← Quay lại trang sách

Giáo sư già cửa hàng đồ cổ và cho vay Knickerbocker-Phố 118 đông Spanish Harlem

Eph đặt cái thẻ VẬN CHUYỂN MÁU KHẨN CẤP lên trước kính chắn gió và đậu xe tại khu vực đánh dấu chỗ dỡ hàng trên phố 119 Đông, theo Nora và Setrakian đi về phía Nam, qua một khu nhà đến cửa hàng cầm đồ ở góc phố của ông. Cửa ra vào có cổng chắn, cửa sổ được lắp cửa chóp bằng các tấm thép có khóa. Mặc dù tấm biển ĐÓNG CỬA đã được gắn trên cửa kính đè lên biển báo giờ mở cửa, một người đàn ông mặc áo khoác thủy thủ rách rưới, đội mũ len chóp cao - giống kiểu mũ những người theo phong trào Rastafari thường đội, chỉ có điều ông ta không có những lọn tóc tết kiểu dây thừng để nhồi cho căng mũ, nên cái mũ cứ rũ xuống đầu ông ta như chiếc bánh trứng phồng bị đổ - cầm một hộp đựng giày đứng bên cửa, đổi chân trụ liên tục.

Setrakian bước tói, cầm theo chùm chìa khóa lửng lẳng trên một sọi dây, lụi cụi mở hết khóa này khóa kia trên cổng, bắt những ngón tay xương xẩu của ông hoạt động. "Hôm nay không nhận cầm đồ đâu," ông nói, liếc nhìn chiếc hộp trên tay người đàn ông.

"Nhìn này." Từ trong hộp đựng giày, người đàn ông lấy ra một gói bọc khăn ăn bằng vải lanh, mở khăn để lộ ra chín, mười món đồ dùng nhà bếp. "Toàn đồ bạc tốt. Tôi biết ông có mua đồ bạc."

"Vâng, đúng thế." Setrakian, giờ đã mở được cổng, gác tay cầm của cây gậy dài lên vai và chọn một con dao, ướm độ nặng nhẹ, cà ngón tay lên lưỡi dao. Sau khi vỗ vỗ tay vào túi áo khoác, ông quay sang Eph. "Anh có mười đô không, bác sĩ?"

Chỉ mong sớm kết thúc vụ mua bán này, Eph lấy kẹp tiền của mình và rút ra một tờ mười đô. Anh đưa nó cho người đàn ông cầm hộp giày.

Setrakian trả lại đống đồ cho người đàn ông. "Cầm lấy đi," ông nói. "Không phải bạc thật."

Người đàn ông cảm kích nhận của bố thí và cầm chiếc hộp quay đi. "Chúa phù hộ ông."

Setrakian bước vào cửa hiệu, nói, "Ta sẽ sớm biết điều đó thôi."

Eph nhìn số tiền của mình mất hút xuôi con phố, rồi theo bước Setrakian vào trong.

"Đèn ở ngay trên tường kia." ông nói, rồi kéo khít hai cánh cổng xếp và khóa lại.

Nora bật cùng lúc cả ba công tắc, ánh đèn rọi sáng các tủ kính, các bức tường trưng bày và lối vào nơi họ đang đứng. Đó là một cửa hàng nhỏ nằm ở góc phố, hình chiếc nêm, như thể nó đã được một chiếc búa gỗ đóng vào khe giữa những tòa nhà thành phố. Từ đầu tiên mà Eph nghĩ tới là "tạp nham". Cực, cực nhiều thứ tạp nham. Những hệ thống loa stereo cổ. Những đầu đọc đĩa và các thiết bị điện tử lạc hậu khác. Trên tường trưng bày các loại nhạc cụ, trong số đó có một chiếc đàn banjo, một chiếc Keytar - một loại đàn organ đeo người và choi như ghita - từ thập niên 80. Mấy bức tượng thờ và các bộ sưu tập đĩa. Vài máy quay đĩa cổ và bàn hòa âm nhỏ. Một quầy kính có khóa trưng bày những chiếc trâm rẻ tiền cùng những vật trang sức lấp lánh, kém chất lượng. Có cả những cái giá treo quần áo, hầu hết là áo khoác mùa đông có cổ lông.

Có quá nhiều đồ tạp nham tới mức khiến Eph thất vọng. Phải chăng anh đã tốn thời gian quý báu của mình cho một người điên?

"Này," anh nói với ông lão, "một đồng nghiệp của chúng tôi có lẽ đã bị nhiễm bệnh."

Setrakian chống cây gậy ngoại cỡ bước ngang qua anh. Ông đưa bàn tay đeo găng nâng tấm chắn quầy lên và mòi Eph cùng Nora bước qua. "Ta sẽ lên đây."

Cầu thang phía sau dẫn đến một cánh cửa trên tầng hai. Ông lão chạm vào hộp mezuzah[I] trước khi bước qua cánh cửa, rồi ông đặt cây gậy dựa vào tường. Đó là một căn phòng cũ kĩ, trần nhà thấp, thảm mòn vẹt. Có lẽ đồ đạc ở đây đã chẳng hề được di chuyển ba mươi năm rồi.

"Hai người có đói không?" Setrakian hỏi. "Cứ nhìn quanh đi, thể nào cũng tìm thấy thứ gì đó." Setrakian mở nắp một cái hộp đựng thực phẩm nhiều màu, làm lộ ra một hộp bánh Devil Dog đã mở. Ông lấy ra một chiếc, xé lóp giấy bóng kính. "Đừng để bị đuối nhé. Giữ sức đi, hai người sẽ cần nó đấy."

Ông lão cắn một miếng bánh phủ đầy kem trong lúc đi tới phòng ngủ để thay đồ. Eph nhìn quanh căn bếp nhỏ rồi nhìn Nora. nơi này có mùi khá sạch sẽ dù trông có vẻ lộn xộn. Từ trên mặt chiếc bàn ăn chỉ có một ghế ngồi, Nora cầm lên một bức chân dung đen trắng được đóng khung chụp một phụ nữ trẻ tóc đen óng mặc bộ váy sẫm màu giản dị, đang tạo dáng trên một tảng đá lớn tại một bãi biển không người. Ngón tay cô gái đan vào nhau đặt trên đầu gối trần, vẻ mặt rạng rỡ, nụ cười quyến rũ. Eph quay lại chỗ hành lang họ đi qua ban nãy, ngắm nhìn những chiếc gương cũ kĩ treo trên tường - phải có đến hàng tá, đủ loại kích cỡ khác nhau, nứt nẻ và hằn vết thời gian. Sách cũ chất đống hai bên hành lang, khiến lối đi trở nên chật hẹp hon.

Ông lão trở lại sau khi đã thay sang bộ đồ mới, nhưng cùng loại với bộ cũ: một bộ com lê vải tuýt cũ đi cùng áo gi lê, dây đeo quần, cà vạt và đôi giày da nâu đã được đánh bóng tới mòn cả da. Ông vẫn đeo đôi găng hở ngón trên bàn tay tàn tật của mình.

"Tôi thấy là ông sưu tập gương," Eph nói.

"Một số loại nhất định. Những tấm kính cổ hé lộ cho ta biết nhiều điều."

"Giờ ông đã sẵn sàng kể cho chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra chưa?"

Đầu ông lão hơi nghiêng qua một bên. "Bác sĩ, đây không phải điều có thể đơn giản kể ra là được. Nó là điều cần phải được hé lộ." Ông bước qua Eph, tới cánh cửa nơi họ vừa bước vào. "Xin mòi đi theo tôi."

Eph theo chân ông lão xuống cầu thang, Nora đi phía sau. Họ đi qua cửa hàng cầm đồ ở tầng một, qua một cánh cửa khóa nữa tới một cầu thang xoắn ốc dẫn xuống dưới. Ông lão bước từng bước xuống các bậc thang hình tam giác, bàn tay xương xẩu trượt trên tay vịn cầu thang bằng sắt lạnh lẽo, giọng ông vang khắp lối đi hẹp. "Tôi luôn coi mình là một kho tàng về kiến thức cổ, về những người đã khuất và những cuốn sách bị lãng quên. Kiến thức tích lũy dần qua cả đòi nghiên cứu."

Nora nói, "Khi ông chặn chúng tôi lại bên ngoài nhà xác, ông đã nói một số điều. Ông ám chỉ rằng ông biết các xác chết trên máy bay đã không phân hủy theo cách bình thường."

"Đúng vậy."

"Dựa vào đâu?"

"Kinh nghiệm của tôi."

Nora bối rối. "Kinh nghiệm về những vụ tai nạn máy bay khác?"

"Việc họ có mặt trên máy bay là hoàn toàn tình cờ. Thực ra, trước đây tôi đã từng nhìn thấy hiện tượng này. Ở Budapest, ở Basra. Ở Prague, và ở một nơi cách Paris không quá mười ki lô mét. Tôi đã nhìn thấy nó tại một làng chài nhỏ bên bờ sông Hoàng Hà. Tôi đã nhìn thấy nó tại độ cao hai nghìn mét trên dãy núi Altai ở Mông cổ. Và đúng, tôi cũng đã nhìn thấy nó trên lục địa này. Nhìn thấy những dấu vết của nó. Thường nó bị xem như một loại sán, hoặc được giải thích là bệnh dại hay chứng tâm thần phân liệt, điên loạn, hay gần đây nhất, một vụ giết người hàng loạt..."

"Khoan đã, khoan đã. Ông đã bao giờ tận mắt chứng kiến những cái xác phân hủy chậm chưa?"

"Ở giai đoạn đầu thì có."

Eph nói, "Giai đoạn đầu."

Cầu thang xoắn kết thúc tại một cánh cửa khóa. Setrakian lấy một chiếc chìa khóa, tách biệt với những chìa còn lại, đang treo lủng lẳng trên sọi dây chuyền đeo trên cổ ông. Những ngón tay cong queo của ông lão tra chiếc chìa vào hai cái khóa móc, một to, một nhỏ. Cánh cửa mở vào trong, ánh sáng nóng tự động bật lên, và họ theo chân ông tiến vào một căn hầm sáng và sâu hút.

Thứ đầu tiên đập vào mắt Eph là một bức tường treo toàn đồ giáp chiến đấu, từ bộ giáp kỵ sĩ đến áo giáp lưới sắt, hay những tấm giáp cổ và ngực của Samurai Nhật, cùng những thứ thô sơ hơn được làm từ da bện giúp bảo vệ cổ, ngực và háng. Có cả vũ khí: kiếm và dao được gắn trên tường, lưỡi sáng lạnh. Các thiết bị tân tiến hơn để trên một chiếc bàn thấp cũ kĩ và đang được sạc pin. Anh nhận ra cặp kính hồng ngoại và súng bắn đinh đã được cải tiến. Và lại rất nhiều gương, hầu hết đều cỡ bỏ túi, được bố trí để anh có thể thấy chính mình đang hoang mang nhìn chằm chằm căn phòng trưng bày... trưng bày gì nhỉ?

"Cửa hiệu" - ông lão chỉ tay lên tầng trên - "giúp tôi sống khá dư dả, nhưng tôi không đến với công việc kinh doanh này vì ham mê những chiếc radio bán dẫn hay đồ trang sức gia truyền."

Ông đóng cánh cửa phía sau họ, những ánh đèn bao quanh khung cửa vụt tắt. Những bóng đèn cố định chạy theo chiều dọc và chiều dài của khung cửa - những bóng tuýp màu đỏ tía mà Eph nhận ra là đèn cực tím - được bố trí xung quanh cánh cửa như một trường lực ánh sáng.

Để ngăn chặn vi khuẩn xầm nhập vào phòng chăng? Hay để phòng chống một thứ gì đó?

"Không," ông lão tiếp tục. "lý do tôi chọn công việc này là bởi nó cho phép tôi tiếp cận một chợ đen buôn bán những vật phẩm bí truyền, cổ vật hay sách quý. Đồ lậu, nhưng không hẳn là bất họp pháp. Tôi kiếm chúng cho bộ sưu tập cá nhân và các nghiên cứu của mình."

Eph nhìn xung quanh một lần nữa. Căn phòng này trông giống một kho chứa vũ khí nhỏ hơn là một bộ sưu tập đồ cổ. "Nghiên cứu của ông ư?"

"Đúng vậy. Tôi đã nhiều năm làm giáo sư Văn học và Văn hóa dân gian Đông Âu tại Đại học Vienna."

Eph đánh giá ông lão một lần nữa. Đúng là ông có cách ăn mặc như một giáo sư Vienna. "Và ông nghỉ hưu để trơ thành chủ hiệu cầm đồ ở Harlem ư?"

"Tôi không nghỉ hưu. Tôi bị ép nghỉ việc. Bị ruồng bỏ. Một vài thế lực đã chống lại tôi. Tuy nhiên, ngẫm lại, việc ẩn lánh đi khi đó gần như đã cứu sống tôi. Thực ra đó là điều tốt nhất tôi có thể làm." Ông quay mặt về phía họ, đan tay sau lưng, và nói. "Tai họa mà chúng ta đang chứng kiến giai đoạn đầu này đã tồn tại hàng thế kỷ. Hàng thiên niên kỷ. Mặc dù chưa thể chứng minh nhưng tôi ngờ rằng nó đã có từ thời cổ xưa nhất."

Eph gật đầu, không hiểu rõ ý ông, chỉ lấy làm mừng vì cuối cùng mọi sự đã có tiến triển. "Nghĩa là ta đang nói về một loại vi rút."

"Đúng vậy. Kiểu như thế. Một loại bệnh gây tổn hại cả về thể xác lẫn tinh thần." Ông lão đang đứng ở một vị trí mà, từ góc nhìn của Eph và Nora, các thanh kiếm được sắp xếp trên tường xòe ra hai bên người ông như đôi cánh bằng thép lá. "Vậy thì, một loại vi rút? Ehing. Nhưng giờ tôi cũng muốn giới thiệu với hai người một từ khác."

"Là gì vậy?" Eph hỏi.

"Ma cà rồng."

Một từ như vậy, được nói ra bằng giọng nghiêm túc, đọng lại trong không gian một lúc lâu.

"Hai người," giáo sư Setrakian nói, "hẳn đang nghĩ tới một vai diễn cường điệu u ám với chiếc áo choàng lụa đen. Hay một nhân vật đầy quyền năng và tốc độ, với những chiếc răng nanh bị giấu đi. Hay một linh hồn sống nào đó mang gánh nặng của lời nguyền bất tử. Hay... Bela Lugosi gặp Abbott và Costello*[II]’." Nora nhìn quanh căn phòng lần nữa. "Tôi chẳng hề thấy thánh giá hay nước thánh. Cũng không có vòng tỏi."

"Tỏi có một số thành phần miễn dịch đáng quan tâm, và trong vài trường họp nó có thể hữu ích. Vì vậy, sự xuất hiện của nó trong các câu chuyện thần thoại là dễ hiểu về mặt sinh học, theo một mức độ nào đó. Nhưng thánh giá và nước thánh ư?" Ông nhún vai. "Sản phẩm của một thời đã qua. Sản phẩm từ trí tưỏng tượng bị kích động của một tác giả Ai Len thời Victoria, và từ bối cảnh tôn giáo thời đó."

Setrakian đã đoán trước sự nghi ngờ của họ.

"Chúng vẫn luôn tồn tại." ông nói tiếp. "Ấn mình, kiếm ăn. Trong bí mật và bóng tối, bởi vì đó là bản chất của chúng. Có bảy con đầu tiên, đưọc gọi là những Ma cà rồng cổ Đại. Các Chúa Tể. Không phải mỗi con một châu lục. Chúng không sống độc lập mà sống theo nhóm. Mãi tới gần đây - 'gần đây' đối với vòng đòi bất tử của chúng - chúng tản đi khắp các vùng lãnh thổ rộng lớn nhất, như ngày nay ta biết là châu Âu và châu Á, Liên bang Nga, bán đảo Ả Rập, và lục địa châu Phi. Nói cách khác là Cựu Thế giới. Có một sự chia cắt, một cuộc xung đột trong loài của chúng. Bản chất của sự bất đồng này thì tôi không rõ là gì. Chỉ biết rằng, cuộc xung đột này xảy ra trước khi ta khám phá ra Tân Thế giới hàng thế kỷ. Sau đó, việc thành lập các thuộc địa ở châu Mỹ đã mở ra một vùng đất mới màu mỡ. Ba con ở lại Cựu Thế giới, còn ba con tới Tân Thế giới. Cả hai phía đều tôn trọng vùng lãnh thổ của nhóm còn lại, và hòa ước được chấp thuận và duy trì.

"Vấn đề nằm ở con Cổ Đại thứ bảy. Nó là kẻ xảo quyệt đã quay lưng lại với cả hai phe. Mặc dù hiện tại, tôi không thể chứng minh được điều đó, nhưng tính bất ngờ của hành động này khiến tôi tin nó là kẻ đứng đằng sau mọi chuyện."

"Chuyện này," Nora nói.

"Chuyện xâm phạm vào Tân Thế giới này. Phá vỡ thỏa thuận linh thiêng. Chuyện này làm mất cân bằng sụ tồn tại loài của chúng. Một hành động, về cơ bản, khơi mào chiến tranh."

Eph nói, "Một cuộc chiến của ma cà rồng ư."

Setrakian mỉm cười một mình. "Anh đon giản hóa chuyện này vì anh không thể tin. Anh giảm bớt, giản luọc nó đi. Bởi anh được dạy cần phải nghi ngờ và lật tẩy. Phải giản lược vấn đề tới mức thành những gì đã biết để dễ hiểu. Vì anh là bác sĩ, con người khoa học, và vì đây là nước Mỹ - nơi mọi thứ đều được biết được hiểu, và Chúa là một đấng tối cao nhân từ, còn tương lai thì phải luôn tươi sáng." Ông siết chặt đôi bàn tay xương xẩu, gồng hết sức, chạm những đầu ngón tay trần lên môi trong một phút trầm ngâm. "Đó là tinh thần ở nơi này, và nó thật tuyệt vòi. Thật đấy, tôi không có ý châm chọc đâu. Thật tuyệt khi chỉ tin vào những gì mình muốn tin, và bỏ qua tất thảy những thứ khác. Tôi tôn trọng sự hoài nghi của anh, bác sĩ Goodweather. Và tôi nói thế này với hy vọng rằng anh, đổi lại, sẽ tôn trọng kinh nghiệm của tôi trong lĩnh vực này, và cho phép những quan sát của tôi được tiếp cận với tư duy vô cùng văn minh và khoa học của anh."

Eph nói, "Vậy ý ông là, cái máy bay... một trong số chúng đã có mặt trên đó. Gã ma cà rồng này."

"Chính xác."

"Trong quan tài. Trong khoang chứa hàng."

"Một quan tài đầy đất. Chúng là những sinh vật của lòng đất, và muốn trở về nơi chúng được sinh ra. Giống như giun. Sâu bọ. Chúng đào hang làm tổ. Ta có thể gọi đó là ngủ."

"Tránh khỏi ánh sáng ban ngày," Nora nói.

"Khỏi ánh sáng mặt trời, đúng vậy. Đó là thời gian chúng dễ bị tổn thương nhất."

"Nhưng ông nói đây là một cuộc chiến của ma cà rồng. Không phải ma cà rồng chống lại con người à? Tất cả những hành khách đã chết đó."

"Đây cũng là điều hai người khó có thể chấp nhận được. Nhưng với bọn chúng, ta không phải là kẻ thù. Ta không đáng là kẻ thù của bọn chúng. Trong mắt chúng, ta thậm chí chưa đạt tới tầm đó. Đối với bọn chúng, ta là những con mồi. Chúng ta như thức ăn và nước uống. Như bầy thú trong chuồng. Như chai lọ trên kệ."

Eph rùng mình, nhưng nhanh chóng rũ bỏ phản ứng run rẩy đó. "Đối với nhiều người, chuyện này nghe quá giống khoa học giả tưởng."

Setrakian chỉ về phía anh. "Cái thiết bị trong túi quần anh. Điện thoại di động của anh. Anh bấm vài con số, và lập tức anh đưọc trò chuyện với một người khác ở bên kia bán cầu. Đó là khoa học giả tưởng, bác sĩ Goodweather ạ. Khoa học giả tưỏng trở thành sự thật." Đến đây Setrakian mùn cười. "Anh có cần chứng minh không?"

Setrakian tới chỗ một ghế băng thấp sát bức tường dài. Trên ghế có thứ gì đó phủ tấm lụa đen, và ông với lấy nó theo một cách lạ lùng, vươn dài cánh tay, nhón lấy mép vải gần nhất trong khi giữ cơ thể mình càng xa càng tốt, rồi ông kéo tấm vải che ra.

Một bình thủy tinh. Thường dùng để đựng mẫu xét nghiệm, có thể mua tại bất cứ hiệu thuốc nào.

Bên trong, lơ lửng trong một loại dung dịch đục ngầu, là một quả tim người được bảo quản cẩn thận.

Từ cách khoảng một mét, Eph cúi người xem xét. "Tim của một phụ nữ, căn cứ theo kích cỡ của nó. Khỏe mạnh. Và khá trẻ. Một mẫu vật còn mới." Anh quay lại nhìn Setrakian. "Ông đã lấy nó ở đâu?"

"Tôi cắt nó ra từ ngực một góa phụ trẻ trong một ngôi làng ngoài Shkodêr, miền Bắc Albania, vào mùa xuân năm 1971."

Eph mủn cười trước câu chuyện kỳ lạ của ông lão, rồi cúi sát để nhìn kỹ chiếc bình hon.

Một thứ gì đó trông như xúc tu vọt ra khỏi quả tim, một đầu mút của nó bám vào thành thủy tinh Eph đang ghé mắt vào.

Anh vội thẳng người lên. Anh đứng chết trân, nhìn chằm chằm chiếc bình.

Nora, bên cạnh anh, nói, "ùm... cái quái gì thế?"

Quả tim bắt đầu chuyển động trong dung dịch huyết thanh.

Nó đang đập.

Thình thịch.

Anh quan sát giác mút xúc tu bẹt, trông như cái miệng, đang kỳ cọ thành thủy tinh. Anh nhìn Nora, đứng ngay cạnh anh, cô cũng đang nhìn chằm chằm vào quả tim. Rồi anh nhìn Setrakian, ông vẫn không hề nhúc nhích, tay đút túi.

Setrakian nói, "Nó hoạt động bất cứ khi nào có máu người ở gần."

Eph trọn mắt, không thể tin nổi. Anh nhích lại gần hon, lần này sang phía bên phải của đầu giác mút tái nhợt ấy. Xúc tu tách khỏi bề mặt thủy tinh, rồi đột ngột xông về phía anh một lần nữa.

"Lạy Chúa!" Eph kêu lên. Cái cơ quan đang đập thình thịch đó trôi nổi trong dung dịch như một con cá đột biến lớn. "Nó sống mà không có..." Không có nguồn cung cấp máu. Anh nhìn vào những tĩnh mạch, động mạch chủ và tĩnh mạch chủ đã bị cắt đứt của nó.

Setrakian nói, "Nó không sống hay chết. Nó hoạt động. Anh có thể nói rằng nó bị ám, nhưng theo nghía đen. Nhìn kỹ lại đi, anh sẽ thấy."

Eph quan sát nhịp đập của nó, nhịp đập bất thường, hoàn toàn không giống nhịp tim bình thường. Anh thấy thứ gì đó đang di chuyển bên trong. Ngoằn ngoèo.

"Một... con giun?" Nora hỏi.

Một con giun nhỏ, màu hồng tái, dài từ năm đến tám phân. Họ quan sát nó di chuyển loanh quanh trong quả tim, trông như thể một lính gác đơn độc đang nghiêm túc đi tuần trong một căn cứ đã bị bỏ hoang từ lâu.

"Một con giun hút máu," Setrakian nói. "Một loại ký sinh mao dẫn sinh trưởng trong các cơ thể bị nhiễm. Dù không có bất cứ bằng chúng nào, tôi ngờ rằng nó chính là con đường lây lan vi rút. Là vật chủ trung gian đích thực."

Eph lắc đầu hoài nghi. "Còn... còn xúc tu này?"

"Vi rút này sao chép hình dạng vật chủ, rồi tự cấu tạo hệ sinh học của riêng nó để có thể sinh tồn một cách tốt nhất. Nói cách khác, nó xâm chiếm và thích nghi với vật chủ để sống sót. Và trong trường họp này, vật chủ chính là cơ quan đã bị tách ra đang trôi nổi trong bình kia, vi rút này tìm cách tự tiến hóa cơ chế sinh học của nó để nhận chất dinh dưỡng."

Nora nói, "Chất dinh dưỡng ư?"

"Loài giun này sống bằng máu. Máu người."

"Máu?" Eph liếc nhìn quả tim bị chiếm hữu. "Của ai?"

Setrakian rút bàn tay trái khỏi túi quần. Những đầu ngón tay nhăn nheo lộ ra ở đầu găng. Đầu ngón giữa của ông có sẹo, mất hẳn vân.

"Một vài giọt đủ cho vài ngày. Nó đang đói đấy. Tôi đã vắng nhà khá lâu."

Ông bước tới bên chiếc ghế băng và mở nắp bình - Eph lùi lại để quan sát - và, bằng một mũi dao nhỏ móc trong chùm chìa khóa của mình, ông chích đầu ngón tay đang giơ trên chiếc lọ. Ông không chút do dự, nó hẳn đã trở thành một thói quen khiến ông chẳng còn thấy đau nữa.

Máu của ông nhỏ vào dung dịch huyết thanh.

Xúc tu hút những giọt máu đỏ bằng đầu mút của mình, trông như một con cá đang đói.

Xong việc, ông lão lấy ít băng dán dạng lỏng từ một lọ nhỏ trên chiếc ghế và chấm lên đầu ngón tay, rồi đậy nắp bình huyết thanh.

Eph quan sát sinh vật kia chuyển thành màu đỏ. Con giun bên trong quả tim di chuyển linh hoạt hơn, khỏe hơn. "Ông nói rằng, ông đã giữ thứ này tại đây kể từ...?"

"Kể từ mùa xuân năm 1971. Tôi không hay đi nghỉ..." Ông mỉm cười sau câu đùa vặt vãnh của mình, nhìn ngón tay vừa bị chích, xoa xoa đầu ngón tay đã khô máu. "Cô ấy là một người chết sống dậy, một người bị nhiễm. Người đã bị biến đổi. Những con Cổ Đại, luôn muốn ẩn mình, sẽ lập tức giết chết kẻ chúng hút máu, để ngăn chặn mọi sự lây lan vi rút của chúng. Bằng cách nào đó, một kẻ đã thoát được, trở về nhà để lây nhiễm cho người thân, bạn bè, hàng xóm, đào bói trong ngôi làng nhỏ đó. Quả tim của người góa phụ này đã duy trì được bốn tiếng trước khi tôi tìm thấy cô ấy."

"Bốn tiếng ư? Làm sao ông biết?"

"Tôi thấy dấu hiệu. Dấu hiệu Strigoi."

Eph nói, "Strigoi?"

"Cách gọi ma cà rồng của Cựu Thế giới."

"Còn dấu hiệu đó?"

"Điểm thâm nhập. Một vết xước mỏng ngang cổ họng, mà tôi đoán là bây giờ hai người đã thấy rồi."

Eph và Nora gật đầu. Nghĩ về Jim.

Setrakian bổ sung, "Phải nói rằng, tôi không phải kẻ quen thói cắt tim người chết. Đó là một công việc dơ bẩn tôi tình cờ gặp phải. Nhưng nó hoàn toàn cần thiết."

Nora nói, "Vậy là ông đã để nó sống tiếp từ đó đến giờ, cho nó ăn như một... một thú cưng?"

"Đúng vậy." Ông nhìn xuống chiếc bình, gần như trìu mến. "Nó như một lời nhắc nhở hằng ngày, về thứ tôi đang đối đầu. Thứ mà giờ đây ta đang đối đầu."

Eph kinh ngạc. "Trong suốt thời gian qua... sao ông không chỉ cho ai thấy thứ này? Một trường y chẳng hạn. Hay chương trình thời sự buổi tối?"

"Nếu dễ dàng như vậy, bác sĩ à, thì bí mật này đã được biết đến từ nhiều năm trước rồi. Có nhiều thế lực liên kết chống lại chúng tà. Đây là một bí mật cổ xưa, và nó cắm rất sâu. Động chạm tới nhiều thứ. Sự thật sẽ không bao giờ đến được với số đông, mà sẽ bị chôn vùi, cả tôi cũng bị chôn theo nữa. Đó là lý do tôi lẩn trốn tại đây - tránh sự chú ý - suốt bao năm nay. Chờ đợi."

Cuộc trò chuyện này khiến Eph dựng tóc gáy. Sự thật đang hiện diện ở đó, ngay trước mắt anh: quả tun người trong một chiếc bình, bên trong có một con giun thèm khát máu của ông lão.

"Tôi không giỏi giữ những bí mật có thể gây nguy hại cho tương lai loài người. Không ai khác biết về chuyện này sao?"

"Ô, có người biết chứ. Có đấy. Một kẻ quyền lực. Chúa Tể - hắn không thể di chuyển nếu không được hỗ trợ. Một liên minh con người chắc hẳn đã tìm cách bảo vệ và giúp đỡ hắn di chuyển. Hai người biết đấy - ma cà rồng không thể tự mình vượt đại dương,, trừ phi chúng được một con người hỗ trợ. Một con người mòi chung vào. Và giờ đây, thỏa thuận - hòa ước - đã bị phá vỡ. Bởi một liên minh giữa Strigoi và con người. Đó là lý do tại sao cuộc tấn công này ghê rạn đến vậy. Và đáng sợ tột cùng đến vậy."

Nora quay sang Setrakian. "Chúng ta còn bao nhiêu thời gian?"

Ông lão đã nhẩm tính từ trước. "Sẽ mất chưa đến một tuần để hắn xử gọn cả Manhattan, và chưa đầy một tháng để chiếm xong cả nước. Trong vòng hai tháng - cả thế giới."

"Không đòi nào," Eph nói. "Sẽ không có chuyện đó đâu."

"Tôi ngưỡng mộ thái độ quả quyết của anh," Setrakian nói. "Nhưng anh vẫn chưa hiểu rõ mình đang đối đầu với cái gì đâu."

"Được thôi," Eph nói. "Vậy hãy cho tồi biết - chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?"

Công viên Place, Tribeca

VASILIY FET đỗ chiếc xe tải biển đăng ký thành phố bên ngoài một tòa chung cư tại khu trung tâm Manhattan. Nhìn bề ngoài, nó có vẻ không giống một tòa chung cư cho lắm, nhưng nó có mái hiên và người gác cửa, và dù gì thì đây cũng là Tribeca. Hẳn anh đã kiểm tra lại địa chỉ nếu như không có chiếc xe tải của Sở Y tế đậu trái phép phía trước, đèn báo hiệu màu vàng đang quay tròn. Trớ trêu thay, tại hầu hết các tòa nhà và căn hộ trong gần như toàn thành phố, những kẻ tiêu diệt động vật gây hại luôn được chào đón nồng nhiệt, y như cảnh sát tới hiện trường vụ án. Nhưng Vasiliy tin rằng nơi này không như vậy.

Chiếc xe tải của anh có ghi dòng chữ BPCS-CNY, viết tắt của Bureau of Pest Control Services, City of New York (Cục Kiểm soát Động vật Gây Hại, Thành phố New York). Thanh tra Sở Y tế, Bill Furber, gặp anh tại cầu thang bên trong. Billy có bộ ria mép vàng bẻ cong xuống cứ nhấp nhô theo cơ mặt do ông ta liên tục nhai kẹo cao su thay cho nicotin. "Vaz," ông ta gọi anh, bằng tên gọi tắt thay cho Vasya, một dạng nói tắt quen thuộc của tên anh trong tiếng Nga. Vaz, hay chỉ đon giản là V, theo cách người khác vẫn thường gọi anh, là một người Mỹ gốc Nga thế hệ hai, chất giọng cục cằn đặc sệt Brooklyn. Anh là người to lớn, choán gần hết chỗ trên bậc cầu thang.

Billy vỗ cánh tay anh, cảm ơn anh vì đã tói. "Cháu gái của em họ tôi ở đây, bị cắn vào miệng. Tôi biết - tòa nhà này chẳng phải kiểu của tôi, nhưng tôi có thể làm gì chứ, chúng cưới nhau và được thừa hưởng bất động sẩn. Chỉ nói để anh biết thôi - gia đình là thế mà. Tôi đã bảo với họ rằng tôi sẽ tìm về một gã diệt chuột giỏi nhất khắp năm quận."

Vasiliy gật đầu, thầm tự hào theo cái cách đặc trưng của những gã diệt động vật gây hại. Một người diệt động vật gây hại luôn thành công thầm lặng. Thành công ở đây nghĩa là không để lại một dấu hiệu nào của thành công, không một dấu vết cho thấy vấn đề từng phát sinh, cho thấy một con vật gây hại từng tồn tại hay một cái bẫy từng được đặt. Nó có nghĩa là giữ gìn trật tự.

Anh kéo theo một cái hòm có bánh xe giống như một bộ dụng cụ của thợ sửa máy tính. Phía bên trong gác xép mở vào những trần nhà cao, cùng nhũng căn phòng rộng, một căn hộ một trăm bảy mươi mét vuông dễ phải đáng giá ba triệu đô trên thị trường bất động sản New York. Ngồi trên chiếc sofa lùn, vững chãi màu cam bóng rổ bên trong một căn phòng lát kính, gỗ tếch và crôm đầy đồ công nghệ cao là một cô bé đang ôm chặt con búp bê bên cạnh người mẹ. Một băng y tế lớn dán trên môi trên và má con bé. Người mẹ cắt tóc ngắn tới tận da đầu, đeo kính gọng chữ nhật nhỏ và mặc váy len xanh lá dài tới đầu gối. Đối với Vasiliy, cô ta y như một lữ khách đến từ một tương lai rất mốt và lưỡng tính vậy. Con bé còn nhỏ, chỉ khoảng năm sáu tuổi, vẫn rất sợ hãi. Vasiliy đáng lẽ đã cố mỉm cười, nhưng khuôn mặt anh thuộc dạng hiếm khi có thể trấn tĩnh được trẻ con. Anh có quai hàm trông như mặt đế phẳng lì của lưỡi rìu, hai mắt cách xa nhau.

Một tí vi màn hình phẳng treo trên tường trông như một bức tranh lớn được đóng khung kính. Trên màn hình, ngài thị trưởng đang nói vào một bó micro. Ông ta đang cố gắng trả lời các câu hỏi về vụ mất tích của những xác chết trên máy bay, những xác chết đã biến mất khỏi nhà xác trong thành phố. Lực lượng cảnh sát New York đang đề cao cảnh giác, và chủ động dừng mọi xe tải đông lạnh tại các cầu và đường hầm. Một đường dây điện thoại phục vụ thông tin cảnh báo khủng bố đã được thiết lập. Gia đình các nạn nhân phẫn nộ, các đám tang phải hoãn lại.

Bill dẫn Vasiliy tới phòng ngủ của bé gái. Một chiếc giường chăng rèm, một ti vi nhãn hiệu Bratz khảm ngọc cùng một máy tính xách tay đồng bộ, và một con ngựa bông máy màu bơ đường trong góc phòng. Mắt Vasiliy ngay lập tức hướng tới một gói thức ăn gần giường. Bên trong là bánh nướng cùng bơ đậu phông. Cũng là món khoái khẩu của anh.

"Lúc đó con bé đang chop mắt ở đây," Billy nói. "Nó thức giấc do cảm thấy có gì đó đang gặm môi nó. Thứ đó ở trên gối của con bé, Vaz à. Một con chuột trên giường con bé. Có khi cả tháng tới nó không dám ngủ nữa. Anh gặp vụ này lần nào chưa?"

Vasiliy lắc đầu. Chuột ở khắp trong và ngoài mọi tòa nhà tại Manhattan - bất kể chủ nhà nói hay người thuê nghĩ gì - nhưng chúng không thích để lộ mình, đặc biệt là ngay giữa ban ngày. Những vụ chuột tấn công thường liên quan tới trẻ em, chủ yếu là quanh vùng miệng, bởi đó là nơi phát ra mùi thức ăn. Loài chuột Na Uy - Rattus norvegicus, chuột thành phố - có giác quan nhận biết mùi vị cực nhạy. Răng cửa trước của nó dài và sắc, khỏe hơn cả nhôm, đồng, chì hay sắt. Chuột gặm là nguyên nhân của một phần tư những vụ đứt dây cáp điện trong thành phố, và là thủ phạm đáng nghi của từng ấy phần trăm những vụ cháy không rõ nguyên do. Độ Cling của răng chúng có thể sánh ngang thép, và cấu trúc hàm giống cá sấu của chúng tạo nên áp lực cắn hàng trăm tới hàng ngàn ki lô gam. Chúng có thể gặm xi măng và thậm chí là đá.

Vasiliy nói, "Thế con bé có tận mắt nhìn thấy con chuột không?"

"Con bé chẳng biết thứ đó là gì. Nó la hét vụt đập, và thứ đó chạy mất. Phòng cấp cứu bảo đó là chuột."

Vasiliy tới chỗ cánh cửa sổ đang mở vài phân để gió lùa vào. Anh mở cửa rộng hơn và nhìn xuống một ngõ hẹp lát sỏi cách đó ba tầng. Lối thoát cứu hỏa cách cửa sổ ba bốn mét, nhung lóp ốp gạch cũ hàng thế kỷ thì gồ ghề và lỏm chỏm. Mọi người cứ nghĩ lũ chuột béo và đi ục ịch, nhung thực chất chúng di chuyển với tốc độ nhanh nhu sóc. Nhất là khi chúng bị kích thích bởi thức ăn hay sợ hãi.

Vasiliy đẩy giường của cô bé ra khỏi tường và tháo chăn ga đệm. Anh di chuyển ngôi nhà búp bê, bàn giấy và giá sách để xem xét phía sau, nhưng anh không hề hy vọng con chuột vẫn còn trong phòng ngủ này. Anh chỉ đang loại trừ khả năng hiển nhiên đó.

Anh bước ra hành lang, kéo theo cái hòm gắn bánh xe trên mặt sàn gỗ nhẵn nhụi son bóng loáng. Lũ chuột có thị giác rất kém, chúng di chuyển chủ yếu bằng cảm giác. Chúng di chuyển nhanh do thói quen, theo những lối đi đã mòn vết chân chúng dọc các bức tường thấp. Chúng thường không bỏ xa tổ quá mười tám mét. Chúng không tin tưởng những khung cảnh thiếu quen thuộc. Con chuột này hẳn đã tìm ra cánh cửa và rẽ vào góc, men sát bức tường phía bên phải, bộ lông thô cứng của nó lướt trên sàn. Cánh cửa mở tiếp theo dẫn vào phòng tắm riêng của bé gái, đưọc trang trí bằng một thảm phòng tắm hình dâu tây, một rèm bồn tắm màu hồng nhạt và một sọt đựng sữa tắm tạo bọt cùng đồ choi. Vasiliy lướt mắt khắp phòng, tìm kiếm những nơi có thể ẩn nấp, rồi hít ngửi không khí. Anh gật đầu ra hiệu với Billy, và ông ta đóng cửa lại.

Billy nấn ná một phút, nghe ngóng, rồi quyết định quay trở lại trấn an người mẹ. Ông ta đã gần tới nơi thì chợt nghe thấy, từ phòng tắm trên hành lang đó, một tiếng RẦM! rất lớn - âm thanh chai lọ roi vào bồn tắm - và một tiếng làu bàu to, rồi giọng Vasiliy, trở nên dữ tợn, phim ra những lời chửi rủa bằng tiếng Nga.

Bà mẹ và đứa con có vẻ kinh hãi. Billy giơ tay ra dấu cho họ bình tĩnh - ông ta đã vô tình nuốt mất miếng kẹo cao su - rồi vội chạy trở lại hành lang.

Vasiliy mở cửa phòng tắm. Anh đang đeo đôi găng đánh bẫy Kevlar dài tay và cầm một cái bao lớn. Thứ gì đó bên trong bao đang quằn quại cào xé. Và nó rất lớn.

Vasiliy gật đầu trao cái bao cho Billy.

Billy chẳng thể làm gì khác ngoài nhận lấy nó, bằng không cái bao sẽ roi xuống và con chuột sẽ trốn thoát. Ông ta hy vọng lóp vải chắc chắn như vẻ bề ngoài, con chuột lớn đang vùng vẫy vật lộn bên trong. Billy vươn thẳng tay để đưa cái bao tránh xa hết mức dù vẫn giữ con chuột đang vùng vằng trên cao. Trong khi đó, Vasiliy điềm tĩnh - nhưng chậm rãi quá mức - mở cái hòm của mình. Anh lấy ra một bọc kín, một miếng xốp tẩm sẵn thuốc mê. Vasiliy lấy lại cái bao, và Billy sung sướng vô cùng khi thoát khỏi nó. Anh mở miệng bao chỉ vừa đủ lâu để cho thuốc mê vào, sau đó đóng nó lại. Ban đầu, con chuột vẫn vật lộn dữ dội. Và rồi nó chậm dần lại. Vasiliy lắc cái bao để quá trình này diễn ra nhanh hơn.

Anh đợi thêm một lúc sau khi con chuột ngừng vùng vẫy, rồi mở bao và đút tay vào trong, kéo đuôi nó ra trước tiên. Nó đã được làm cho hết hung hăng, nhưng không bất tỉnh, đôi bàn chân trước màu hồng của nó vẫn cào móng trong không trung, hàm vẫn đóp, và đôi mắt đen bóng loáng của nó mở to. Con này tương đối to, thân dài khoảng hai mươi phân, thêm cái đuôi là hai mươi phân nữa. Lóp lông cứng thân trên màu đen, thân dưới màu trắng. Chẳng thể là vật nuôi bỏ trốn của ai đó, nó là một con chuột hoang thành phố.

Billy lùi lại mấy bước. Ông ta từng trông thấy rất nhiều chuột, nhưng chẳng thể nào quen được với chúng. Vasiliy thì dường như không thấy có vấn đề gì.

"Nó đang có bầu," Vasiliy nói. "Loài chuột chỉ mang thai trong vòng hai mươi mốt ngày và có thể đẻ một lứa tới hai mươi con. Một con chuột cái khỏe mạnh có thể đẻ hai trăm năm mươi con mỗi năm - một nửa trong lứa đó lại là những con cái nữa sẵn sàng giao phối. "Muốn tôi lấy máu nó khám nghiệm không?"

Billy lắc đầu, tỏ thái độ kinh tởm như thể Vasiliy đang hỏi liệu ông ta có muốn ăn thịt nó không vậy. "Con bé đã được tiêm tại bệnh viện rồi. Nhìn kích cỡ của nó kìa, Vaz. Chúa ơi. Ý tôi là, đây không phải" - Billy hạ giọng - "đây không phải một nhà tập thể nào đó ở Bushwick, anh hiểu ý tôi không?"

Thực tình Vasiliy hiểu ý ông ta. Hiểu ngầm. Hồi mới đến đây, cha mẹ của Vasiliy từng định cư ở Bushwick. Bushwick đã từng chứng kiến nhiều làn sóng di dân kể từ giữa thập niên 1800: người Đức, Anh, Ai Len, Nga, Ba Lan, Ý, người Mỹ gốc Phi, Puerto Rico. Giờ thì tới người Dominica, Guyana, Jamaica, Ecuador, Ân Độ, Triều Tiên, Đông Nam A. Vasiliy đã dành rất nhiều thời gian ở những vùng nghèo nhất New York. Anh biết có những gia đình phải sử dụng đến đệm ghế, sách và các vật dụng trong nhà để dựng tường che chắn phần căn hộ của họ mỗi đêm, cố gắng ngăn lũ chuột xâm nhập.

Nhưng vụ tấn công này quả thực khác thường. Giữa ban ngày. Liều lĩnh. Thông thường chỉ những con chuột yếu nhất, buộc phải ra khỏi bầy đàn, mới ló mặt để tìm kiếm thức ăn. Nhưng đây là một con chuột cái khỏe mạnh. Vô cùng bất thường. Chuột cùng tồn tại trong thế cân bằng mong manh với con người, chúng khai thác những kẽ hở của thế giới văn minh, sống nhờ chất thải và đồ thừa của loài lớn hon, và luôn ẩn mình, đằng sau những bức tường hoặc bên dưới những mặt sàn. Sự xuất hiện của một con chuột tượng trưng cho nỗi lo lắng và sợ hãi của con người. Bất kỳ sự xâm phạm nào vượt ra khỏi thói quen kiếm ăn ban đêm thông thường của chứng đều cho thấy một sự thay đổi trong môi trường. Cũng như con người, chuột không thích chấp nhận rủi ro vô ích: chúng hẳn đã bị bắt buộc phải làm vậy từ dưới lòng đất.

"Muốn tôi chải lông tìm bọ chét không?"

"Chúa ơi, không. Cứ gói vào và tống khứ nó đi. Dù làm gì đi nữa cũng đừng để con bé nhìn thấy. Con bé đã hoảng loạn đủ rồi."

Vasiliy lấy từ bộ đồ nghề ra một túi nhựa lớn rồi gói con chuột chung với một miếng xốp tẩm thuốc mê nữa, lần này là một liều đủ để giết chết nó. Anh nhét cái túi vào trong bao để giấu bằng chứng, rồi tiếp tục công việc của mình, bắt đầu từ nhà bếp. Anh dịch chuyển cái lò nướng tám bếp nặng trịch và máy rửa bát. Anh kiểm tra các lỗ cống dưới bồn rửa. Anh không hề thấy phân chuột hay vết hang đào bói, nhưng anh vẫn rắc một ít bả, bởi dù sao cũng đã đến đây rồi. Anh làm vậy nhưng không hề thông báo cho chủ nhà. Mọi người đều lo lắng về chất độc, đặc biệt là các bậc cha mẹ, nhưng sự thực là bả chuột rải khắp mọi tòa nhà và đường phố Manhattan. Nếu bắt gặp bất cứ thứ gì giống như kẹo quả mọng Pop Rocks xanh dương hay hạt thức ăn màu xanh lá, ta có thể hiểu rằng chuột đã từng xuất hiện gần đó.

Billy theo sau anh xuống tầng hầm. nơi này gọn gàng và ngăn nắp, chẳng hề có dấu hiệu của đồ bỏ hay rác mềm để làm tổ. Vasiliy nhìn quanh gian phòng, đánh hơi mùi phân chuột. Anh có cái mũi rất nhạy mùi chuột, cũng như chuột có mũi rất nhạy mùi người. Anh tắt đèn, dù cho Bill có cảm thấy khó chịu đi nữa, rồi bật chiếc đèn pin gài trên thắt lưng của bộ áo liền quần xanh nhạt, nó phát ra ánh sáng tím thay vì ánh sáng trắng. Nước tiểu của loài gặm nhấm sẽ hiện màu sáng tun dưới ánh đèn tử ngoại, nhưng tại đây anh không thấy bất cứ gì. Anh thả bả chuột vào những chỗ có rãnh rồi đặt những bẫy nhỏ loại "nhà trọ" ở các góc, chỉ để đề phòng, rồi theo Billy trở lại sảnh.

Billy cảm on Vasiliy, tỏ lòng cảm kích, rồi họ chia tay tại cửa. Dù vậy, Vasiliy vẫn thấy bối rối, và, sau khi đặt bộ dụng cụ của mình cùng con chuột chết trở lại sau xe tải, anh châm một điếu Corona Dominican rồi bắt đầu rảo bước. Anh đi dọc phố và rẽ vào một ngõ hẹp lát đá mà anh đã nhìn xuống qua cửa sổ phòng bé gái. Tribeca là khu vực duy nhất tại Manhattan vẫn còn có ngõ hẻm.

Chỉ mới được vài bước, Vasiliy đã thấy con chuột đầu tiên. Nó đi dọc theo rìa tòa nhà, thận trọng ngó quanh. Và rồi anh thấy một con nữa trên cành một cây nhỏ chật vật mọc bên một bức tường gạch thấp. Và con thứ ba, ngồi trong một máng nước bằng đá, đang uống dòng nước nâu chảy từ một nguồn rác thải hay nước cống đâu đó.

Trong lúc anh đứng quan sát, bọn chuột bắt đầu xuất hiện trên con đường lát đá. Nói cho đúng ra là chúng cào bò lên từ kẽ giữa những hòn đá mòn, chui lên từ lòng đất. Chuột là loài có khung xương đàn hồi, cho phép chúng len qua những lỗ không lớn hơn hộp sọ của chúng, rộng khoảng hai phân. Chúng chui lên qua khe hở hai, ba con cùng lúc, rồi nhanh chóng phân tán. Vasiliy ước lượng lũ chuột này dài khoảng từ hai mươi tới hai lăm phân, và dài gấp đôi nếu tính cả đuôi. Nói cách khác, chúng là chuột trưởng thành.

Hai túi rác gần anh đang phập phồng, những con chuột đang gặm sâu vào bên trong đó. Một con chuột nhỏ đang cố chạy vọt qua anh tới một thùng rác, và Vasiliy giơ ủng đá con vật gặm nhấm này bay ra sau năm mét. Nó roi xuống giữa hẻm, bất động. Chỉ trong vòng vài giây, những con chuột khác lao vào nó với vẻ háu đói, răng cửa vàng dài ngoạm qua lóp lông của nó. Cách hiệu quả nhất để tiêu diệt chuột là loại bỏ nguồn thức ăn khỏi môi trường sống của chúng và rồi để chúng ăn thịt lẫn nhau.

Lũ chuột này đang đói, và chúng đang trên đường di tản. Hoạt động trên mặt đất vào ban ngày như vậy quả là hiếm gặp. Kiểu di chuyển đồng loạt thế này chỉ xảy ra sau một sự kiện như động đất hay sụp nhà.

Hay, thi thoảng, một dự án xây dựng lớn.

Vasiliy đi tiếp tới một dây nhà khác ở phía Nam, băng qua phố Barclay, tới nơi thành phố mở ra một khu vực trống thông thoáng, một công trình xây dựng rộng hơn sáu héc ta.

Anh bước lên một trong những đài quan sát nhìn sang nơi từng là Trung tâm Thương mại Thế giới. Họ đã gần hoàn thiện phần đáy móng dưới lòng đất để làm bệ đỡ cho công trình xây dựng mới, các cột xi măng và thép giờ đây sắp sửa mọc lên từ mặt đất. Khu vực xây dựng này tồn tại như một lỗ đục của thành phố - giống như vết gặm trên mặt bé gái.

Vasiliy vẫn nhớ tháng Chín năm 2001 định mệnh đó. Vài ngày sau khi tòa Tháp Đôi đổ, anh đã tới đó cùng Sở Y tế, bắt đầu với những nhà hàng bị đóng cửa quanh khu vực này, dọn dẹp thức ăn thừa. Rồi xuống dưới tầng hầm và các phòng dưới mặt đất, anh không hề thấy một con chuột sống nào, nhưng có vô số bằng chứng về sự hiện diện của chúng, bao gồm hàng dài những vết chân chuột lưu lại trên bụi bẩn. Anh nhớ rõ nhất là một cửa hàng bánh Mrs. Fields, gần như đâ bị ăn sạch. Số lưọng chuột khi đó đang bùng nổ tại khu này, và một mối lo ngại nảy sinh rằng lũ chuột sẽ tràn ra khỏi khu đổ nát để tìm nguồn thức ăn mới, nhung nhúc khắp các đường phố và khu vực lân cận. Vì vậy, một chiến dịch quy mô lớn do liên bang tài trợ đã được khỏi xướng. Hàng ngàn hộp mồi bả và bẫy dây thép đã được đặt trong và xung quanh Khu vực số 0, và, nhờ có sự cảnh giác của Vasiliy cùng những người giống anh, cuộc tấn công như lo ngại chưa từng thành hiện thực.

Cho đến giờ Vasiliy vẫn đang thực hiện một họp đồng với chính phủ, cơ quan của anh phụ trách một nghiên cứu kiểm soát chuột trong và xung quanh công viên Battery. Vì thế anh luôn cập nhật kịp thời những vụ chuột phá hoại ở địa phương, và biết tường tận dự án xây dựng này kể từ khi nó bắt đầu. Và cho tới lúc này, mọi thứ vẫn ổn.

Anh nhìn xuống những xe tải đang đổ xi măng và những cần cẩu đang chuyển gạch vụn. Anh đợi ba phút để một thằng bé dùng xong cái ống ngắm gắn trên giá - cùng loại họ gắn trên nóc tòa nhà Empire State - rồi thả hai đồng hai lăm xu và ngắm lướt khắp khu vực thi công.

Ngay lập tức, anh đã thấy chúng, những thân mình nâu nhỏ bé lao vọt khỏi các góc, đua nhau chạy quanh những cọc đá, một vài con chạy như điên ra con đường dẫn vào phố Liberty. Chúng chạy đua quanh những đinh thép đánh dấu phần móng của tháp Tự Do như thể đang tham gia một cuộc thi vượt chướng ngại vật chết tiệt. Anh tìm những chỗ gián đoạn nơi công trường mới giao nhau với đường tàu điện ngầm PATH dưới lòng đất. Rồi anh ngóc ống ngắm lên cao hơn và bám theo một hàng chuột đang trèo lên các trụ đỡ của một giàn thép chạy về góc phía Đông, rồi trèo ra ngoài trên những dây treo. Chúng đang chạy khỏi khu vực trũng đó, một cuộc di tản hàng loạt, bằng bất cứ con đường chạy trốn nào chúng có thể tìm thấy.

Khu cách ly, Trung tâm Y tế Jamaica

ĐẰNG SAU CÁNH CỬA THỨ HAI của khu cách ly, Eph đeo đôi găng tay cao su. Đáng lẽ anh phải đề nghị Setrakian làm theo, nhưng khi nhìn lại những ngón tay cong queo của ông, Eph tự hỏi liệu việc đó có khả thi không.

Họ bước vào phòng Jim Kent, nơi duy nhất có người trong một khu cách ly trống không. Jim lúc này đang nằm ngủ, vẫn trong bộ quần áo đi đường, các dây nối từ ngực và bàn tay anh ta tới những máy móc đang câm lặng đọc các thông số. Y tá chăm sóc cho biết các chỉ số của anh ta đang hạ thấp đến nỗi mọi tín hiệu báo động tự động bằng âm thanh - nhịp tim thấp, huyết áp thấp, hô hấp yếu, lượng ôxy thấp - đều phải tắt, bởi chúng cứ kêu liên tục.

Eph bước vào trong tấm màn nhựa trong suốt, cảm thấy Setrakian ở bên cạnh đang trở nên căng thẳng. Khi họ tới gần, chỉ số sinh tồn của Kent tăng vọt trên tất cả các màn hình - quá đỗi bất thường.

"Giống như con giun trong cái bình," Setrakian nói. "Anh ta cảm nhận được chúng ta. Anh ta cảm nhận được máu đang ở gần."

"Không thể nào." Eph nói.

Anh tiến lại gần hơn nữa. Chỉ số sinh tồn và hoạt động sóng não của Jim tăng.

"Jim," Eph gọi.

Khuôn mặt khi ngủ của anh ta thư giãn, làn da ngăm đen chuyển thành một màu trắng xám như vữa vôi. Eph có thể thấy đồng tử của anh ta di chuyển rất nhanh bên dưới mí mắt như đang trong một giấc ngủ REM[III] biến động.

Setrakian dùng đầu sói bạc trên cây gậy dài ngoẵng để kéo lóp màn ngăn cuối cùng của cái rèm trong suốt. "Không được tới quá gần," ông cảnh báo. "Anh ta đang biến đổi." Setrakian thò tay vào túi áo khoác. "Gương của anh. Lấy nó ra."

Túi trước bên trong áo khoác của Eph trĩu nặng một chiếc gương khung bạc kích cỡ tám nhân mười xăng ti mét, một trong vô số món đồ ông lão đã lấy ra từ trong kho vũ khí chống ma cà rồng dưới tầng hầm của ông.

"Anh nhìn thấy chính mình trong đó chứ?"

Eph nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong tấm kính cũ. "Hẳn rồi."

"Phiền anh dùng nó để nhìn tôi đi."

Eph quay gương sang một góc để có thể nhìn thấy khuôn mặt ông lão. "Được rồi."

Nora nói, "Ma cà rồng không có hình ảnh phản chiếu."

Setrakian nói, "Không hẳn. Giờ, phiền anh - thật cẩn thận vào - dùng nó để nhìn khuôn mặt anh ta."

Do chiếc gương quá nhỏ, Eph phải tiến lại gần giường, dang cánh tay, giữ tấm kính chếch một góc phía trên đầu Jim.

Ban đầu, anh chẳng thể thấy hình phản chiếu của Jim. Nhìn chất lượng hình ảnh thì có vẻ như tay Eph đang run bần bật. Nhưng phần nền phía sau, chiếc gối và khung giường, vẫn bất động.

Khuôn mặt Jim bị nhòe. Trông như thể đầu anh ta đang lắc với một tốc độ khủng khiếp, hay đang rung với một lực mạnh đến nỗi chẳng thể nhận ra những đường nét trên khuôn mặt.

Anh vội rụt tay lại.

"Tráng bạc." Setrakian nói, tay gõ nhẹ vào chiếc gương của mình. "Đó chính là điểm mấu chốt. Những gương sản xuất đại trà hiện nay, được mạ crôm, sẽ không tiết lộ gì hết. Nhưng gương mạ bạc luôn nói lên sự thực."

Eph nhìn lại mình trong gương một lần nữa. Bình thường. Ngoại trừ bàn tay hơi run.

Anh lại đặt gương chếch trên mặt Jim, cố gắng giữ cho yên - và thấy hình phản chiếu của Jim bị rung mờ. Giống như là cơ thể anh ta đang quằn quại mãnh liệt, rung quá mạnh và quá nhanh đến nỗi chẳng thể nhìn được rõ nét.

Tuy nhiên nhìn bằng mắt thường, anh ta vẫn nằm yên thanh thản.

Eph đưa gương cho Nora, cô cũng ngạc nhiên và sợ hãi hệt như anh. "Vậy nghĩa là... anh ấy đang biến đổi thành một thứ... một thứ giống như cơ trưởng Redfern."

Setrakian nói, "Theo quá trình nhiễm thông thường thì chỉ sau một ngày đêm là họ sẽ hoàn thành việc chuyển đổi và sẵn sàng hút máu. Sẽ mất bảy đêm để một người biến đổi toàn bộ, để căn bệnh ăn hết cơ thể và tái tạo thành một dạng riêng của nó - trạng thái ký sinh mới. Và sau khoảng ba mươi đêm, hoàn toàn trưởng thành."

Nora nói, "Hoàn toàn trưởng thành?"

Ông lão nói, "Hãy cầu cho ta không phải chứng kiến giai đoạn đó." Ông chỉ tay về phía Jim. "Động mạch cổ của con người là con đường xâm nhập nhanh nhất, mặc dù động mạch đùi cũng là một con đường trực tiếp khác dẫn thẳng tới nguồn cung cấp máu của chúng ta."

Vết cứa ở cổ gọn đến độ giờ chẳng thể nhìn thấy được. Eph hỏi, "Tại sao lại là máu?"

"Ôxy, sắt và nhiều chất dinh dưỡng khác."

"Ôxy ư?" Nora nói.

Setrakian gật đầu. "Cơ thể vật chủ của chúng biến đổi. Một phần quá trình biến đổi đó là hệ tuần hoàn và hệ tiêu hóa họp nhất, trở thành một. Tương tự như côn trùng. Máu của chúng thiếu cả sắt và ôxy cấu thành nên màu đỏ trong máu người. Vì thế chuyển thành màu trắng."

"Và các cơ quan," Eph nói. "Các cơ quan của Redfern trông gần giống như ung thư vậy."

"Hệ cơ thể bị hủy hoại và chuyển hóa. Vi rút xâm chiếm hoàn toàn. Họ không thở nữa. Họ hô hấp chỉ đơn thuần như một phản xạ còn sót lại, nhưng họ không chuyển hóa ôxy nữa. Hai lá phổi thừa sau cùng sẽ teo đi và tái thích nghi."

Eph nói, "Lúc tấn công, Redfern để lộ một khối thịt rất phát triển trong miệng. Giống như một đầu chích có cơ tiến hóa bên dưới lưỡi."

Setrakian gật đầu như thể đồng tình với Eph về chuyện thời tiết vậy. "Nó sẽ ứ máu khi chúng ăn. Da thịt chúng đỏ lên gần như màu đỏ thẫm, cả nhãn cầu, cả lóp biểu bì của chúng nữa. Cái đầu chích này, như anh nói, trên thực tế là một sự chuyển đổi, một sự tái cơ cấu vùng họng, khí quản và lá phổi bằng phần thịt mới phát triển. Một thứ gì đó giống như ống tay áo lộn ngược. Ma cà rồng có thể giải phóng cơ quan này từ lồng ngực, bắn dài từ một mét đến thậm chí hai mét. Nếu anh mổ xác một nạn nhân trưởng thành, anh sẽ thấy một mô cơ, một túi giúp đẩy cơ quan này ra để chúng ăn. Tất cả những gì chúng cần là đều đặn uống máu tươi của con người. Theo lẽ đó có lẽ chúng cũng giống với bệnh tiểu đường. Tôi không biết nữa. Anh là bác sĩ mà."

"Tôi cứ tưởng mình là bác sĩ," Eph lầm bầm. "Cho tới lúc này."

Nora nói, "Tôi cứ tưỏng ma cà rồng uống máu trinh nữ. Chúng thôi miên... chúng biến thành doi..."

Setrakian nói, "Chuyện đấy đã được lãng mạn hóa quá mức. Nhưng sự thực thì còn hơn thế... tôi nên nói sao nhỉ?"

"Gớm ghiếc," Eph nói.

"Kinh tởm," Nora nói.

"Không," Setrakian nói. "Tầm thường. Anh đã tìm thấy amoniac chứ?"

Eph gật đầu.

"Chúng có một hệ tiêu hóa rất nhỏ gọn," Setrakian tiếp tục. "Không cần chỗ chứa thức ăn. Toàn bộ huyết tương và cặn rắn không thể tiêu hóa sẽ phải được đào thải để nhường chỗ cho dinh dưỡng cấp vào. Giống như loài ve - chúng bài tiết khi hút máu."

Đột nhiên, nhiệt độ bên trong phòng thay đổi. Giọng Setrakian hạ xuống chỉ còn là một tiếng thì thào lạnh lùng.

"Strigoi," ông rít lên. "Đó."

Eph nhìn Jim. Jim mở mắt, con ngươi tối đen, củng mạc xưng quanh chuyển thành màu cam xám, gần như màu trời chập choạng lúc hoàng hôn. Anh ta đang nhìn chằm chằm lên trần nhà.

Eph cảm thấy nỗi sợ nhói lên. Setrakian Cling người, bàn tay cong queo của ông để sẵn trên tay cầm đầu sói của cây gậy - chuẩn bị tấn công. Eph cảm nhận được quyết tâm mạnh mẽ của ông, và thấy sốc trước ánh mắt thù hận sâu thẳm của ông lão.

"Giáo sư..." Jim thều thào.

Rồi mí mắt anh ta tiếp tục nhắm lại, Jim lại roi vào trạng thái hôn mê giống REM.

Eph quay sang ông lão. "Sao anh ấy lại... biết ông?"

"Anh ta không biết," Setrakian nói, vẫn trong trạng thái cảnh giác, sẵn sàng tấn công. "Giờ đây anh ta giống như con ong mật, trở thành một phần của tổ ong. Một tập họp gồm nhiều phần nhưng chỉ có một mục tiêu duy nhất." Ông nhìn Eph. "Thứ này cần phải bị tiêu diệt."

"Gì chứ?" Eph nói. "Không."

"Anh ta không còn là bạn của anh nữa rồi," Setrakian nói. "Anh ta là kẻ thù của anh."

"Cho dù đúng như vậy... anh ấy vẫn là bệnh nhân của tôi."

"Người đàn ông này không ốm. Anh ta đã vượt ra khỏi giới hạn của mọi căn bệnh. Chỉ trong vài giờ thôi, anh ta sẽ không còn là chính mình nữa. Ngoài ra... sẽ vô cùng nguy hiểm khi giữ anh ta lại đây. Cũng như với người phi công, anh sẽ khiến mọi người trong tòa nhà này gặp nguy hiểm lớn."

"Nếu như... nếu như anh ấy không kiếm được máu thì sao?

"Không có dinh dưỡng, anh ta sẽ bắt đầu suy sụp. Sau bốn tám giờ không hút máu, cơ thể anh ta sẽ bắt đầu yếu đi, hệ cơ quan của anh ta sẽ ăn các cơ và tế bào mỡ người, tự hủy hoại chính nó một cách từ từ và đau đớn. Cho tới khi chỉ còn phần ma cà rồng chế ngự."

Eph lắc đầu nguầy nguậy. "Điều tôi cần làm là thiết lập một phác đồ điều trị. Nếu căn bệnh này bắt nguồn từ một loại vi rút, tôi cần phải tìm ra cách chữa trị."

Setrakian nói, "