt lành, thưa ngài."
Palmer tắt máy và đặt điện thoại lên đùi. Quả thực là một buổi tối tốt lành. Ông ta chợt cảm thấy hồi hộp. Ông ta vẫn luôn chờ đợi chuyện này. Và giờ khi cái máy bay ấy đã hạ cánh, ông ta biết chuyện đã bắt đầu - và bằng một cách vô cùng ngoạn mục.
Phấn khích, ông ta quay về phía cái ti vi màn ảnh rộng trên tường bên và dùng điều khiển từ xa trên tay ghế để bật âm thanh, vẫn chưa có tin gì về cái máy bay cả. Nhưng sẽ sớm thôi...
Ông ta ấn nút trên bộ đàm. Giọng Fitzwilliam vang lên, "Vâng, thưa ngài?"
"Chuẩn bị trực thăng đi, Fitzwilliam. Tôi có chút công chuyện ở Manhattan."
Eldritch Palmer ngắt máy rồi nhìn qua dãy cửa kính hướng ra vịnh Chesapeake, đục ngầu và tăm tối, ngay phía Nam của dòng Potomac hung bạo hòa vào bóng đêm sâu thẳm.
Đường lăn FoxtrotĐỘI BẢO TRÌ đang lăn các bình ôxy dưới thân máy bay. cắt cửa là giải pháp khẩn cấp cuối cùng. Tất cả các máy bay thương mại đều được thiết kế một khu vực đặc biệt gọi là 'Tát cắt". Lát cắt của 777 nằm ở cuối thân máy bay, dưới đuôi, giữa hai cánh cửa khoang hành lý bên mạn phải. Chữ LR trong Boeing 777-200LR là viết tắt của 'Tong range" (đường dài), và là máy bay thuộc loại thị trường c có chặng bay liên tục dài nhất trên 16.700 ki lô mét và có dung tích bình xăng trên 200.000 lít nên ngoài các bình xăng nằm trong thân cánh, nó còn được trang bị thêm ba bình dự phòng trong khoang hành lý - do đó cần có một khu vực lát cắt an toàn.
Đội bảo trì đang dùng một bộ dụng cụ cắt Arcair, một chiếc đèn xì tỏa nhiệt thích họp cho các trường họp khẩn cấp không chỉ bởi sự gọn nhẹ mà còn bởi nó sử dụng nguồn năng lượng ôxy chứ không độc hại như loại dùng axetylen. Việc cắt xuyên qua vỏ dày của máy bay sẽ mất khoảng một giờ.
Tại thời điểm này, không ai trên đường băng trông chờ một kết cục tốt đẹp. Không một cuộc gọi 911 nào từ các hành khách trong máy bay. Không ánh đèn, tiếng động hay bất cứ một tín hiệu nào phát ra từ trong chiếc Regis 753. Tình hình thật bí ẩn.
Một chiếc xe chỉ huy cơ động của đon vị cứu hộ khẩn cấp Cơ quan Quản lý Cảng tiến vào thềm đế máy bay, tấp vào sau dãy đèn sáng rực đang chiếu về phía chiếc phi cơ. Đội SWAT đã được huấn luyện cho các trường họp sơ tán, giải cứu con tin và tấn công khủng bố trên các cầu, đường hầm, nhà ga, sân bay, tuyến đường sắt PATH và các hải cảng ở New York và New Jersey. Các cảnh sát đặc nhiệm được trang bị áo giáp nhẹ và súng tiểu liên Heckler-Koch. Một cặp béc giê Đức đã được thả ra để đánh hơi quanh hệ thống càng hạ cánh chính - hai bộ, mỗi bộ sáu bánh lớn - giờ đang chạy lon ton xung quanh, mũi hếch lên tròi như thể cũng đánh hơi thấy rắc rối ở ngay đây.
Trong một thoáng, đội trưởng Navarro tự hỏi liệu có phải thật sự có ai đó đang ở yên trên máy bay không. Chẳng phải từng có một cái máy bay không người hạ cánh trong phim Twilight Zone sao?
Đội bảo trì bật đèn xì và họ chỉ vừa bắt đầu cắt phần mặt dưới thân máy bay thì một trong hai con chó béc giê bắt đầu tru lên. Đúng hơn là nó vừa sủa vừa chạy vòng tròn trong khi vẫn đang bị buộc xích.
Đội trưởng Navarro thấy một nhân viên cứu hộ của ông, Benny Chufer, chỉ lên phía giữa thân máy bay. Một cái bóng đen, mảnh hiện ra ngay trước mắt ông. Một vệt thẳng đứng, đen kịt cắt xuyên qua bề mặt nhẵn nhụi của thân máy bay.
Cửa thoát hiểm trên cánh. Cánh cửa mà đội trưỏng Navarro không thể làm suy chuyển.
Giờ nó đã mở.
Navarro không tài nào hiểu nổi, nhưng ông vẫn đứng yên, chết lặng trước cảnh tượng trước mắt. Có thể chốt cửa hỏng, tay nắm cửa trục trặc... có thể ông chưa cố hết sức... hoặc có thể - chỉ có thể thôi - ai đó rốt cuộc đã mở cửa.
Tháp không lưu quốc tế JFKCơ QUAN QUẢN LÝ CẢNG gọi vào máy của Giám mục Jimmy. Anh đang đứng, như thường lệ, chờ thảo luận với mấy gã mặc vest, thì đột nhiên điện thoại của họ réo ầm ĩ.
"Nó đã mở," một gã thông báo. "Ai đó đã mở cửa 3L."
Giờ tất cả đều đang đứng, cố nhìn cho rõ. Giám mục Jimmy nhìn ra ngoài buồng tháp không lưu về phía cái máy bay đang được chiếu sáng. Nhìn từ trên này, cánh cửa không giống như đã mở.
Calvin Buss hỏi, "Mở từ bên trong à? Có ai bước ra không?" Gã kia lắc đầu, vẫn đang nghe điện thoại. "Không có ai. vẫn chưa có ai."
Giám mục Jimmy chộp lấy chiếc ống nhòm nhỏ đặt trên gờ tường và tự mình kiểm tra chiếc Regis 753.
Kia rồi. Một vạch đen trên cánh. Một vệt tối, trông như thể một vết rạch trên thân máy bay.
Nhìn thấy cảnh đó, miệng Jimmy trở nên khô khốc. Khi mới được mở khóa, cánh cửa sẽ hơi đẩy ra ngoài, sau đó xoay lại và gập áp vào vách trong. Vậy thì, xét trên lý thuyết, tình hình là nút không khí đã bị mở ra. Cánh cửa vẫn chưa mở hết.
Anh đặt chiếc ống nhòm trở lại gờ tường và lùi lại. Chẳng hiểu sao, lý trí đang mách bảo anh đã tới lúc chạy trốn.
Đường lãn FoxtrotMAY ĐO KHÍ GA và đo nồng độ phóng xạ được nâng tới khe cửa và cả hai đều báo sạch. Một nhân viên cứu hộ khẩn cấp nằm trên cánh máy bay đã xoay xở kéo đưọc cánh cửa rộng ra vài phân nữa bằng một cây sào dài có móc, hai cảnh sát đặc nhiệm được trang bị vũ khí sẵn sàng yểm trợ anh ta từ đường băng phía dưới. Một chiếc micro parabol được đưa vào trong đang phát lại đủ mọi loại âm thanh "chip", "bíp" lẫn nhạc chuông: tiếng điện thoại của hành khách reo nhưng không được trả lời. Những âm thanh vừa kỳ bí vừa não nùng, như tiếng báo động của hệ thống cảnh báo tai ương tí hon.
Sau đó họ gắn một cái gương vào đầu một cây sào, một phiên bản phóng to của loại dụng cụ nha khoa dùng đế kiếm tra mặt trong răng. Tất cả những gì họ thấy được chỉ là hai chiếc ghế phụ nằm ở khu vực giữa hai hạng khoang, cả hai đều trống.
Liên lạc qua loa pin cũng vô ích. Không có bất cứ phản hồi nào từ trong máy bay: không ánh sáng, không chuyển động, không gì cả.
Hai nhân viên cứu hộ khẩn cấp mặc áo giáp nhẹ lùi lại tránh khỏi các ánh đèn đường lăn để thảo luận. Họ xem xét một sơ đồ mặt cắt ngang, cho thấy trong khoang hạng phổ thông mà họ sắp tiếp cận, hành khách được xếp vào mười ghế một hàng ngang: ba ghế mỗi hàng bên và bốn ghế hàng giữa. Bên trong máy bay chật kín, họ bèn thay tiểu liên H-K bằng Glock 17 cho linh hoạt hon, sẵn sàng cận chiến.
Họ đeo mặt nạ phòng độc có bộ đàm và kính nhìn đêm, cùng bình xịt hơi cay, còng tay và bao đạn dự phòng giắt ở thắt lưng. Các máy quay bé tí với ống kính hồng ngoại thụ động được gắn trên chóp mũ bảo hộ.
Họ leo thang cứu hộ lên cánh rồi tiếp cận cánh cửa. Họ dừng lại, mỗi người một bên cửa, dán sát vào thân máy bay, một người dùng chân đẩy cánh cửa gập ra sau áp vào vách trong rồi cúi người lao vọt vào một vách ngăn gần đấy và ngồi xổm xuống. Đồng đội của anh ta cũng theo bước vào trong.
Cái loa pin nói thay cho họ:
"Thưa hành khách trên chuyến bay Regis 753. Cơ quan Quản lý Cảng New York-New Jersey đây. Chúng tôi đang tiến vào trong máy bay. Vì sự an toàn của các bạn, hãy ngồi nguyên tại chỗ và đan hai bàn tay vào nhau đặt lên trên đỉnh đầu."
Người dẫn đầu tựa lưng vào vách ngăn chờ đợi, dỏng tai lắng nghe. Chiếc mặt nạ của anh khiến âm thanh biến thành tiếng rít ken két, nhưng anh có thể thấy rõ bên trong không có chuyển động nào. Anh kéo kính nhìn đêm xuống, và không gian trong máy bay biến thành một màu xanh lá. Anh hất hàm ra hiệu cho đồng đội và lăm lăm khẩu Glock, rồi đếm đến ba, và cả hai cùng xông vào khoang hành khách rộng lớn.
Chú thích[I] Federal Aviation Administration: Cục Quản lý Hàng không Liên bang Mỹ.
[II] Nữ ca sĩ nổi tiếng người Mỹ, có một ca khúc mang tên straight Up - tạm djch Hãy đứng thẳng lên.