Bình Minh Trụ sở cảnh sả số 17-Phố 51 đông Manhattan
Setrakian trở mình, cố lấy tư thế thoải mái trên chiếc ghế dài đặt sát tường phòng tạm giam của trụ sở cảnh sát. Ông đã phải đợi suốt đêm trong khu vực đăng ký ốp kính, mắc kẹt cùng một đám trộm cắp, say rưọu, biến thái hiện lúc này cũng đang ở cùng ông. Trong quãng chờ đợi dài dằng dặc đó, ông đã có đủ thời gian suy nghĩ về cảnh tượng mình đã gây ra bên ngoài văn phòng pháp y, và nhận ra ông đă làm hỏng cơ hội tốt nhất để tiếp cận bác sĩ Goodweather của cơ quan kiểm soát dịch bệnh liên bang.
Rõ ràng ông đã bị đưa đi như một ông già điên. Có lẽ ông đã trật bước. Lảo đảo như một con quay trong những vòng quay cuối của nó. Có thể những năm tháng chờ đợi thời điểm này, sống trong cái lằn ranh giữa nỗi sợ hãi và niềm hy vọng, đã gây nên tác hại.
Một phần của tuổi già là liên tục tự kiểm soát mình. Bám chắc tay vịn cầu thang. Đảm bảo ta vẫn là chính ta.
Không. Ông biết mình biết điều gì. Vấn đề duy nhất của ông bây giờ là ông đã phát điên vì tuyệt vọng. Giờ ông ở đây, bị giam giữ trong một trụ sở cảnh sát ở Midtown Manhattan, trong khi quanh ông...
Động não đi, lão già ngu ngốc. Hãy tìm cách thoát khỏi đây. Lão đã từng thoát khỏi những hoàn cảnh còn tệ hơn thế này rất nhiều kia mà.
Ông tua lại trong đầu cảnh tuọng lúc ở khu vực đăng ký. Giữa lúc ông đang khai tên tuổi địa chỉ, và nghe giải thích vì sao mình lại bị buộc tội phá rối trật tự và xâm nhập bất họp pháp, đồng thời ký vào tờ khai những vật sở hữu theo người là chiếc gậy đi đường ("Đây là một món đồ cá nhân cực kỳ quan trọng đối với tôi," ông nói với viên trung sĩ) cùng mấy viên thuốc trợ tim, một thanh niên gốc Mexico khoảng muôi tám, mười chín tuổi được đưa vào, tay bị còng sau lưng. Cậu ta trông toi tả vì bị đánh, mặt mũi xước xát, áo rách toang.
Cái đập vào mắt Setrakian là mấy lỗ thủng cháy sém trên chiếc quần đen và áo sơ mi của cậu ta.
"Chuyện này thật vớ vẩn'." cậu thanh niên nói, hai tay vẫn bị còng phía sau, ngả người ra sau trong lúc vẫn bị mấy thanh tra đẩy về phía trước. "Thằng đó bị điên. Nó bị dại, trần truồng, chạy trên đường phố. Tấn công mọi người. Nó xông vào chúng tôi'." Mấy thanh tra đẩy mạnh cậu ta xuống ghế. "Các anh không nhìn thấy nó. Thằng chó chết đó đổ máu trắng. Trong mồm nó có cái thứ... cái thứ chết giẫm nào đó! Nó không phải người'."
Một trong những thanh tra đó tiến lại chỗ quầy đăng ký của viên trung sĩ mà Setrakian đang làm thủ tục, lau mồ hôi mặt bằng một chiếc khăn giấy. "Một thằng Mễ điên khùng. Hai tiền án vị thành niên, vừa qua mười tám. Lần này nó giết một người đàn ông, khi đánh nhau. Nó và thằng bạn, hẳn là đã xông vào ông ta, lột quần áo của ông ta. Định trấn lột ông ta ngay chính giữa Quảng trường Thời đại."
Viên trung sĩ tròn mắt tỏ vẻ ngạc nhiên rồi lại tiếp tục mổ bàn phím. Anh ta hỏi Setrakian thêm một số câu khác, nhưng ông đâu còn nghe thấy anh ta. Ông gần như không còn cảm thấy chiếc ghế bên dưới mình, hay đôi bàn tay bị biến dạng do chấn thương ngày nào nữa. Một cơn hoảng loạn xâm chiếm lấy ông khi nghĩ tới chuyện một lần nữa phải đối mặt với kẻ vô hình đó. Ông nhìn thấy tương lai. Ông thấy những gia đình tan nát, sự hủy diệt, cơn hấp hối của sự diệt vong. Bóng tối chế ngự ánh sáng. Quỷ dữ trên trái đất.
Tại thời điểm đó Setrakian có cảm giác mình như người đàn ông già nhất hành tinh. >
Đột ngột, cỡn hoảng loạn tăm tối của ông bị thay thế bởi một thôi thúc cũng tăm tối như vậy: trả thù. Cơ hội thứ hai. Sự phản kháng, trận chiến - cuộc chiến tranh sắp diễn ra - nó sẽ phải bắt đầu bởi ông.
Strigoi.
Đại dịch đã bắt đầu.
Khu vực cách ly, Trung tâm Y tế JamaicaJIM KENT, vẫn đang mặc bộ quần áo đi đường, nằm trên giường bệnh, lắp bắp, "Thật là vớ vẩn. Tôi thấy khỏe mà."
Eph và Nora đứng ở hai bên giường. "Vậy chúng ta cứ coi đó là biện pháp phòng ngừa nhé," Eph nói.
"Chẳng có chuyện gì cả. Anh ta chắc đã húc ngã tôi khi tôi đi qua cửa. Có lẽ tôi bị choáng một lúc. Có lẽ bị chấn động nhẹ."
Nora gật đầu. "Chỉ là... anh là một trong số chúng ta, Jim. Chúng tôi cần chắc chắn là mọi thứ đều đã được kiểm tra."
"Nhưng... sao lại ở khu cách ly?"
"Sao lại không chứ?" Eph cố mỉm cười. "Chứng ta ở đây sẵn rồi. Và nhìn kìa - có cả một khu của bệnh viện này dành cho anh. Chế độ tốt nhất ở thành phố New York này đấy."
Nụ cười của Jim cho thấy anh ta không bị thuyết phục. "Thôi đưọc," cuối cùng anh ta nói. "Nhưng ít ra cũng cho tôi lấy lại điện thoại cửa mình chứ, để tôi còn cảm thấy là mình đang đóng góp gì đó?"
Eph nói, "Tôi nghĩ chúng ta có thể thu xếp việc này. Sau vài xét nghiệm nữa."
"Và... xin hãy nói với Sylvia rằng tôi ổn. Cô ấy sẽ hoảng loạn lắm."
"Tất nhiên rồi," Eph nói. "Chứng tôi sẽ gọi cho cô ấy ngay khi ra khỏi đây."
Họ bước ra, bàng hoàng, dừng lại trước khi rời khỏi khu cách ly. Nora nói, "Chúng ta phải nói cho anh ấy biết."
"Nói cái gì?" Eph nói, hơi quá xẵng giọng. "Trước hết chúng ta cần tìm hiểu mình đang đối mặt với thứ gì đã."
Bên ngoài khu cách ly, một phụ nữ với mớ tóc xù được buộc ra sau bằng một dải băng rộng đứng dậy khỏi chiếc ghế nhựa đã được cô kéo vào từ hành lang. Jim sống trong một căn hộ ở East Eighties với bạn gái, Sylvia, một biên tập viên chuyên mục tử vi của tờ New York Post. Cô mang theo năm con mèo đến với mối quan hệ này, còn anh ta thì góp một con chim sẻ, và họ làm nên một hộ gia đình vô cùng đông đúc. "Tôi có thể vào không?" Sylvia hỏi.
"Xin lỗi, Sylvia. Quy tắc của khu cách ly - chỉ cán bộ y tế. Nhưng Jim bảo tôi nói với cô rằng anh ấy vẫn khỏe."
Sylvia nắm chặt cánh tay Eph. "Anh thì nói sao? "
Eph nói khéo, "Anh ấy trông rất khỏe mạnh. Chúng tôi muốn làm một số xét nghiệm, chỉ là đề phòng thôi."
"Họ nói anh ấy đã bất tình, anh ấy hơi chóng mặt. Tại sao lại là khu cách ly?"
"Cô biết cách chúng tôi làm việc mà, Sylvia. Loại bỏ tất cả những thứ có hại. Đi từng bước."
Sylvia nhìn sang Nora, chờ được trấn an kiểu phụ nữ.
Nora gật đầu nói, "Chúng tôi sẽ trả anh ấy lại cho cô sớm nhất có thể."
***
Dưới cầu thang, trong tầng hầm bệnh viện, Eph và Nora thấy người quản lý đang chờ họ trước cửa nhà xác. "Bác sĩ Goodweather, đây là trường họp cực kỳ bất thường. Cánh cửa này không bao giờ khóa, và bệnh viện khăng khăng đòi được thông báo chuyện gì đang xảy ra..."
"Tôi xin lỗi, bà Graham," Eph nói, đọc thấy tên bà trên thẻ bệnh viện, "nhưng đây là công việc của cơ quan CDC thuộc chính phủ." Anh ghét phải trương ra danh phận theo kiểu một ông quan liêu, nhưng đôi khi việc mang danh viên chức chính phủ cũng có những lọi thế của nó. Anh lấy chiếc chìa khóa dành riêng cho mình ra và mở cửa, cùng Nora bước vào trong. "Cảm on bà đã họp tác," anh nói, và khóa cánh cửa lại phía sau.
Anh sáng tự động bật lên. Thi thể của Redfern nằm dưới một tấm khăn phủ trên mặt bàn thép. Eph chọn một đôi găng tay từ chiếc hộp gần công tắc đèn và mở cái xe đẩy chứa dụng cụ khám nghiệm tử thi.
"Eph," Nora nói, xỏ găng tay vào. "Thậm chí chúng ta còn chưa có giấy khai tử. Anh không thể mổ xẻ anh ta."
"Chúng ta không có thời gian cho các thủ tục. Không, nhất là khi Jim đang ở trên đó. Và ngoài ra - anh thậm chí chưa biết phải giải thích cái chết của anh ta thế nào. Dù nhìn dưới bất cứ góc độ nào thì anh cũng đã giết người đàn ông này. Bệnh nhân của anh."
"Để tự vệ."
"Anh biết thế. Em biết thế. Nhưng chắc chắn là anh không thể phí phạm thời gian giải thích như vậy với cảnh sát."
Anh cầm con dao mổ lớn và rạch lên ngực Redfern, tạo ra hình chữ Y bắt đầu từ các xương đòn phải và trái chéo xuống chỗ xương ức, rồi từ đó thẳng một đường xuống dưới bụng, tới xương mu. Rồi anh bóc lóp da và cơ bên dưới, làm lộ ra lồng ngực và màng bụng. Anh không có đủ thời gian để thực hiện cuộc khám nghiệm tử thi hoàn chỉnh. Nhưng anh cần xác nhận một số thứ mà hình ảnh chụp cộng hưỏng MRI dang dở của Redfern đã chỉ ra.
Anh sử dụng một ống cao su mềm để rửa sạch cái chất rỉ ra giống máu màu trắng và quan sát những cơ quan chính bên dưới lồng ngực. Khoang ngực là một mớ hỗn độn những khối màu đen gớm ghiếc được cấp liệu nhờ những ống mảnh giống như tĩnh mạch nối với những cơ quan teo tóp của viên phi công.
"Chúa ơi," Nora nói.
Eph xem xét những khối lạ phía dưới xương sườn. "Nó đã kiểm soát anh ta. Nhìn quả tim kìa."
Nó bị biến dạng, thu nhỏ lại. Cấu trúc động mạch cũng bị thay đổi, hệ tuần hoàn phát triển đơn giản hon, động mạch bị phủ một lóp màu tối tăm, chết chóc.
Nora nói, "Không thể tin nổi. Mới có ba mươi sáu tiếng đồng hồ kể từ khi máy bay hạ cánh."
Tiếp đó Eph lột da cổ của Redfern, làm lộ ra cổ họng của anh ta. Một cấu trúc mới ăn sâu vào giũa cổ, phát triển ra từ nếp gấp tiền đình. Cái phần lồi ra có chúc năng rõ ràng của một cái vòi chích giờ nằm ở trạng thái co lại. Nó được nối thẳng với khí quản, đúng hơn là họp nhất với khí quản, giống khối u ung thư. Eph quyết định không mổ xẻ thêm nữa, hy vọng một lúc nào đó có thể lấy ra nguyên vẹn khối cơ, hay cơ quan, hay bất cứ tên gọi gì cho thứ đó, để nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để chức năng của nó.
Điện thoại của Eph vang lên. Anh xoay mình sao cho Nora có thể lôi nó ra từ trong túi quần của anh bằng chiếc găng tay sạch của cô. "Văn phòng của bác sĩ pháp y trưởng," cô nói, đọc màn bình. Cô thay anh trả lời điện thoại, và sau khi nghe một lát, cô bảo người gọi, "Chúng tôi sẽ tới ngay."
Cô quan Pháp y, ManhattanGIÁM ĐỐC BARNES tới Cơ quan Pháp y trên phố 30 và phố 1 cùng lúc với Eph và Nora. Ông bước ra khỏi xe, không thể nhầm lẫn với ai khác bởi chòm râu dê và bộ đồng phục hải quân. Ngã tư đông nghịt xe của cảnh sát và các nhóm phóng viên truyền hình chờ sẵn ngoài mặt tiền màu lam ngọc của nhà xác.
Nhờ giấy phép đặc biệt của mình, họ được đưa vào trong, thẳng tới chỗ bác sĩ Julius Mirnstein, bác sĩ pháp y trưỏng của New York. Đầu Mimstein hói, ngoại trừ vài đám tóc màu hung ở hai bên và phía sau đầu, mặt ông dài, vẻ nghiêm khắc, và trùm bên trên chiếc quần màu ghi của ông là một chiếc áo choàng bệnh viện trắng bắt buộc.
"Chứng tôi nghĩ chúng tôi bị đột nhập đêm qua... chúng tôi không biết nữa." Bác sĩ Mimstein nhìn màn hình vi tính bị lật ngược và bút chì đổ ra khỏi một cái cốc. "Chúng tôi không thể liên lạc với bất kỳ nhân viên trực đêm nào." Ông kiểm tra lại thông tin này với người trợ lý đang áp điện thoại vào tai, và cô ta lắc đầu xác nhận. "Đi theo tôi."
Ở khu nhà xác dưới tầng hầm, mọi thứ có vẻ vẫn đâu vào đấy, từ những chiếc bàn mổ tử thi sạch sẽ cho tới bàn làm việc, cân và dụng cụ đo lường. Không có sự phá hoại nào ở đây. Bác sĩ Mimstein dẫn mọi người tới phòng lạnh, dừng lại chờ cho đủ mặt Eph, Nora và giám đốc Barnes.
Phòng lạnh trống tron. Những chiếc cáng vẫn còn đó, cùng vài tấm vải trùm và quần áo. Mấy thi thể vẫn còn nguyên ở mé tường bên trái, nhưng tất cả các nạn nhân máy bay đã biến mất.
"Họ đâu rồi?" Eph hỏi.
"Chỉ có thế thôi," bác sĩ Mimstein nói. "Chúng tôi không biết."
Giám đốc Bames nhìn ông chằm chằm trong giây lát. "Có phải ông đang nói với tôi rằng ông tin ai đó đã lẻn vào đây trong đêm và ăn cắp hơn bốn mươi xác chết?"
"Tôi cũng không biết gì hơn ông, bác sĩ Bames. Tôi đang hy vọng người của ông có thể giúp tôi làm sáng tỏ."
"Ùm," Bames nói, "họ không thể cứ thế mà đứng dậy bỏ đi."
Nora nói, "Thế còn Brooklyn? Queens nữa?"
Bác sĩ Mirnstein nói, "Tôi không nghe nói gì về Queens. Nhưng Brooklyn đã báo cáo chuyện tương tự."
"Chuyện tương tự?" Nora nói. "Xác chết của hành khách trên chuyến bay biến mất ư?"
"Chính xác," bác sĩ Mimstein nói. "Tôi gọi các ông tới đây với hy vọng có lẽ bên các ông đã yêu cầu nhận lại những xác chết này mà không cho chúng tôi biết."
Bames nhìn Eph và Nora. Họ lắc đầu.
Bames nói, "Chúa ơi. Tôi phải gọi FAA mới được."
Eph và Nora chặn lại trước khi ông làm thế, và tránh ra khỏi chỗ bác sĩ Mimstein. "Chúng ta cần nói chuyện," Eph nói.
Vi giám đốc hết nhìn người này lại chuyển qua người khác. "Jim Kent sao rồi?"
"Anh ấy có vẻ ổn. Anh ấy nói anh ấy thấy khỏe."
"Tốt," Barnes nói. "Gì vậy?"
"Anh ấy có một vết thủng ở cổ, xuyên qua họng. Giống hệt những vết chúng tôi đã phát hiện trên các nạn nhân của chuyến bay 753."
Bames cau mày. "Sao có thể thế được?"
Eph kể vắn tắt chuyện Redfern đã trốn khỏi phòng chụp và cuộc tấn công diễn ra sau đó. Anh lấy ra một ảnh chụp cộng hưởng từ từ một chiếc phong bì X-quang cỡ lớn và dính nó vào bảng đọc, rồi bật đèn chiếu lên. "Đây là hình ảnh 'trước' của viên phi công."
Các cơ quan chính ở trong tầm nhìn, trông có vẻ khỏe khoắn. "Sao nào?" Bames hỏi.
Eph nói, "Đây là hình ảnh 'sau'." Anh dính lên bảng một ảnh scan cho thấy phần thân trên của Redfern bị che phủ bởi những cái bóng.
Bames kéo cao chiếc kính bán nguyệt của mình lên. "Những khối u ư?"
Eph nói, "Ùm... cũng khó mà giải thích, nhưng đó là mô mới, chúng ăn hết các cơ quan mà mới chỉ hai mươi bốn giờ trước còn hoàn toàn khỏe mạnh."
Giám đốc Barnes kéo kính xuống và lại cau mày. "Mô mới? Anh định nói cái quái gì thế?"
"Ý tôi là cái này." Eph lấy ra ảnh scan thứ ba, hiển thị phần bên trong cổ của Redfern. Thứ mới sinh ra bên dưới lưỡi hiện lên rõ ràng.
"Cái gì vậy?" Bames hỏi.
"Một cái vòi châm," Nora trả lời. "Đại loại thế. Cấu tạo như cơ bắp. Có thể co rút, bằng thịt."
Barnes nhìn Nora như thể cô bị điên. "Một vòi chích ư?"
"Vâng, thưa ông," Eph nói, vội vàng hỗ trợ cô. "Chúng tôi tin nó có liên quan tới vết cắt ở cổ Jim."
Barnes nhìn tới nhìn lui giữa heli người. "Anh chị đang nói với tôi rằng một trong những người sống sót của thảm họa máy bay đã mọc ra một cái vòi châm và dùng nó tấn công Jim Kent sao?"
Eph gật đầu và lại dùng những ảnh scan để làm bằng chứng. "Everett, chúng ta cần cách ly những người sống sót còn lại."
Barnes nhìn sang Nora dò hỏi, và cô vội vã gật đầu, hoàn toàn tán thành ý kiến của Eph.
Giám đốc Barnes nói, "Kết luận lại là anh chị tin... sự phát triển của khối u này, sự biến đổi sinh học này... là có thể lây nhiễm, bằng cách nào đó?"
"Đó là giả thuyết và cũng là nỗi lo của chúng tôi," Eph nói. "Jim rất có thể đã bị nhiễm bệnh. Chúng ta cần xác định tiến triển của hội chứng này, dù nó là gì chăng nữa, nếu chúng ta muốn có bất cứ cơ hội nào để ngăn chặn nó và chữa trị cho anh ấy."
"Có phải anh chị bảo tôi là anh chị đã nhìn thấy cái... cái vòi châm có thể co rút này, theo nhu cách nói của anh chị?"
"Cả hai chúng tôi đều thấy."
"Và cơ trưởng Redfern giờ đang ở đâu?"
"Ở bệnh viện."
"Dự đoán bệnh thế nào?"
Eph trả lời trước khi Nora kịp nói gì. "Không chắc chắn." Barnes nhìn Eph, bắt đầu cảm thấy có gì đó không ổn.
Eph nói, "Tất cả những gì chúng tôi yêu cầu là một lệnh buộc những người khác phải chịu sự điều trị..."
"Cách ly ba người đồng nghĩa với nguy cơ gây hoảng loạn cho ba trăm triệu người khác." Barnes kiểm tra lại sắc mặt họ lần nữa, như thể để xác nhận lần cuối. "Anh có nghĩ rằng việc này có bất kỳ liên quan gì tới sự biến mất của những thi thể kia không?"
"Tôi không biết," Eph nói. Anh suýt nữa đã nói, Tôi không muốn biết.
"Tốt thôi," Barnes nói. "Tôi sẽ bắt đầu quy trình."
"Bắt đầu quy trình ư?"
"Việc này cần vài thủ tục."
Eph nói, "Chúng ta cần làm bây giờ. Ngay bây giờ."
"Ephraim, điều anh vừa trình bày với tôi thật kỳ quái và đáng lo, nhưng có vẻ nó đã được cách ly. Tôi biết anh lo lắng cho sức khỏe của đồng nghiệp, nhưng để cố được lệnh cách ly cấp liên bang, tôi phải đệ trình và nhận lệnh hành pháp từ tổng thống, và tôi không tha mấy thứ này trong ví của mình. Tôi chưa thấy bất cứ dấu hiệu gì của một đại dịch tiềm tàng, và do vậy tôi phải đi theo các kênh thông thường. Trước lúc đó, tôi không muốn anh quấy rầy những người sống sót khác."
"Quấy rầy ư?" Eph nói.
"Dù chúng ta chưa đi quá bổn phận của mình thì cũng đã có đủ sự hoảng loạn rồi. Tôi có thể chỉ ra cho anh chị thấy, nếu những người còn sống kia quả thực bị bệnh, thì tại sao cho tới lúc này chúng ta vẫn chưa nghe tin tức gì về họ?"
Eph không có câu trả lời.
"Tôi sẽ giữ liên lạc với hai người."
Bames đi ra để gọi điện.
Nora nhìn Eph. Cô nói, "Đừng."
"Đừng cái gì?" Cô có thể nhìn thấu anh.
"Đừng đi xem những người sống sót khác. Đừng phá hỏng cơ hội cứu Jim bằng việc đụng đến bà luật sư kia hoặc làm những người khác hoảng sợ."
Eph vẫn đang rối trí thì cửa ra vào mở. Hai chuyên viên cấp cứu y tế đẩy băng ca chở một túi xác vào, và được đón bởi hai nhân viên nhà xác. Cái chết sẽ không chờ cho đến khi chuyện bí hiểm này qua đi. Nó vẫn cứ tiếp tục diễn ra. Eph nhìn thấy trước chuyện gì sẽ xảy ra với thành phố New York dưới ảnh hưỏng của một trận đại dịch. Một khi các nguồn lực của thành phố bị chế ngự - cảnh sát, cứu hỏa, y tế, tang ma - toàn bộ hòn đảo, chỉ trong vòng vài tuần, sẽ biến thành một đống phân hủy hôi thối.
Nhân viên nhà xác kéo khóa túi xác xuống một nửa - rồi bật kêu lên hoảng hốt. Anh ta lùi lại khỏi chiếc bàn, hai bàn tay đeo găng tay nhỏ ra những giọt màu trắng, thứ chất lỏng trắng đục đang rỉ ra từ túi cao su đen, tràn ra băng ca và chảy xuống sàn.
"Cái quái gì thế này?" anh nhân viên nhà xác hỏi chuyên viên cấp cứu, lúc này đang đứng ở cửa, vẻ mặt lộ rõ sự kinh tởm.
"Tai nạn giao thông," anh ta nói, "sau khi đánh nhau. Tôi không rõ... chắc là một xe tải chở sữa hay gì đó."
Eph lấy một đôi găng tay từ chiếc hộp trên bàn và tiến đến gần túi xác, nhìn vào bện trong. "Đầu đâu rồi?"
"Trong đó," chuyên viên cấp cứu kia nói. "Ở đâu đó."
Eph thấy cái xác đã bị cắt mất đầu, phần cổ còn lại tung tóe những khối bèo nhèo màu trắng.
"Và ông ta trần truồng," chuyên viên cấp cứu bổ sung. "Không thể tưỏng được."
Eph kéo mở hết khóa ra. Xác chết không đầu này là một người quá cân, nam, khoảng năm mươi tuổi. Rồi Eph để ý đến bàn chân.
Anh thấy một sọi dây quấn quanh ngón chân cái. Có vẻ như ở đó từng gắn một thẻ nhận dạng người chết.
Nora cũng nhìn thấy sọi dây ở ngón chân, và mặt cô tái đi.
"Anh nói là đánh lộn hả?" Eph hỏi.
"Ấy là họ nói với chúng tôi như vậy," chuyên viên cấp cứu vừa nói vừa mở cửa bước ra ngoài. "Chúc các anh một ngày tốt lành, và chúc may mắn."
Eph đóng khóa túi trở lại. Anh không muốn bất cứ ai khác nhìn thấy dây thẻ. Anh không muốn bất cứ ai đặt cho anh những câu hỏi mà anh không thể trả lời.
Anh hướng về phía Nora. "Ông lão đó."
Nora gật đầu. "Ông ấy muốn chúng ta tiêu hủy các xác chết," cô nhớ lại.
"Ông ấy biết về tia cực tím." Eph tháo đôi găng dính mủ ra, lại nghĩ về Jim, đang nằm trong khu cách ly - cùng với cái thú chịu chẳng biết là gì đang phát triển trong cơ thể anh ta. "Chúng ta phải tìm hiểu xem ông ấy còn biết gì nữa."
Trụ sỏ cành sát số 17, phố 51 Đông, ManhattanSETRAKIAN ĐẾM được mười ba người nữa trong phòng giam, tính cả một kẻ bồn chồn với những vết xước mới tinh trên cổ đang ngồi xổm ở một góc và xoa nước bọt liên hồi lên hai bàn tay.
Dĩ nhiên, Setrakian đã từng ở trong hoàn cảnh tệ hơn thế này - tệ hơn rất nhiều. Trên một lục địa khác, trong thế kỷ khác, bị giam cầm vì là một người Do Thái Romania trong Thế Chiến II, trong trại hành quyết gọi là Treblinka. Ông mười i chín tuổi khi trại được giải phóng vào năm 1943, vẫn còn là một cậu trai. Nếu tầm tuổi này mà vào trại, có thể ông không sống sót nổi quá vài ngày - thậm chí không qua nổi chuyến xe lửa đến đó.
Setrakian nhìn cậu thanh niên Mexico cạnh ông trên băng ghế, người ông đã thấy lúc đăng ký, và nghĩ cậu ta chắc trạc tuổi ông hồi chiến tranh kết thúc. Má cậu ta tái xanh giận dữ, máu khô đen bám trên vết rách dưới mắt. Nhưng có vẻ cậu ta không bị nhiễm.
Setrakian lo lắng hơn về cậu bạn của chàng trai, đang nằm co tròn trên băng ghế kế bên ông, không nhúc nhích.
Về phần mình, Gus, cảm thấy giận dữ cay đắng và bồn chồn vì thấy chả còn chút năng lưọng nào, trở nên cảnh giác với ông lão đang nhìn mình. "Có vấn đề gì không?"
Những người khác ở trong nhà tạm giam hoạt bát hẳn lên trước triển vọng về một cuộc đánh đấm giữa một tên tội phạm và một ông già Do Thái.
Setrakian nói với cậu, "Tôi đúng là có một vấn đề rất lớn."
Gus ném ánh nhìn tối tăm sang ông. "Ai chả thế nhỉ."
Setrakian cảm thấy mọi người đều quay đi chỗ khác, vì giờ làm gì có cuộc đấu nào cho họ giải buồn. Setrakian nhìn kỹ lại người bạn đang nằm cuộn tròn của anh chàng Mexico. Tay cậu ta đặt lên mặt và cổ, đầu gối co lên áp chặt người, gần như tư thế của bào thai.
Gus nhìn sang Setrakian, giờ đã nhận ra ông. "Tôi biết ông." Setrakian gật đầu, vốn đã quen với việc này, "Phố 118." "Cửa hàng Đồ cổ và Cho Vay Knickerbocker. Phải rồi...
khỉ thật. Ông đã có lần đá đít anh trai tôi."
"Cậu ta đã ăn trộm?"
"Định ăn trộm. Một sọi dây chuyền vàng. Hắn giờ là một con nghiện chó chết, tàn tạ như một thây ma. Nhưng hồi đó hắn rất khỏe. hơn tôi vài tuổi."
"Đáng ra cậu ta nên biết phải quấy hon."
"Hắn từng như thế đấy. Vì sao hắn định ăn cắp. Thật ra sọi dây chuyền vàng đó chỉ là chiến lọi phẩm. Hắn muốn thách thức đám đường phố. Mọi người đều cảnh báo hắn, 'Chớ có dây vào lão chủ hiệu cầm đồ'."
Setrakian nói, "Ngay tuần đầu tiên tôi tiếp quản cửa hàng, ai đó đã làm vỡ cửa sổ trước của tôi. Tôi thay nó - rồi tôi rình và chờ đợi. Tóm được một nhóm định đến đập vỡ cửa. Tôi cho chúng có thứ để mà nhớ, cũng như để chứng kể lại với bạn bè. Chuyện đã xảy ra hơn ba mươi năm trước rồi. Từ đó tôi chả gặp vấn đề gì với kính cửa sổ của mình nữa."
Gus nhìn những ngón tay không khoèo của ông lão, được bao trong găng tay len. "Bàn tay ồng," cậu nói. "Chuyện gì vậy, ông từng bị bắt quả tang khi ăn trộm à?"
"Không phải ăn trộm, không," ông lão nói, xoa bàn tay qua lóp len. "Một vết thương cũ. Tôi không được chăm sóc y tế cho đến khi đã quá muộn."
Gus giơ cho ông già xem hình xăm trên tay mình, nắm bàn tay lại sao cho phần da giữa ngón cái và ngón trỏ phồng lên. Nó làm lộ ra ba vòng tròn đen. "Giống như thiết kế trên biển hiệu của cửa hàng ông."
"Ba quả bóng là biểu tưọng cổ chỉ một chủ tiệm cầm đồ. Nhưng của cậu mang nghĩa khác."
"Dấu hiệu băng đảng," Gus nói, ngồi ngả ra sau. "Nghĩa là kẻ trộm."
"Nhưng cậu chưa từng trộm gì của tôi."
"Chắc gì ông đã biết," Gus mỉm cười.
Setrakian nhìn quần của Gus, những cái lỗ thủng cháy sém trên vải đen. "Tôi nghe nói cậu giết một người đàn ông."
Nụ cười của Gus vụt biến.
"Cậu không bị thương đấy chứ? vết rách trên mặt cậu, là do cảnh sát à?"
Gus lừ mắt nhìn ông, như thể ông già có khả năng là một kẻ do thám trong nhà tù. "Việc này liên quan gì tới ông?"
Setrakian nói, "Cậu đã nhìn vào miệng hắn chưa?"
Gus quay qua ông. Ông lão đang ngả người về phía trước, gần như đang cầu nguyện. Gus hỏi, "Ông biết gì về chuyện đó?"
"Tôi biết," ông lão nói mà không nhìn lên, "rằng một bệnh dịch đã lan rộng khắp thành phố này. Và sẽ sớm lan ra cả thế giới."
"Đó không phải bệnh dịch. Đó là một gã tâm thần nào đó với một... một cái lưỡi chết tiệt thò ra từ..." Gus cảm thấy thật vớ vẩn khi nói ra điều đó. "Vậy nó là cái quái gì thế?"
Setrakian nói, "Thứ đánh nhau với cậù là một người đàn ông đã chết, bị kiểm soát bởi một căn bệnh."
Gus nhớ lại vẻ mặt của gã béo, trống rỗng và đói khát. Máu gã màu trắng. "Cái gì... kiểu như xác sống ư?"
Setrakian nói, "Hãy nghĩ thiên về thứ giống với một người đàn ông mặc áo choàng đen. Răng nanh. Khẩu âm buồn cười." Ông quay đầu lại để Gus có thể nghe được rõ hon. "Giờ thì bỏ áo choàng và răng nanh. Cả khẩu âm buồn cườị nữa. Bỏ mọi thứ buồn cười ở nó."
Gus suy nghĩ về lời của ông lão. Hẳn là ông biết. Giọng nói ảm đạm của ông, nỗi sợ hãi u sầu của ông, nó lây lan.
"Nghe tôi nói đây," ông lão tiếp tục. "Người bạn này của cậu. Cậu ấy đã bị nhiễm. Hay có thể nói... bị cắn."
Gus nhìn sang Felix đang bất động. "Không. Không, nó chỉ... cảnh sát đấy, họ đã đánh nó."
"Cậu ấy đang biến đổi. Cậu ấy bị chế ngự bởi một thứ nằm ngoài sự hiểu biết của cậu. Một bệnh biến con người thành thứ không phải là người. Người này không còn là bạn cậu nữa. Cậu ấy đã bị biến đổi."
Gus nhớ lúc gã béo đè lên trên Felix, nhớ cái ghì siết điên cuồng của hai người, miệng gã kề cổ Felix. Và vẻ mặt của Felix - kinh sợ và hãi hùng.
"Cậu thấy cậu ấy nóng cỡ nào? Sự trao đổi chất trong cậu ấy đang tăng nhanh. Cần một năng lưọng lớn để thay đổi - những thay đổi thảm khốc, đau đón diễn ra bên trong cơ thể cậu ấy. Sự phát triển của hệ cơ quan ký sinh để thích ứng với trạng thái mới của cậu ấy. Cậu ấy đang biến thành một sinh vật chỉ biết ăn. Sớm thôi, từ mười hai đến ba mươi sáu tiếng đồng hồ kể từ lúc bị nhiễm, nhưng rất có khả năng là đêm nay, cậu ấy sẽ đứng dậy. Cậu ấy sẽ khát. Cậu ấy sẽ không dừng lại trước bất cứ trở ngại nào để thỏa mãn con khát."
Gus nhìn chằm chằm ông lão, thẫn thờ.
Setrakian nói, "Cậu có yêu bạn mình không?"
Gus trả lời, "Cái gì?"
"Tôi nói 'yêu' có nghĩa là quý mến, tôn trọng. Nếu cậu yêu bạn mình, cậu phải tiêu diệt cậu ấy trước khi cậu ấy trở lại."
Mắt Gus tối lại. "Tiêu diệt?"
"Giết cậu ấy. Nếu không cậu ấy sẽ biến đổi cậu."
Gus chậm chạp lắc đầu. "Nhưng... ông nói bạn tôi đã chết... nếu vậy sao tôi có thể giết nó?"
"Có nhiều cách lắm," Setrakian nói. "Cậu đã giết kẻ tấh công cậu như thế nào?"
"Bằng dao. Thứ đó vọt ra khỏi mồm ông ta... tôi cắt phăng nó đi."
"Còn họng thì sao?"
Gus gật đầu. "Cả cái đó nữa. Rồi một xe tải đâm vào ông ta, hoàn thành công việc."
"Cắt đầu khỏi cơ thể là cách chắc ăn nhất. Anh nắng cũng được - ánh nắng trực tiếp. Và còn nhiều cách nữa, nhiều phương thức cổ xưa nữa."
Gus quay lại nhìn Felix. Nằm ở đó, không nhúc nhích. hơi thở thoi thóp. "Tại sao chả ai biết về chuyện này?" cậu nói. Rồi cậu nhìn sang Setrakian, tự hỏi ai mới là người điên. "Thật ra ông là ai, ông già?"
"Elizalde! Torrez!"
Gus bị cuốn vào cuộc nói chuyện tới mức không hề nhận ra là có mấy viên cảnh sát đã vào phòng tạm giam. Cậu ngẩng lên khi nghe gọi tên mình và Felix, thấy bốn cảnh sát đeo găng cao su tiến về phía trước, đồ nghề sẵn sàng để trấn áp. Gus bị lôi dậy khi còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra.
Họ vỗ vai Felix, đập vào đầu gối nó. Khi thấy không thể đánh thức được Felix, họ xốc nó lên, khóa tay xuống dưới cánh tay nó. Đầu nó rũ xuống và chân kéo lê trên sàn trong khi bị họ lôi đi.
"Xin hãy nghe tôi." Setrakian đứng lên đằng sau họ. "Anh chàng này... cậu ấy bị bệnh. Ôm nặng. Cậu ấy bị bệnh truyền nhiễm."
"Vậy nên chúng tôi mới đeo găng tay, bố già," một gã cóm nói với lại. Họ vặn cánh tay rũ rưọi của Felix trong khi kéo nó qua cửa. "Chúng tôi đối mặt với bọn bị bệnh lây truyền qua đường tình dục hoài."
Setrakian nói, "Cậu ấy phải được tách riêng, cậc anh có nghe thấy không? Nhốt riêng một mình."
"Đừng lo, bố già. Chúng tôi luôn có chế độ ưu đãi cho lũ giết người."
Mắt Gus vẫn dán vào ông lão trong khi cửa phòng đóng lại và đám cảnh sát lôi cậu đi.
Tập đoàn Stoneheart, ManhattanĐÂY LÀ PHÒNG NGỦ của người đàn ồng vĩ đại.
Điều kiện môi trường được kiểm soát và hoàn toàn tự động, các chế độ mặc định có thể đưọc điều chỉnh thông qua một bàn điều khiển nhỏ chỉ cách đó đúng một tầm tay với. Tiếng xào xạc của máy làm ẩm trong góc phòng hòa với tiếng vo ve của máy tạo ion cùng tiếng xì xào của máy lọc không khí nghe như tiếng dỗ dành khe khẽ của một bà mẹ. Mọi người, Eldritch Palmer nghĩ, nên ngủ hằng đêm trong một cái dạ con. Ngủ như một đứa bé.
Tận mấy tiếng nữa trời mới tối, và ông ta thấy sốt ruột. Giờ khi mọi thứ đã chuyển động - sự căng thẳng đã lan tràn khắp thành phố New York theo cấp số mũ của lãi kép, cứ gấp đôi và gấp đôi hằng đêm - ồng ta ngâm nga trong miệng niềm hân hoan của một ông chủ nhà băng tham lam. Chưa từng có một thành công tài chính nào, vốn ông ta có thừa, mang lại cho ông ta niềm phấn chấn đến thế.
Chuông điện thoại đầu giường của ông ta reo lên một tiếng, tay cầm nhấp nháy. Mọi cuộc gọi đến số điện thoại này đều phải thông qua y tá và trợ lý của ông ta, Fitzwilliam, một người đàn ông cực kỳ thông minh và thận trọng. "Xin chào, thưa ngài."
"Ai đó, Fitzwilliam?"
"Anh Jim Kent, thưa ngài. Anh ta nói có chuyện khẩn cấp. Tôi đang nối máy cho anh ta."
Trong giây lát, Kent, một trong nhiều thành viên Hiệp hội Stoneheart của Palmer đang được cài cắm ở vị trí rất tốt, nói, "Vâng, xin chào?"
"Vào việc đi, anh Kent."
"Vâng... ngài có nghe rõ tôi nói không? Tôi phải nói khẽ..."
"Tôi vẫn nghe rõ, anh Kent. Lần trước chúng ta đã bị cắt ngang."
"Vâng. Viên phi công đã trốn thoát. Khỏi cuộc xét nghiệm."
Palmer mỉm cười. "Và giờ anh ta đã đi rồi?"
"Không. Tôi không chắc phải làm gì, vậy là tôi theo anh ta suốt bệnh viện cho tới khi bác sĩ Goodweather và bác sĩ Martinez đuổi kịp anh ta. Họ nói Redfern ổn, nhưng tôi không thể xác nhận tình trạng của anh ta. Tôi nghe một y tá khác nói chỉ có một mình tôi ở đây. Và các thành viên dự án Canary đã trưng dựng một căn phòng bị khóa dưới tầng hầm."
Palmer sa sầm. "Anh đang một mình ở đâu?"
"Trong khu cách ly. Chỉ là biện pháp phòng ngừa. Redfern chắc đã đánh tôi hoặc sao đó, anh ta cho tôi đo ván."
Palmer im lặng giây lát. "Tôi hiểu."
"Giá như ngài có thể giải thích cho tôi chính xác những gì tôi phải tìm, tôi có thể hỗ trợ ngài tốt hơn..."
"Anh nói họ đã trưng dụng một phòng trong bệnh viện?"
"Ở tầng hầm. Có thể là nhà xác. Tôi sẽ tìm hiểu sau." Palmer nói, "Bằng cách nào?"
"Ngay khi tôi ra khỏi đây. Họ chỉ muốn thực hiện một số xét nghiệm với tôi."
Palmer tự nhắc mình rằng Jim Kent không phải một bác sĩ dịch tễ, mà đúng hơn là một người hỗ trợ dự án Canary, không hề được đào tạo y khoa. "Anh nói như thể đang bị đau họng, anh Kent."
"Tôi bị thật. Rất nhẹ thôi."
"Hừm. Chúc một ngày tốt lành, anh Kent."
Palmer gác máy. Việc Kent bị nhiễm chỉ gây bực mình, nhung thông tín về nhà xác của bệnh viện thì thật đáng quan ngại. Dù sao thì mọi cuộc đầu cơ lớn đều luôn kèm theo những chướng ngại cần phải vượt qua. Cả đòi làm kinh doanh đã dạy cho ông ta một bài học rằng chính những bước lùi và khó khăn như thế sẽ làm cho thắng lọi cuối cùng càng thêm ngọt ngào.
Ông ta lại nhấc điện thoại cầm tay và nhấn nút ngôi sao.
"Vâng, thưa ngài?"
"Fitzwilliam, chứng ta đã mất người có liên hệ với dự án Canary. Anh phải phớt lờ mọi cuộc gọi từ điện thoại di động của anh ta."
"Vâng, thưa ngài."
"Và chúng ta cần cử một nhóm đến Queens. Dường như có cái gì đó ở tầng hầm của Trung tâm Y tế Bệnh viện Jamaica cần được xử lý."
Flatbush, BrooklynANN-MARIE BARBOUR kiểm tra một lần nữa để chắc chắn cô đã khóa tất cả các cửa, sau đó đi khắp nhà hai lần - từng phòng một, từ trên xuống dưới - chạm tay hai lần vào từng tấm gương để trấn tĩnh. Cô không thể đi qua bất kỳ bề mặt phản chiếu nào nếu không chạm hai ngón tay phải vào nó, sau mỗi lần chạm lại gật đầu, một thủ tục hằng ngày giống như người ta phải quỳ gối khi tế lễ. Sau đó cô đi khắp nhà lần thứ ba, lau sạch mọi bề mặt bằng hỗn họp năm mươi phần trăm nước lau kính Windex
và năm mươi phần trăm nước thánh cho đến khi thấy thỏa mãn.
Khi đã bình tĩnh trở lại, cô gọi điện thoại cho chị dâu, Jeanie, vốn sống ở trưng tâm New Jersey.
"Chúng ổn," Jeanie nói, nhắc đến lũ trẻ chị đã đến đón ngày hôm trước. "Rất ngoan. Ansel thì sao rồi?"
Ann-Marie nhắm mắt lại. Nước mắt ứa ra. "Em không biết."
"Chú ấy đỡ hơn chưa? Em đã cho chú ấy ăn xúp gà chị mang đến chưa?"
Ann-Marie chỉ sợ giọng cô sẽ để lộ là hàm cô đang run bần bật. "Lát nữa. Em... em sẽ gọi lại chị sau."
Cô tắt máy và nhìn ra cửa sổ sau nhà, về chỗ những ngôi mộ. Hai miếng đất mới xói. Nghĩ đến những con chó nằm ở đó.
Ansel. Điều anh đã làm với chúng.
Cô cọ rửa hai bàn tay, sau đó lại đi khắp nhà, lần này chỉ dưới lầu. Cô lấy cái hộp gỗ gụ từ tủ bát đĩa trong phòng ăn, mở nắp và làm lộ ra bộ đồ ăn bằng bạc, quà cưới của cô. Lấp lánh và bóng loáng. Bảo vật bí mật của cô, đưọc cất giấu như những người phụ nữ khác giấu kẹo hay thuốc. Cô sờ từng món đồ, đầu ngón tay hết chạm vào bạc lại đưa lên môi. Cô cảm thấy mình sẽ gục ngã nếu không chạm tay vào từng thứ một.
Rồi cô đi tới cửa sau. Cô dừng lại ở đó, kiệt sức, bàn tay trên tay nắm cửa, cầu nguyện được soi lối, được cho sức mạnh. Cô cũng cầu nguyện được thấu hiểu, được hiểu ra đang có chuyện gì, được chỉ dẫn cho hành động đúng đắn.
Cô mở cửa, bước xuống bậc thềm dẫn tới chuồng chó. Cái chuồng cô đã kéo xác chó ra mang tới một góc sân, không biết phải làm gì khác. May mắn thay, có một cái xẻng cũ dưới hiên trước, vậy nên cô không phải vào lại chuồng chó nữa. Cô đã chôn chúng trong hố đất nông và khóc trên nấm mồ của chúng. Khóc cho chúng và cho các con của cô, cho cả chính cô nữa.
Cô bước đến bên hông nhà kho, nơi những cây hoa vàng và cam được trồng trong một chiếc hộp đặt dưới cái cửa sổ bốn ô kính. Cô do dự một hồi rồi mới nhìn vào bên trong, che mắt tránh ánh mặt trời. Dựng cụ làm vườn treo trên các bảng ghim gắn trên tường, những công cụ khác thì chất đống trên các giá để đồ và một cái bàn thợ nhỏ. Anh nắng chiếu qua cửa sổ tạo thành hình chữ nhật hoàn hảo trên sàn nhà bẩn, bóng Ann-Marie đổ dài trên cây cọc kim loại cắm xuống đất. Một sọi xích giống nhu cái ở trên cửa có một đầu được gắn vào cọc, còn đầu kia bị khuất ở đâu đó do góc nhìn của cô. Sàn chuồng cho thấy dấu vết đào bói.
Cô quay trở về phía trước, dừng lại trước cánh cửa bị xích. Nghe ngóng.
"Ansel?"
Cô thì thầm. Cô lắng nghe một lần nữa, và, chẳng nghe thấy gì, cô bèn ghé sát miệng vào khoảng hở giữa hai cánh cửa bị mưa làm cho cong vênh.
"Ansel?"
Một tiếng sột soạt. Cái âm thanh mơ hồ giống tiếng một con thú đó làm cô khiếp hãi... tuy nhiên cũng đồng thời khiến cô an tâm.
Anh vẫn còn bên trong, vẫn còn với cô.
"Ansel... Em không biết phải làm gì... xin anh... hãy cho em biết nên làm gì... em không thể làm được chuyện này nếu thiếu anh. Em cần anh, anh yêu. Xin hãy trả lời em. Em phải làm gì?"
Tiếng sột soạt nhiều hon, như tiếng giũ đất. Một âm thanh phát ra từ cổ họng, như tiếng ống nước tắc.
Giá mà cô có thể nhìn thấy anh. Khuôn mặt làm yên lòng của anh.
Ann-Marie thò tay vào bên trong ngực áo, lấy ra một chiếc chìa khóa móc trong dây giày. Cô cầm ổ khóa đang khóa sợi xích móc qua các tay nắm cửa và tra chìa vào, xoay chìa cho tới khi một tiếng cạch vang lên, móc khóa tách ra khỏi ổ khóa bằng thép dày. Cô xổ sọi xích và rút nó ra khỏi tay nắm cửa bằng thép, thả nó roi xuống mặt cỏ.
Hai cánh cửa tách ra, xoay ra ngoài vài phân. Mặt trời giờ đang ở thẳng trên đỉnh đầu, bên trong chuồng là bóng tối, nếu không kể một chút ánh sáng lọt qua ô cửa sổ nhỏ. Cô dừng lại một lúc trước khi mở, cố nhìn xem bên trong.
"Ansel?"
Cô thấy một cái bóng động đậy.
"Ansel... anh phải yên lặng hơn nữa, vào ban đêm ấy... Lão Otish ở bên kia đường đã gọi cảnh sát, đinh ninh là bọn chó... bọn chó..."
Nước mắt cô chỉ chực tràn ra.
"Em... em suýt nữa đã nói với lão về anh. Em không biết phải làm gì, Ansel. Đâu là điều đúng đắn? Em thật sự bối rối. Xin anh... Em cần anh..."
Cô đang với tay về phía cửa thì giật mình vì nghe thấy một tiếng kêu như rên rỉ. Anh lao ra cửa - về phía cô - tấn công từ bên trong. Nhưng sọi xích cố định vào cọc đã giật ngược anh trở lại, bóp nghẹt tiếng gầm của một con thú trong cổ họng anh. Nhưng khi cánh cửa mở bung ra, cô đã thấy - trước khi cô kịp thét lên, trước khi cô kịp sập mạnh cửa lại trước mặt anh như một con lốc hung dữ đóng sập cánh cửa chóp - chồng của cô bò trên đất, trên người chẳng có gì ngoại trừ chiếc vòng cổ chó siết chặt ở cổ, miệng anh đen ngòm và mở to. Anh đã bứt gần hết tóc của mình cũng như đã xé bỏ toàn bộ quần áo; cơ thể trắng nhợt, nổi gân xanh trông vô cùng dơ dáy do ngủ - giấu mình - dưới đất bẩn, như một thứ đã chết tự đào mộ và vùi mình vào đó. Anh nhe hàm răng nhuốm máu, đôi mắt co rụt lại, trốn tránh ánh mặt trời. Một con quỷ. Cô run rẩy lồng sọi xích trở lại hai tay nắm cửa và đóng khóa, rồi quay người chạy biến vào nhà.
Phố Vestry, TribecaCHIẾC LIMOUSINE đưa Gabriel Bolivar tới thẳng văn phòng bác sĩ riêng của anh ta trong một tòa nhà có bãi để xe dưới tầng hầm. Bác sĩ Ronald Box là bác sĩ chính cho nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực điện ảnh, truyền hình và âm nhạc ở New York. Ông không phải là một thầy kê đơn, hay bác sĩ Feelgood[I], nhũng cái máy viết đơn thuốc chính hiệu, dù ông cũng rất hào phóng với chiếc bút điện tử của mình. Ông là một bác sĩ nội khoa được đào tạo bài bản, biết rất rõ về các trung tâm cai nghiện, giỏi điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, viêm gan siêu vi c, và các căn bệnh khác liên quan đến người nổi tiếng.
Bolivar ngồi xe lăn lên thang máy, chỉ mặc áo choàng đen, trầm ngâm như một ông lão. Mớ tóc đen dài óng ả đã trở nên xơ xác và rụng từng mảng. Anh ta che mặt bằng hai bàn tay xương xẩu như bị viêm khớp để không ai nhận ra. cổ họng sưng to và đau buốt đến nỗi không thể nói.
Bác sĩ Box nhận ra vấn đề của anh ta ngay lập tức. Ông đang xem những hình ảnh được truyền đến từ phòng lâm sàng. Những hình ảnh đi kèm với tin nhắn xin lỗi từ trưởng nhóm lâm sàng, ông này chỉ nhìn thấy kết quả chứ không thấy bệnh nhân, hứa sẽ sửa chữa thiết bị và đề nghị tổ chức một buổi kiểm tra khác trong một hai ngày tới. Nhưng, nhìn Bolivar, bác sĩ Box không cho rằng vấn đề là do thiết bị hỏng. Ông mang ống nghe đến gần Bolivar, nghe nhịp tim, bảo anh ta hít thở. Ông muốn xem họng Bolivar, nhưng bệnh nhân từ chối, không nói ra lời, đôi mắt đen-đỏ rực lên đau đớn.
"Anh đeo kính áp tròng bao lâu rồi?" bác sĩ Box hỏi.
Miệng Bolivar mấp máy thành tiếng gầm gừ khô khốc và anh ta lắc đầu.
Bác sĩ Box nhìn tên hộ vệ đứng ở cửa, mặc đồng phục tài xế. Vệ sĩ của Bolivar, Elijah - cao hai mét, nặng gần một trăm hai mươi cân - có vẻ lo lắng, và bác sĩ Box bắt đầu thấy hoảng. Ông kiểm tra tay của ngôi sao nhạc rock, nhăn nheo và lở loét, nhưng không hề yếu ớt. Ông cố kiểm tra hạch dưới quai hàm, nhưng anh ta quá đau. Nhiệt độ đo được từ phòng khám là 50°C, một nhiệt độ không tưởng ở con người, thế nhưng khi đứng đủ gần đến độ có thể cảm thấy được hơi nóng phát ra từ người Bolivar, bác sĩ Box tín con số đó.
Bác sĩ Box lùi lại.
"Tôi thật sự không biết nói thế nào về chuyện này, Gabriel. Có vẻ cơ thể anh bị nghi là có những khối u ác tính.
Đó là ung thư. Tôi đang nghĩ tới ung thư biểu bì, ung thư mô liên kết, ung thư máu, và tất cả đều đã di căn trầm trọng. Tôi chưa từng biết tới một tiền lệ y học nào như thế này, dù sao thì tôi nhất định sẽ mòi các chuyên gia trong lĩnh vực này cùng xem xét."
Bolivar chỉ ngồi đó, lắng nghe, đôi mắt mất màu của anh ta ánh lên cái nhìn hiểm ác.
"Tôi không biết nó là cái gì, nhưng thứ gì đó đang khống chế anh. Tôi nói điều đó theo nghĩa đen. Tất cả những gì tôi có thể nói là, trái tim anh đã ngưng đập. Có lẽ bệnh ung thư đang... điều khiển cơ quan đó. Làm nó đập. Phổi của anh cũng vậy. Chúng đã bị xâm chiếm và... gần như bị hấp thụ, bị biến đổi. Như là..." Bác sĩ Box chợt nhận ra điều này. "Như là anh đang trong quá trình hóa thân, về mặt lâm sàng, anh có thể được coi như đã chết. Có lẽ ung thư đang giữ cho anh sống. Tôi không biết phải nói thế nào với anh nữa. Các cơ quan của anh đang bị tàn phá hoàn toàn, nhưng ung thư của anh... ờ, ung thư của anh đang rất sung sức."
Bolivar trừng đôi mắt ghê rọn ngồi nhìn vào khoảng không. Cổ hơi phồng lên, như thể anh ta đang cố nói, nhưng không thể đẩy tiếng nói của mình qua cục tắc nơi cổ họng.
Bác sĩ Box nói, "Tôi muốn chuyển anh qua trung tâm Sloan-Kettering ngay lập tức. Chúng ta có thể làm vậy với một cái tên giả và thẻ bảo hiểm xã hội giả. Đó là bệnh viện điều trị ung thư tốt nhất nước. Tôi muốn anh Elijah chở anh tới đó ngay bây giờ..."
Bolivar phát ra một tiếng rên ùng ục trong ngực chỉ có thể được hiểu là không. Anh ta chống hai tay vào thanh tì tay của xe lăn trong khi Elijah bước tới giữ lấy tay cầm sau của nó để Bolivar có thể đứng lên. Bolivar mất một lúc mới lấy lại được thăng bằng, rồi anh ta túm dây lưng của chiếc áo choàng và giật mở tung nút thắt.
Lộ ra dưới áo choàng của anh ta là dương vật ỉu xìu, thâm đen và nhăn nheo, chỉ chực roi ra khỏi háng giống như một quả sung thối trên một cái cây đang chết héo.
BronxvilleNEEVA, NGƯỜI TRÔNG TRẺ NHÀ LUSS, vẫn rất bối rối sau những sự kiện xảy ra trong hai mươi bốn giờ qua, giao lũ trẻ lại cho cháu của bà, Emile, trong khi con gái của bà, Sebastiane, lái xe đưa bà trở lại Bronxville. Bà đã dỗ hai đứa trẻ nhà Luss, Keene và em gái tám tuổi của nó, Audrey, ăn món ngũ cốc sấy Frosted Flakes thay cho bữa trưa, cùng trái cây xắt vuông, vốn đã được bà Neeva đem theo khi chạy khỏi nhà Luss.
Giờ bà đang quay lại để lấy thêm đồ. Những đứa trẻ nhà Luss có thể sẽ không ăn các món nấu kiểu Haiti của bà, và - bức bách hơn cả - Neeva đã để quên thuốc hen Pulmicort của Keene ở nhà. Thằng bé đang thở khò khè và nhìn rất nhợt nhạt.
Họ đánh xe vào và thấy chiếc xe màu xanh lá cây của Guild ở lối vào nhà Luss, Neeva chững lại. Bà bảo Sebastiane đỗ lại đó đợi, còn bà xuống xe, vuốt thẳng lại chiếc quần thụng dưới váy, và cầm theo chìa khóa đi về phía cửa hông. Cánh cửa mở ra không một tiếng động, hệ thống báo động đã ngắt. Neeva bước ngang qua một tiền phòng được trang bị đầy đủ với những giá để đồ gắn tường, móc treo áo choàng, và sàn lát gạch được sấy nóng từ bên dưới - một tiền phòng không bao giờ dính chút bùn đất - rồi đẩy cánh cửa nhiều ô kính thông vào bếp.
Không có dấu hiệu nào chứng tỏ đã có ai đó vào phòng này kể từ lúc bà rời đi cùng lũ trẻ. Bà đứng yên tại cửa, căng tai nghe ngóng, nín thở lâu hết mức có thể rồi mới thở ra. Bà không nghe thấy gì cả.
"Xin chào?" Bà gọi vài lần, không biết liệu cô Guild, người có mối quan hệ khá lạnh nhạt với bà - bà ngờ là người quản gia này ngầm có tư tưởng phân biệt chủng tộc - có trả lời bà. Không biết liệu Joan - một bà mẹ rất thiếu bản năng làm mẹ, chỉ toàn tâm vì sự nghiệp luật sư của mình, như một đứa trẻ không hơn - có trả lời bà. Và bà biết cả hai người chắc sẽ không trả lời bà.
Chẳng nghe thấy gì, bà bước ngang qua căn phòng tới đảo bếp giữa nhà và nhẹ nhàng đặt túi xách xuống, giữa bếp và bồn rửa. Bà mở tủ để đồ ăn nhẹ, và vội vàng, giống một tên trộm hơn bà tưỏng, nhét ngũ cốc sấy, nước quả, bỏng ngô Smartfood vào đầy chiếc túi Food Emporium - thỉnh thoảng dừng lại một lát để nghe ngóng.
Sau khi càn quét phô mai thỏi và sữa chua từ tủ lạnh, bà nhìn thấy số của ông Luss trên tờ danh bạ điện thoại dán trên tường, gần chiếc điện thoại nhà bếp. Bà đột nhiên thấy lưỡng lự. Bà có thể nói gì với ông ấy? Vợ ông bị ốm. Cô ấy không ổn. Vì thế tôi đã đưa lũ trẻ đi. Không. Bà có mấy khi nói chuyện với người đàn ông đó đâu. Có gì đó ma quỷ trong ngôi nhà tráng lệ này, và bổn phận đầu tiên cũng là duy nhất của bà - vừa là người làm thuê vừa là một người mẹ - là đảm bảo an toàn cho lũ trẻ.
Bà kiểm tra tủ thuốc phía trên tủ mát âm tường trữ rượu, nhưng hộp Pulmicort trống rỗng, đúng như bà đã lo sợ. Bà phải xuống kho chứa dưới tầng hầm. Tại đầu cầu thang trải thảm xoáy trôn ốc, bà dừng lại và lấy từ trong túi ra một cây thánh giá tráng men. Bà cầm nó theo khi đi xuống dưới, để phòng ngừa. Dưới chân cầu thang, tầng hầm rõ ràng rất tối so với thời điểm đó của ngày. Bà bật tất cả các công tắc đèn trên bảng điện, đứng lắng nghe động tĩnh sau khi đèn đã sáng lên.
Họ gọi nó là tầng hầm, nhưng thực ra đó là một tầng khác với đầy đủ tiện nghi của ngôi nhà này. Họ đã lắp đặt một rạp hát gia đình ở dưới này, có đủ cả ghế nhà hát và một xe làm bỏng ngô. Phòng kế bên chứa đầy đồ choi và bàn game; một phòng khác nữa là nơi cô Guild chứa quần áo và đồ vải của gia đình. Ngoài ra còn có phòng tắm thứ tư, phòng thực phẩm và một hầm rượu mới lắp đặt có trang bị thiết bị kiểm soát nhiệt độ. Hầm rượu được làm theo kiểu châu Âu, những người thợ đã phải đục phá móng nhà để tạo ra một lóp nền chỉ toàn là đất.
Hoi nóng ùa ra kèm theo một tiếng động nghe như có ai đá vào lò sưỏi - bộ máy hoạt động của tầng hầm thực tế được bố trí khuất sau một cánh cửa nào đó - và âm thanh đó thiếu chút nữa khiến bà phải ba chân bốn cẳng chạy lên tầng trên. Bà đã quay ra đến cầu thang, nhung thằng bé cần thuốc, màu da nó không được tốt.
Bà quả quyết băng ngang tầng hầm, và khi đến giữa hai chiếc ghế nhà hát bằng da, nửa đường tới cánh cửa xếp của phòng thực phẩm, bà nhận thấy có thứ gì đó lù lù chặn ở cửa sổ. Đó là lý do dưới này tối thế dù đang giữa ban ngày: đồ choi và hộp các tông cũ chất trên một cái giá đỡ để sát tường, chặn cửa sổ nhỏ, cùng với quần áo và giấy báo chắn mọi tia sáng của mặt trời.
Neeva chăm chú nhìn, tự hỏi ai đã làm việc này. Bà bước vội đến phòng thực phẩm, lục trên một cái giá thép tìm thuốc hen của Keene cũng như thuốc vitamin và những tuýp canxi dạng kẹo nhiều màu của Joan. Bà lấy xuống hai hộp dài chứa các lọ nhựa, bỏ qua mọi thứ đồ ăn còn lại vì vội, và hối hả đi ra chẳng buồn đóng cửa lại.
Khi bắt đầu băng qua tầng hầm, bà nhận thấy cửa vào phòng chứa quần áo hé mở. Có gì đó bất thường với cánh cửa vốn không bao giờ để mở này, cho thấy một sự vi phạm trật tự thông thường mà Neeva đã rất quen thuộc trong ngôi nhà.
Rồi bà nhìn thấy nhiều vết bẩn tối màu trên lóp thảm nhung, cách quãng gần bằng bước chân người. Mắt bà dõi theo chứng cho tới cửa hầm rượu bà buộc phải đi ngang qua để ra tới cầu thang. Bà thấy đất lem trên tay nắm cửa.
Neeva cảm thấy nó khi gần đến cửa hầm rượu. Từ cái phòng nền đất đó, một cái tổ đen giống như nấm mồ. Một thứ vô hồn. Tuy nhiên... không phải một thứ lạnh lẽo. Mà ngược lại, là một thứ ấm áp. Một thứ nóng, lén lút và xáo động.
Tay nắm cửa bắt đầu quay khi bà chạy ngang qua để lên cầu thang. Neeva, một phụ nữ năm mươi ba tuổi viêm khóp đầu gối, vấp chân vào các bậc cầu thang trong khi chạy lên trên. Bà trượt chân, bèn vịn tay vào tường để lấy lại thăng bằng, cây thánh giá cào vỡ một mảng vữa nhỏ. Thứ gì đó ở phía sau, đuổi theo bà lên cầu thang. Bà la hét bằng tiếng Tây Ban Nha khi lên đến tầng một rực sáng ánh mặt trời, chạy dọc phòng bếp dài, chộp lấy túi xách, làm đổ cái túi Food Emporium, đồ ăn nhẹ và thức uống roi tung tóe xuống sàn, nhung bà quá sợ không dám quay lại.
Sebastiane nhảy ra khỏi xe khi nhìn thấy mẹ mình trong bộ váy hoa dài đến mắt cá chân và đôi giày đen vừa chạy ra khỏi ngôi nhà vừa la hét. "Đừng!" mẹ cô hét to, ra hiệu cho cô vào lại trong xe. Bà chạy như thể đang bị đuổi theo, nhưng thực ra chả có ai ở phía sau bà. Sebastiane ngồi trở lại vào ghế, cảnh giác.
"Mẹ, chuyện gì vậy?"
"Lái đi!" Neeva kêu to, lồng ngực rộng phập phồng, đôi mắt vẫn hoảng loạn, nhìn chằm chằm cánh cửa mở bên hông nhà.
"Mẹ," Sebastiane nói, lùi xe để vòng lại. "Thế này là bắt cóc đấy. Họ có luật. Mẹ đã gọi cho ông chồng chưa? Mẹ đã nói là mẹ sẽ gọi cho ông chồng mà."
Neeva mở lòng bàn tay, thấy nó đẫm máu. Bà đã nắm cây thánh giá đính cườm chặt đến nỗi thanh ngang của nó cứa đứt thịt bà. Bà để nó roi xuống sàn xe.
Trụ sỏ cành sát số 17, phố 51 Đông, ManhattanVỊ GIÁO SƯ GIÀ ngồi ở tít cuối băng ghế trong phòng tạm giam, tránh xa