Đêm thứ hai
Patricia hối hả lùa tay vào mái tốc, như để rũ sạch những giờ lãng phí của một ngày nữa trôi qua. Cô nhận ra mình đang mong ngóng Mark trở về nhà, và chẳng phải chỉ để có thế thoải mái tống lũ trẻ cho anh và nói, "Đây này." Cô còn muốn báo cho anh tin sốt dẻo duy nhất trong ngày, rằng bà vú gia đình Luss - người mà Patricia đã theo dõi qua rèm cửa số phòng ăn hướng ra phía trước - đã chạy khỏi nhà Luss sau khi tới chưa đầy năm phút, lũ trẻ thì chẳng thấy đâu, còn bà già da đen đó thì chạy biến như thẽ bị rượt duỗi.
o, gia đình Luss. Lũ hàng xóm khiến ta điên tiết như thế nào ư. Cứ mồi khi nghĩ tới Joanie da-bọc-xương đang tự sướng về "hầm rượu đất xịn theo kiếu châu Âu" của mình, Patricia lại bất giác giơ ngón tay thối hướng vế phía nhà Luss. Cô vô cùng sốt ruột muốn tìm hiếu những gì Mark biết về Roger Luss, liệu anh ta có còn đang ở nước ngoài hay không. Cô muốn trao đối ý kiến. Khoảng thời gian duy nhất cô và chóng có vẻ có cùng quan điếm là khi nói xấu bạn bè, gia đình và hàng xóm. Có lẽ bằng cách nào đó việc tận hưởng những vấn đề hôn nhân hay những bất hạnh gia đình của người khác khiến tình hình giữa cô và Mark trở nên đỡ căng thăng hon.
Việc nói xấu người khác luôn diên ra tuyệt vòi hơn với một ly pinot, và cô hối hả uống cạn ly thứ hai. Cô nhìn đồng hỗ phòng bếp, thực lòng nghĩ rằng nên dừng lại một chút, bởi biết rõ tính nôn nóng của Mark mỗi khi anh trở về nhà và thấy cô đã uống trước anh hai ly. Tiên sư anh, thư giãn trong văn phòng trên phố cả ngày, ăn trưa, rảnh rỗi đi dạo quanh, và rồi đàn đúm trên chuyến tàu muộn về nhà. Trong khi đó, cô mắc kẹt ở đây với đứa bé, và Marcus, và bà vú và thằng làm vườn...
Cô rót cho mình thêm một cốc, tự hỏi còn bao lâu nữa thì Marcus, thằng quỷ con hay ghen tị đó, mới vào phòng và đánh thức em gái nó dậy. Bà vú đã ru Jacqueline ngủ từ trước khi về, và con bé vẫn chưa dậy. Patricia xem đồng hồ một lần nữa, chợt nhận ra căn nhà đã yên ắng khá lâu. Ô - ngủ chẳng còn biết trời đất. Tọp thêm một hóp pinot nữa, và rồi nhớ tới tên khủng bố tinh quái bốn tuổi của mình, cô bỏ lại cuốn tạp chí Cookie đầy quảng cáo và bước lên cầu thang hậu.
Cô ngó qua Marcus trước tiên, thấy nó đang nằm úp mặt trên tấm thảm New York Rangers bên cạnh chiếc giường thành cao, trò choi điện tử cầm tay vẫn đang bật nằm bên cạnh bàn tay đang buông lỏng. Mệt mỏi. Và tất nhiên, họ sẽ phải trả giá cho giấc chop mắt muộn này khi thằng quỷ con kia không chịu nằm yên vào giờ ngủ - nhưng lúc đó đến lượt Mark xử lý.
Cô xuống sảnh - nhíu mày bối rối khi nhìn thấy vài tảng đất đen trên tấm thảm dài (thằng quỷ con) - cô bước tới cánh cửa đóng kín có treo chiếc gối vải hình trái tun in dòng chữ SUỴT- SUỴT-SUỴT! - THIÊN THẦN ĐANG NGỦ trên nam cửa bằng một dải ruy băng ren. Cô nhẹ nhàng mở cửa tiến vào căn phòng ngủ ấm áp, lờ mờ tối dành cho bé sơ sinh, và hoảng hốt khi thấy một người đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh bên cạnh chiếc cũi, đung đưa. Một phụ nữ, đang giữ một bọc nhỏ trên tay.
Kẻ lạ mặt này đang ẵm bé Jacqueline. Nhưng bên trong không gian ấm áp tĩnh mịch của căn phòng, bên dưới ánh đèn âm trần dìu dịu cùng thảm dày dưới chân, mọi thứ dường như vẫn ổn.
"Ai...?" Khi Patricia đánh liều tiến lại gần hơn, người phụ nữ đang đung đưa kia dường như bị đánh động. "Joan? Joan, là cô phải không?" Patricia bước tới gần hơn nữa. "Cô đang...? Cô vào nhà qua gara ư?"
Joan - chính là cô ta - dừng đung đưa và đứng dậy khỏi ghế. Anh đèn hồng đằng sau Joan khiến Patricia khó có thể nhận ra vẻ kỳ dị trên khuôn mặt cô ta - mà cụ thể là, cái mồm méo xệch kỳ lạ. Từ người cô ta bốc ra một mùi kinh khủng, và Patricia chợt nghĩ ngay tới cô chị gái của mình, và lễ Tạ on kinh khủng năm ngoái. Phải chăng Joan cũng đang bị sang chấn tâm lý giống vậy?
Và tại sao cô ta lại ở đây, bế bé Jacqueline?
Joan chìa tay trả lại bé gái sơ sinh cho Patricia. Patricia ẵm đứa con của mình, và ngay lập tức, cô nhận ra có gì đó không ổn. Con bé yên lặng một cách quá bất thường so với vẻ yên bình của một bé sơ sinh đang ngủ.
Lo lắng, Patricia dùng hai ngón tay vén lóp chăn che phủ mặt Jackie.
Đôi môi nụ hồng của con bé bị rách. Đôi mắt nhỏ của nó tối sầm và trừng trừng. Tấm chăn quanh cổ nó bị ướt. Hai ngón tay của Patricia dính máu.
Patricia định thét lên, nhưng không kịp nữa.
***
Ann-Marie Barbour thực sự cảm thấy tuyệt vọng. Cô đứng trong bếp, thì thào cầu nguyện và bám chặt thành bồn rửa như thể ngôi nhà mà cô đã sống trọn cuộc sống hôn nhân là một con thuyền nhỏ bé đang bị cuốn vào vùng nước xoáy đen ngòm trên biển. Không ngừng cầu nguyện được dẫn đường, được giải thoát. Cầu nguyện một tia hy vọng. Cô biết Ansel không phải người xấu. Anh không thực sự như vẻ bề ngoài. Anh chỉ là đang rất, rất ốm. (Nhưng anh ấy ãă giết lũ chó.) Dù anh có đang mắc bất cứ căn bệnh nào thì rồi nó cũng sẽ qua đi như một con sốt tồi tệ, và mọi thứ sẽ trở lại bình thường.
Cô nhìn ra chuồng chó đang khóa kín ngoài sân sau tối om. Lúc này nó đang rất yên tĩnh.
Mối nghi ngờ lại quay trở lại với cô, giống như khi cô thấy tin tức về những người chết trong chuyến bay 753 đã biến mất khỏi nhà xác. Điều gì đó đang xảy ra, một điều gì đó rất khủng khiếp (Anh ấy đã giết lũ chó) - và cảm giác khiếp đảm dâng trào của cô chỉ có thế giảm nhẹ nhờ việc liên tục đi đến chỗ gương và bồn rửa. Rửa tay rồi chạm, lo lắng rồi cầu nguyện.
Tại sao Ansel tự chôn mình dưới đất vào ban ngày chứ? (Anh ấy đã giết lũ chó.) Tại sao anh nhìn cô với vẻ thèm khát đến vậy? (Anh ấy đã giết chúng.) Tại sao anh không nói bất cứ gì, mà chỉ càu nhàu và tru tréo (giống như lũ chó anh ấy đã giết)?
Màn đêm đã một lần nữa chiếm trọn bầu trời - điều khiến cô kinh hãi cả ngày nay.
Tại sao lúc này ngoài đó anh lại yên lặng đến vậy?
Trước khi cô kịp nghĩ xem nên làm gì, trước khi cô kịp rũ bỏ tính nhút nhát của mình, cô ra khỏi cửa và bước xuống cầu thang ra vườn. Không nhìn vào mộ lũ chó ở góc vườn - không được đầu hàng sự điên loạn đó. Giờ đây cô phải là người mạnh mẽ. Chỉ cần thêm một chút thôi...
Cánh cửa chuồng. Khóa và xích. Cô đứng đó, nghe ngóng, nắm đấm ấn mạnh lên miệng cho tới khi cô cảm thấy răng cửa đau.
Ansel sẽ làm gì chứ? Liệu anh có mở cửa nếu như cô là người đang ngồi bên trong đó? Liệu anh có buộc mình phải đối mặt với cô?
Phải. Anh sẽ làm vậy.
Ann-Marie mở khóa bằng chìa đeo trên cổ. Cô gỡ dây xích dày, và lần này lùi tới vị trí mà cô biết rằng anh sẽ không thể nào với tới - xa hơn độ dài của dây xích gắn vào cọc xích chó - khi cánh cửa mở ra.
Một mùi hôi hám kinh khủng. Một mùi thối tới khó tin. Chỉ mùi đó thôi cũng đủ khiến cô roi nước mắt. Chính Ansel của cô đang ở trong đó.
Cô không thấy gì cả. Cô lắng nghe. Cô sẽ không bị dụ vào bên trong.
"Ansel?"
Cô gần như thì thào không ra hoi. Không có tiếng đáp lại.
"Ansel."
Một tiếng sục sạo. Tiếng di chuyển trên đất. Trời, tại sao cô lại không mang theo đèn pin chứ?
Cô rướn người về phía trước, chỉ vừa đủ để đẩy một cánh cửa mở rộng hon. Đủ để ánh trăng lọt thêm vào được một chút.
Anh đây rồi. Nằm trên cái giường đất, mặt anh ngước về phía cửa, đôi mắt trũng xuống và tràn đầy đau đón. Cô ngay lập tức nhận ra rằng anh đang hấp hối. Ansel của cô đang hấp hối. Cô nhớ tới lũ chó từng ngủ ở đây, Pap và Gertie, lũ chó giống Saint Bernard mà cô yêu quý còn hơn cả thú cưng bình thường, lũ chó mà anh đã giết và sẵn sàng thế chỗ... đúng vậy... để cứu lấy Ann-Marie và bọn trẻ.
Và rồi cô biết. Anh cần phải làm hại người khác để bản thân khỏe lại. Để sống.
Cô run rẩy dưới ánh trăng, đối mặt với con thú đau khổ mà chồng cô nay đã biến thành.
Anh muốn cô trao mình. Cô hiểu điều đó. Cô có thể cảm thấy nó.
Ansel bật ra một tiếng rên rỉ từ yết hầu, không ra hoi, như thể phát ra từ cái hốc dạ dày trống tron của anh.
Cô không thể làm vậy. Ann-Marie bật khóc khi cô đóng cửa chuồng trước mặt anh. Cô tì vai lên cánh cửa, nhốt anh lại bên trong như một cái xác sống không ra sống mà chết cũng chắng ra chết. Lúc này anh đã quá yếu để có thể tấn công cánh cửa. Cô chỉ nghe thấy một tiếng rên rỉ phản kháng.
Cô đang quấn vòng xích đầu tiên trở lại nắm cửa thì chợt nghe thấy tiếng bước chân trên mặt đất rải sỏi phía sau. Ann- Marie chết lặng, tưỏng tượng cảnh viên cảnh sát đó quay trở lại. Cô nghe thấy tiếng bước chân nữa, và cô quay lại.
Đó là một người đàn ông lớn tuổi hon, hói đầu, mặc áo sơ mi cổ Cling, cùng áo khoác len và quần nhung kẻ rộng. Hàng xóm của họ bên kia phố, người đã gọi cảnh sát: kẻ góa vợ, lão Otish. Đó là loại hàng xóm quét lá ra đường để chúng thổi bay vào vườn nhà ta. Một kẻ mà họ chẳng bao giờ nhìn thấy hay nghe đến, trừ khi có một sự cố nào đấy mà lão ngờ rằng họ hoặc con cái họ đã gây nên.
Lão Otish nói, "Lũ chó nhà cô ngày càng tìm ra nhiều cách sáng tạo để khiến tôi mất ngủ vào ban đêm."
Sự hiện diện của lão, như một cuộc đột nhập ma quái vào một con ác mộng, khiến Ann-Marie hoang mang. Lũ chó?
Lão đang nói về Ansel, những âm thanh anh gây ra vào ban đêm.
"Nếu vật nuôi nhà cô bị bệnh, cô cần đưa nó tới bác sĩ thú y để chữa hoặc để giết luôn đi."
Cô quá sốc không nói nên lời. Lão bước tới gần hon, từ đường vào gara bước tới rìa thảm cỏ sân sau, nhòm ngó cái chuồng với vẻ khinh khỉnh.
Một tiếng rền rĩ khàn khàn thoát ra từ bên trong.
Khuôn mặt lão Otish nhăn nhó kinh tỏm. "Cô phải làm gì với mấy con chó ghẻ này đi, bằng không tôi sẽ gọi cảnh sát lần nữa, ngay bây giờ."
"Không!" Nỗi sợ thốt ra trước khi cô kịp níu lại.
Lão cười, ngạc nhiên bởi thái độ run rẩy của cô, lão thích thú trước cảnh tượng có thể kiểm soát được cô. "Vậy thì cô tính làm gì?"
Cô mở miệng, nhưng chẳng thể nghĩ ra được gì. "Tôi... tôi sẽ chăm sóc nó... tôi không biết làm sao."
Lão nhìn về phía hiên sau, tọc mạch trước ánh đèn trong bếp. "Anh ta đang ở trong nhà phải không? Tôi muốn nói chuyện với anh ta."
Cô lắc đầu.
Một tiếng rên rỉ đau đón nữa lại thoát ra từ trong chuồng.
"Được thôi, tốt hơn hết là cô nên làm điều chết tiệt gì đó với thứ sinh vật bẩn thỉu kia đi - bằng không tôi sẽ làm đấy. Bất cứ ai lớn lên trong một trang trại cũng sẽ nói với cô, cô Barbour à, rằng chó là động vật giúp việc, chúng không cần cung phụng. Chúng tốt hơn hết nên quen với roi gậy hơn là vỗ về. Đặc biệt là cái giống vụng về như Samt Bernard."
Điều gì đó lão nói khiến cô chọt nhận ra. Điều gì đó về lũ chó của cô...
Roi gậy.
Toàn bộ lý do từ đầu khiến họ phải lắp đặt hệ thống xích và cọc trong chuồng là bởi Pap và Gertie đã chạy đi vài lần... và một lần, cách đây không lâu... Gertie, con chó đáng yêu và tin cậy, đã trở về nhà với lung và chân rách toạc...
... như thể ai đó đã đánh nó bằng gậy.
Một Ann-Marie Barbour vẫn thường nhút nhát và xa cách giờ đây quên sạch mọi sợ hãi. Cô nhìn lão - một con người quá nhỏ nhen và bẩn thỉu - như thể một tấm mạng che mặt vừa được nhấc lên khỏi tầm mắt cô.
"Ông," cô nói. Cằm cô run lên, không phải do e ngại nữa mà do giận dữ. "Chính ông đã làm điều đó. Với Gertie. Ông đã làm hại nó..."
Mắt lão nháy một lát, lão thường không quen bị đối chất và đồng thời bị vạch trần tội lỗi của mình.
"Giả như tôi có làm vậy," lão nói, lấy lại vẻ khinh khỉnh thông thường, "Tôi chắc là nó xứng đáng bị như vậy."
Nỗi căm thù bất chợt bừng nổ trong Ann-Marie. Tất cả những gì cô đã phải chịu đựng mấy ngày qua. Gửi bọn trẻ đi... chôn lũ chó đã chết... lo lắng về người chồng khổ sở...
“Cô bé," Ann-Marie nói.
"Gì cơ?"
“Cô bé. Gertie. Nó là một cô bé."
Một tiếng rên rỉ run run lại thoát ra từ chuồng.
Nhu cầu của Ansel. Con thèm khát của anh...
Cô lùi lại, run rẩy. Sợ hãi, không phải vì lão, mà vì cơn thịnh nộ mới của mình. "Ông muốn tự mình xem chứ?" Cô thấy mình lên tiếng.
"Cái gì vậy?"
Cái chuồng núp sau cô như thể một con thú. "Vậy thì, tự nhiên đi. Ông muốn được dạy bảo chúng chứ? Xem ông cồ thể làm gì nào."
Lão nhìn chằm chằm, căm phẫn. Bị thách thức bởi một mụ đàn bà. "Cô nghiêm túc đấy hả?"
"Ông muốn cải thiện tình hình à? Ông muốn thư thái và yên tĩnh à? ừ, tôi cũng vậy!" Cô gạt chút nước bọt dính trên cằm rồi chỉ ngón tay ướt của mình vào mặt lão. "Tôi cũng vậy!"
Lão Otish nhìn cô một lúc lâu. "Những người kia nói đúng," lão nói. "Cô bị điên."
Cô nở một nụ cười hoang dại, đồng tình với lão. Và lão bước tới chỗ một cành cây thấp trong vườn nhà họ. Lão kéo một cành cây mảnh, xoắn lại, rồi giật mạnh cho tới khi nó gãy ra. Lão thử nó, nghe những tiếng vút như lưỡi kiếm khi lão chém vào không khí, và, sau khi đã hài lòng, lão bước tới cánh cửa.
"Tôi muốn cô biết rằng," lão Otish nói, "tôi làm điều này là tốt cho cô hơn là cho tôi."
Ann-Marie run rấy khi quan sát lão gỡ dây xích trên tay nắm cửa chuồng. Cánh cửa bắt đầu mở ra, lão Otish đứng đủ gần tại lối vào đế dây xích gắn cọc có thể tới được chỗ lão.
"Nào," lão nói, "bọn súc vật đó đâu?"
Ann-Marie nghe thấy tiếng gầm gừ chẳng phải của con người, và dây xích chuyển động rất nhanh, nghe như tiêhg roi của những đồng xu. Rồi cánh cửa mở bung ra, lão Otish bước lên, và ngay lập tức tiếng thét kinh hãi của lão bị bịt lại. Cô chạy tới và ghì người lên cánh cửa, gắng sức đóng nó lại trong lúc lão Otish vùng vẫy đẩy ra. Cô quấn dây xích xuyên qua tay nắm cửa, gài khóa chặt... rồi chạy biến vào nhà, trốn khỏi cái chuồng đang rung bần bật ở sân sau và hành động nhẫn tâm mà cô vừa làm.
***
Mark Blessige đứng trong tiền sảnh nhà mình với chiếc BlackBerry trong tay, hoàn toàn mất phương hướng.
Không một tin nhắn nào từ cô vợ. Điện thoại cô ta vẫn đê trong chiếc túi Burberry, chiếc xe Volvo đỗ trên đường vào gara, còn chậu tắm cho bé nằm trên lối vào phòng khách. Chẳng để lại một ghi chú nào trên quầy bếp, chỉ một ly rượu uống dở để trên quầy. Patricia, Marcus và bé Jackie đều biến mất.
Anh kiểm tra gara, các xe hơi và xe đẩy đều ở đó. Anh kiểm tra lịch trên hành lang - chẳng có kế hoạch gì cho ngày hôm nay. Phải chăng cô ta khó chịu vì anh lại về muộn và quyết định trừng phạt một chút theo kiểu tránh đối đầu trực tiếp? Mark cố gắng xem ti vi và chờ đợi, nhưng rồi nhận ra rằng mình đang thực Sự lo lắng. Hai lần, anh định nhấc điện thoại để gọi cảnh sát, nhưng không nghĩ mình có thể chịu nổi những lời gièm pha vì có một chiếc xe cảnh sát tới nhà. Anh ra cửa trước và đứng trên bậc cầu thang gạch, ngó ra bãi cỏ và những luống hoa tươi tốt. Anh nhòm khắp phố, tự hỏi có phải họ đã ghé qua nhà hàng xóm - và rồi nhận ra hầu hết mọi nhà đều tối om. Chẳng một ánh đèn vàng ấm áp nào từ những cây đèn gia truyền đặt trên nóc tủ chén gỗ bóng. Chẳng một ánh đèn nào từ màn hình vi tính hay ti vi rọi qua lóp vải ren khâu tay.
Anh nhìn sang nhà Luss, ngay đối diện con phố. Một mặt tiền quý phái lộng lẫy cùng nền gạch trắng cổ kính. Bên đó cũng chẳng có ai ở nhà, hình như vậy. Phải chăng chuẩn bị xảy ra một thiên tai nào đó mà anh không hay biết? Phải chăng lệnh sơ tán đã được ban hành?
Và rồi anh thấy ai đó xuất hiện từ bụi cây cao tạo thành hàng rào trang trí giữa biệt thự nhà Luss và nhà Perry. Đó là một phụ nữ, và giữa lốm đốm bóng lá của cây vươn cao phía trên đầu, trông bà ta có vẻ lôi thôi. Bà ta đang ẵm trên tay thứ gì đó trông có vẻ như một đứa bé năm, sáu tuổi đang ngủ. Người phụ nữ này băng qua đường vào gara, khuất sau chiếc Lexus suv của gia đình Luss trong một chốc, và sau đó đi thẳng vào cửa bên, cạnh gara. Trước khi vào, bà ta quay đầu và nhìn thấy Mark đang đứng trên bậc thềm trước cửa nhà anh. Bà ta chẳng vẫy tay hay có vẻ gì là nhận ra anh, nhưng ánh nhìn của bà ta - dù chỉ thoáng qua - khiến anh lạnh buốt người.
Đó không phải Joan Luss, anh nhận thấy thế. Nhưng đó có thể là quản gia của họ.
Anh đợi ánh sáng bật lên bên trong căn nhà. Nhưng không có gì hết. Quá kỳ lạ, nhưng dù gì chăng nữa, anh cũng chưa bắt gặp bất cứ ai lảng vảng ngoài đường tối nay. Vì thế anh bắt đầu băng qua đường - ban đầu bước chậm theo lối dẫn vào nhà, tránh giẫm lên bãi cỏ - và sau đó, đút tay một cách thư thái vào túi quần, anh tiến thẳng tới cánh cửa bên cạnh gara đó.
Cánh cửa chống bão bên ngoài đóng, nhưng cửa trong thì mở. Thay vì bấm chuông, anh vui vẻ gõ khung cửa kính rồi bước vào, gọi, "Xin chào?" Anh băng qua tiền phòng lát gạch và bước vào bếp, ấn công tắc bật đèn. "Joan? Roger?"
Sàn nhà đầy những vết chân bẩn thỉu, rõ là vết chân đất. Một vài tủ và cạnh bàn bám những dấu tay bẩn đất. Những quả lê thối rữa trong một bát lưới trên quầy bếp.
"Có ai ở nhà không?"
Anh dám cá rằng Joan và Roger không có nhà, nhưng dù gì anh cũng muốn nói chuyện với bà quản gia. Bà ta sẽ không ba hoa khắp chốn rằng gia đình Blessige thậm chí chẳng biết lũ con của họ ở đâu, hay Mark Blessige chẳng thể để mắt trông coi cô vợ nghiện rượu của mình. Và nếu anh nhầm, và Joanie đang ở đây, vậy anh sẽ hỏi cô ta về gia đình anh, kiểu như đang vác vợt tennis trên vai ấy mà. Lũ trẻ náo nhiệt quá đỗi, sao mà có thể theo dõi chúng chứ? Và nếu anh có nghe thấy bất cứ ai nói bất cứ điều gì về lũ con bướng bỉnh của mình, anh sẽ gọi chuyện về đám nông dân chân đất nhà Luss rõ ràng đã chạy loạn trong bếp của họ.
"Mark Blessige bên kia đường đây. Có ai ở nhà không?"
Anh chưa từng tới nhà họ kể từ bữa tiệc sinh nhật thằng bé vào tháng Năm. Bố mẹ nó đã mua cho thằng bé một chiếc xe đua điện dành cho trẻ con, nhưng bởi nó không có một cái móc kéo xe giả - rõ ràng nó bị ám ảnh với móc kéo xe - nó đã lái chiếc xe đâm thẳng vào bàn đặt bánh ngay sau khi người giúp việc thuê mặc trang phục SpongeBob SquarePants vừa rót đầy nước hoa quả vào các cốc. "ừ thì," Roger đã nói, "ít nhất nó cũng biết rằng nó thích gì." Câu nói đó kéo theo một tràng cười gượng gạo và một đọt nước hoa quả mới.
Mark cúi đầu bước qua cánh cửa xoay, tiến vào phòng khách mà từ đó, qua những cửa sổ trước, anh có thể thấy khá rõ căn nhà của mình. Anh tận hưởng khung cảnh đó một lát, bởi chẳng mấy khi có thể được nhìn từ góc nhìn của một người hàng xóm. Ngôi nhà đẹp quá xá. Mặc dù thằng Mexico đần độn đó lại cắt tỉa bụi cây rào phía Tây không đều.
Tiếng bước chân vọng lên từ cầu thang tầng hầm. Không chỉ một người - thậm chí không chỉ vài người. "Xin chào?" anh nói, lấy làm băn khoăn về đám người chân đất đó, và chợt nhận ra có vẻ như mình đã tự nhiên quá mức trong căn nhà của người hàng xóm. "Xin chào. Mark Blessige bên kia đường đây." Không có tiếng trả lời. "Xin lỗi vì đã đột nhập như thế này, nhưng tôi chỉ đang tự hỏi..."
Anh đẩy ngược cánh cửa xoay và dừng bước. Phải đến một chục người đang đứng đối mặt anh. Hai trong số đó là trẻ con, vừa bước ra từ sau quầy bếp - cả hai đều không phải con anh. Mark nhận ra một vài khuôn mặt, mấy người cùng sống tại Bronxville, những người anh đã gặp tại Starbucks, ga tàu hoặc câu lạc bộ. Một trong số họ, Carole, là mẹ một đứa bạn của Marcus. Một người nữa là nhân viên giao hàng bên UPS, mặc áo sơ mi và quần soóc nâu của hãng. Một tập họp khá ngẫu nhiên cho một buổi gặp mặt. Trong số họ chẳng có lấy một người nhà Luss hay nhà Blessige.
"Tôi xin lỗi. Có phải tôi đang làm phiền...?"
Giờ anh mới thực sự nhìn họ, nước da và ánh mắt họ, khi họ nhìn chằm chằm vào anh chẳng nói một câu. Anh chưa từng bị ai nhìn như vậy. Anh cảm thấy sức nóng từ họ, một sức nóng chẳng liên quan gì tới ánh nhìn của họ.
Phía sau là bà quản gia. Trông bà ta hồng hào, nước da đỏ và đôi mắt trừng trừng màu đỏ tươi, và có một vết đỏ phía trước áo choàng của bà ta. Mái tóc bà ta khô, bết, quần áo và da bà ta thì chẳng thể bẩn thỉu hon, cứ như thể bà ta đã ngủ dưới đất vậy.
Mark hất chùm tóc trên trán cho khỏi chắn tầm mắt. Anh cảm thấy vai mình tựa vào cánh cửa xoay và nhận ra anh đang đi giật lùi. Những người kia tiến về phía anh, ngoại trừ bà quản gia, chỉ đứng và quan sát. Một đứa trẻ, thằng bé trông bồn chồn với đôi lông mày đen nhọn, bước lên một ngăn tủ mở để trèo lên quầy bếp, sao cho nó có thể đứng cao hơn tất cả những người khác một cái đầu. Từ mặt quầy đá hoa, nó chạy và nhảy bổ vào Mark Blessige, lúc này chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài đưa tay ra đón lấy nó. Miệng thằng bé há ra giữa lúc nó bật nhảy, và khi nó túm được vai Mark, vòi chích nhỏ bé của nó đã lời ra. Như đuôi một con bọ cạp, nó uốn cong lên trước khi bắn thẳng tói, chọc thủng cổ họng Mark. Nó cắt da và cơ, níu chặt lấy động mạch cảnh của anh, và cơn đau như một cái xiên nóng cắm nửa chừng vào cổ.
Anh ngã ngửa qua cánh cửa, đồ sầm xuống sàn, thằng bé vẫn bám chắc, thắt chặt cổ họng anh, ngồi giạng chân trên ngực anh. Và rồi nó bắt đầu kéo. Nó rút. Nó hút. Nó nốc cạn.
Mark gắng nói, gắng hét, nhưng âm thanh tắc nghẹn trong họng, và anh bị nghẹt. Anh tê liệt. Có gì đó trong mạch máu anh đã thay đổi - đã bị gián đoạn - và anh chẳng thể thốt ra một lời.
Ngực thằng bé tì lên ngực anh, và anh có thể cảm thấy nhịp đập yếu ót từ trái tim - hay cái gì đó - của nó. Khi máu trôi tuột khỏi cơ thể Mark, anh cảm thấy nhịp đập của thằng bé tăng vọt và trở nên mạnh mẽ hơn - bụp-bụp-bụp - nhanh như phi nước kiệu điên cuồng, gần như thể khoái lạc.
Vòi chích của thằng bé ứ máu khi nó ăn, và lòng trắng trong mắt nó, khi nó trừng trừng nhìn Mark, chuyển sang màu đỏ thẫm. Một cách thành thục, thằng bé luồn những ngón tay xương xấu qua mái tóc của Mark. Kẹp chặt con mồi của nó...
Những người khác xông qua cánh cửa, nhào vào nạn nhân, xé rách quần áo của anh. Khi những vòi chích của họ chọc xuyên qua da thịt anh, Mark cảm thấy một sự thay đối áp suất mới bên trong cơ thể, không dãn ra, mà là nén lại. Như xì hơi chân không, như một gói nước ép hoa quả bị hút kiệt.
Cùng lúc đó, một mùi hương chế ngự anh, lọt vào mũi và mắt anh, như một luồng khí amoniac. Anh cảm thấy nước bắn lên ngực mình, ấm, như thế món xúp vừa nấu, và đôi bàn tay anh đang víu lấy cơ thể con quỷ con chợt cảm thấy ẩm nóng. Thằng bé đái dầm, nó phóng uế lên Mark khi nó ăn - mặc dù chất thải này có vẻ như chất hóa học hơn là của con người.
Cơn đau khốn kiếp. Xuất hiện khắp mọi noi, đầu ngón tay, ngực, não. Áp suất thoát ra khỏi cổ họng anh, và Mark lửng lơ ở đó như một ngôi sao trắng sáng trong cơn đau hấp hối.
***
Neeva đẩy hé cửa, chỉ để chắc rằng lủ trẻ rốt cuộc cũng đã ngủ. Keene và Audrey Luss nằm trong hai túi ngủ trên sàn bên cạnh giường đứa cháu gái Narushta của bà. Lũ trẻ nhà Luss thường vẫn ngoan - dù gì thì, Neeva cũng là người trông nom duy nhất của bọn trẻ vào ban ngày kể từ khi Keene mới bốn tháng tuổi - nhưng đêm nay, cả hai đứa đều khóc. Chúng nhớ giường của mình. Chúng muốn biết khi nào chúng mới có thể về nhà, khi nào Neeva mới đưa chúng trở về. Sebastiane, cô con gái của Neeva, liên tục hỏi còn bao lâu nữa cảnh sát mới tới gõ cửa nhà họ. Nhưng cảnh sát không phải điều khiến Neeva lo ngại.
Sebastiane sinh ra tại Mỹ, được giáo dục trong trường học của Mỹ, và bị gán cho cái vẻ ngạo mạn của người Mỹ. Neeva đưa cô con gái của mình trở về Haiti mỗi năm một lần, nhưng với cô gái, nơi đó chẳng phải quê nhà. Cô từ chối đất nước cũ kĩ và phong cách cổ hủ của nó. Cô khước từ những kiến thức cổ xưa bởi những kiến thức mới quá ư bóng bẩy và rõ ràng. Nhưng Neeva gần như không thể chịu đựng nổi vì Sebastiane coi mẹ như thể một kẻ ngốc mê tín. Đặc biệt từ khi bà cứu hai đứa trẻ dẫu bị chiều hư nhưng vẫn còn hy vọng cứu chuộc này, chính hành động đó đã đặt những thành viên trong gia đình vào nguy hiểm.
Mặc dù bà là một tín đồ Thiên Chúa giáo La Mã, ông ngoại của Neeva lại là người theo tôn giáo Vodou, và là một bokor của làng, một dạng houngan, hay còn gọi là thầy tế - một số người gọi họ là phù thủy - những người làm phép thuật, cả phép thần lẫn ma thuật. Mặc dù ông được gọi là người mang ashe lớn (nắm giữ và sử dụng nhiều năng lưọng tâm linh), và thường vỗ vỗ vào các thứ bùa ngải hộ mệnh - tức là, lấy ra phần hồn của một vật thờ (một vật vô tri) - ông không bao giờ sử dụng loại ma thuật đen tối nhất, như là hồi sinh một xác chết, vực dậy một thây ma từ một xác chết đã mất phần hồn. Ông không bao giờ làm vậy bởi ông nói rằng ông quá tôn trọng thế giới tối bên kia, và việc vượt qua ranh giới địa ngục đó là một sự xúc phạm trực tiếp tới loa, hay các linh hồn của tôn giáo Vodou, là các thánh thần và thiên sứ đóng vai trò trung gian giữa con người và đấng Kiến tạo công minh. Nhưng ông đã tham dự những buổi tế lễ dạng như làm phép trừ tà ma tại những vùng hẻo lánh, uốn nắn sai lầm của các thầy tế Vodou khác, và bà đã đi cùng ông, và đã nhìn thấy khuôn mặt của thây ma.
Khi Joan khóa mình trong phòng của cô ta vào đêm đầu tiên - một phòng ngủ trang bị đồ đạc sang trọng đẹp như bất cứ phòng khách sạn nào Neeva đã từng dọn dẹp tại Manhattan khi bà mới tới đất Mỹ - và khi cuối cùng tiếng rên rỉ cũng chấm dứt, Neeva ngó vào kiểm tra cô ta. Đôi mắt cô ta trông chết chóc và mơ màng, tim cô ta đập thình thịch, những tấm ga trải giường bẩn ướt mồ hôi. Cô ta ho ra máu trắng lên gối. Neeva đã từng chăm sóc những người ốm và hấp hối tương tự, và bà biết, khi nhìn thấy Joan Luss như vậy, rằng cô chủ của bà không chỉ đơn giản chìm vào bệnh tật, mà vào cái ác. Đó là khi bà đưa lũ trẻ rời đi.
Neeva đi lại kiểm tra các cửa sổ một lần nữa. Họ sống ở tầng một trong căn nhà có ba hộ gia đình, và họ chỉ có thể nhìn ra phố và các nhà hàng xóm qua những song sắt. Những song sắt giúp chống trộm hiệu quả, nhưng Neeva không chắc có tác dụng với những gì vượt xa hơn thế hay không. Chiều hôm đó, bà đã đi loanh quanh bên ngoài căn nhà, thử giật mạnh những song sắt, và chúng có vẻ chắc chắn, cẩn thận hơn nữa, bà đã đóng chặt các khung cửa vào bậu cửa (mà không để Sebastiane biết, đỡ cho Neeva một bài giảng giải về an toàn cháy nổ), và rồi chắn tầm nhìn cửa sổ của bọn trẻ bằng một giá sách như một lóp rào chắn tạm thời. Bà cũng đã (khôn khéo không để ai biết) bôi tỏi lên các song sắt. Bà giữ lại một bình nước thánh từ nhà thờ, được cúng bởi các thầy tu trong giáo khu - mặc dù bà vẫn không quên cây thánh giá của bà đã vô dụng ra sao bên dưới tầng hầm nhà Luss.
Lo lắng nhưng tự tin, bà kéo tất cả các rèm cửa sổ và bật mọi đèn, rồi lấy ghế và ngồi xuống. Bà vẫn mang đôi giày đế cao màu đen (loại giày chỉnh hình dành cho người có lòng bàn chân đau) đề phòng trường họp bà cần chạy vội đâu đó, và phải sẵn sàng thức canh một đêm nữa. Bà bật ti vi nhỏ, chỉ để có bầu bạn. Nhưng nó lấy điện từ tường nhà nhiều hơn là lôi cuốn sự chú ý của Neeva.
Có lẽ bà phiền muộn hơn bà tưởng trước thái độ khinh thị của cô con gái. Đó là mối lo của mọi người dân nhập cư có những người con lớn lên và gắn bó với nền văn hóa đã nuôi dạy nó mà quên đi quê hương vốn có. Nhung nỗi sợ của Neeva còn cụ thể hơn thế: bà sợ rằng sự tự phụ của đứa con gái Mỹ hóa của bà rốt cuộc sẽ hại nó. Đối với Sebastiane, bóng tối của ban đêm chỉ là một sự bất tiện, một sự thiếu hụt ánh sáng, và nó sẽ biến mất ngay khi bạn ấn công tắc đèn. Ban đêm là khoảng thời gian rảnh rỗi dành cho nó, thời gian choi, thời gian thư giãn. Khi nó xõa tóc và quên đi cảnh giác. Đối với Neeva, điện tồn tại cũng chỉ như một lá bùa hộ mệnh chống lại bóng tối. Đêm là thực. Đêm không chỉ là sự thiếu hụt ánh sáng, mà thực tế, chính ban ngày mới là một quãng nghỉ ngắn trước bóng tối cận kề.
Một tiếng cào nhẹ khiến bà bừng tỉnh, cằm bà bật khỏi ngực, bà thấy ti vi đang phát quảng cáo một giẻ lau nhà bọt biển đồng thời cũng là một máy hút bụi. Bà cứng người lắng nghe. Đó là tiếng lách cách từ cửa trước. Ban đầu bà tưỏng Emile về nhà - cháu trai của bà lái taxi đêm - nhưng nếu nó lại quên chìa khóa, nó hẳn sẽ bấm chuông.
Ai đó đang ở ngoài cửa trước. Nhung họ không gõ cửa hay bấm chuông.
Neeva nhanh chống bật dậy. Bà rón rén xuống hành lang và đứng trước cửa, lắng nghe, chỉ có một tấm gỗ ngăn cách giữa bà và bất cứ ai - hay bất cứ thứ gì - đang đứng ngoài.
Bà cảm thấy một sự hiện diện. Bà tưỏng tưọng, nếu chạm tay vào cánh cửa - hiển nhiên bà sẽ không làm vậy - bà có thể cảm thấy hơi nóng.
Đó là một cánh cửa trước tron với một khóa chốt cố định, không ô kính nhìn ra ngoài, không ô cửa sổ trên tấm gỗ. Chỉ duy nhất một khe đút thư kiểu cổ nằm chính giữa bên dưới, cách sàn ba mươi phân.
Bản lề của khe đút thư cọt kẹt. Nắp lật bằng đồng nhúc nhích - và Neeva chạy vọt trở lại sảnh. Bà đứng đó một lát - choáng váng, sợ hãi - và rồi hộc tốc vào phòng tắm, tới sọt đựng đồ choi bồn tắm. Bà chộp lấy khẩu súng nước của đứa cháu và mở nắp lọ nước thánh, rót vào cái lỗ nhỏ xíu, bà đổ tràn ra ngoài khá nhiều trong lúc cố đổ đầy nòng súng nhựa.
Bà mang món đồ choi tới cánh cửa. Lúc này nó đã yên lặng, nhưng bà vẫn cảm thấy sự hiện diện đó. Bà vựng về quỳ trên đầu gối sưng phồng, chạm bít tất lên sàn gỗ thô Cling. Bà gần như có thể cảm thấy tiếng xì xào của bầu không khí mát lạnh ban đêm qua nắp lật bằng đồng - và bà trông thấy một cái bóng trên rìa khe.
Khẩu súng đồ choi có một vòi phun dài. Neeva không quên kéo ngược cơ cấu bom bên dưới để bồi áp suất, và rồi dùng đầu nòng súng kéo nắp lật lên. Khi bản lề kêu cọt kẹt, bà cho súng vào, đẩy vòi phim qua khe và bóp chặt cò súng.
Neeva nhắm bừa, trên, dưới, khắp hai bên, bắn nước thánh đi tứ phía. Bà tưởng tượng Joan Luss đang bị thiêu cháy, thứ nước giống như axit này đang ăn cơ thể cô ta như lưỡi kiếm vàng của Chúa - tuy nhiên, bà chẳng nghe thấy một tiếng khóc la nào.
Và rồi một bấn tay lọt qua khe hở. Nó tóm lấy nòng súng, cố gắng tước lấy nó. Neeva giật lại theo phản xạ, và bà có thể nhìn thấy rõ những ngón tay. Chúng bẩn thỉu hệt như những ngón tay của một kẻ đào mộ. Phần móng tay có màu đỏ máu. Nước thánh bắn lên da, nhưng chỉ làm nhòe đi lóp đất bẩn chứ chẳng hề thiêu đốt.
Chẳng có chút tác dựng nào.
Bàn tay đó vẫn giật mạnh nòng súng, níu chặt lấy nó bên trong khe đút thư. Lúc này Neeva nhận ra bàn tay đó đang muốn tóm lấy bà. Vì thếbà thả súng, bàn tay đó kéo và vặn cho tới khi món đồ choi bằng nhựa vỡ toác, bắn ra những giọt nước cuối cùng. Neeva bò bằng tay và mông, ra xa khỏi khe cửa, khi vị khách kia bắt đầu nện cửa. Cô ta ném cả trọng lượng cơ thể vào cửa, lạch cạch giật nắm đấm cửa. Bản lề run bần bật và bức tường bên cạnh rung lên, bức ảnh lồng khung người đàn ông và đứa trẻ đi săn roi khỏi đinh treo, lóp kính bảo vệ vỡ vụn. Neeva bò tới cuối hành lang ngắn. Vai bà va vào rổ đựng ô, bên trong có một cây gậy bóng chày, và Neeva chộp lấy nó, nắm chặt tay cầm dán băng dính đen, vẫn ngồi bệt dưới sàn.
Tấm gỗ vẫn vững chãi. Cánh cửa cũ rích mà bà vẫn căm ghét bởi nó phồng lên và dính chặt vào khung cửa dưới cái nóng mùa hè, giờ đây đủ chắc chắn để chống chọi những cú đánh, cái khóa chốt và thậm chí tay nắm sắt nhẵn nhụi cũng vậy. Sự hiện diện phía sau cánh cửa rốt cuộc cũng trở nên yên ắng. Có lẽ nó đã rời đi hẳn rồi cũng nên.
Neeva nhìn vào vũng nước mắt của Chúa trên sàn. Chỉ khi sức mạnh của Chúa không giúp được ta, ta mới biết mình đen đủi đến chừng nào.
Đợi cho tới sáng. Đó là tất cả những gì bà có thế làm.
"Neeva?"
Keene, thằng bé con nhà Luss, đứng đằng sau bà, mặc quần thụng cùng áo phông. Neeva di chuyến nhanh hơn mức bà có thể tưởng tượng, bịt chặt bàn tay lên miệng thằng bé và kéo nó ra chỗ góc nhà. Neeva đứng đó, lưng dựa tường, ôm thằng bé trong vòng tay.
Liệu thứ ngoài cửa có nghe thấy tiếng đứa con trai của nó? Neeva cố gắng nghe ngóng. Thằng bé vùng vẫy, cố gắng nói. “ĩm lặng đi con."
Và rồi bà nghe thấy nó. Lại tiếng cọt kẹt đó. Bà níu đứa bé chặt hơn nữa khi bà nghiêng người sang trái, đánh liều nhìn qua chỗ góc nhà.
Một ngón tay bẩn thỉu đấy nắp khe đút thư lên. Neeva rụt trở lại góc nhà, nhưng bà đã kịp thấy một cặp mắt đỏ rực đang nhòm vào.
***
Quản lý của Gabriel Bolivar, Rudy Wain, bắt taxi tạt qua căn nhà anh ta trên phố Hudson sau bữa tối muộn chỗ ngài Chow cùng những người bên công ty âm nhạc BMG. Anh vẫn chưa liên lạc được với Gabe qua điện thoại, nhưng bắt đầu có những lời đồn về tình trạng súc khỏe của anh ta sau vụ chuyến bay 753, cùng một hình chụp trộm anh ta đang ngồi xe lăn, và Rudy cần phải xem tận mắt. Khi Rudy tới trước cửa căn nhà trên phố Vestry, anh không thấy bất cứ tay săn ảnh nào, chỉ có một vài tan có vẻ phê thuốc đang ngồi hút quanh vỉa hè.
Họ đứng dậy như thể đã chờ sẵn khi Rudy bước lên những bậc thang dẫn vào cửa trước. "Chuyện gì thế?" Rudy hỏi.
"Chúng tôi nghe nói anh ấy cho người vào."
Rudy ngước thẳng lên, nhưng chẳng có bất cứ ánh đèn nào trong ngôi biệt thự hai căn, thậm chí trên gác mái. "Có vẻ như bữa tiệc đã kết thúc rồi."
"Đó không phải bữa tiệc," một thằng nhóc mập có những dây cao su nhiều màu treo trên một đinh ghim đâm xuyên qua má nói. "Anh ấy còn cho cả bọn săn ảnh vào."
Rudy nhún vai và nhập mã khóa cửa, bước vào, rồi đóng sầm cửa phía sau. ít nhất Gabe cũng đã cảm thấy khá hon. Rudy tiến vào, ngang qua đôi báo cẩm thạch đen, tới bên trong tiền sảnh tối tăm. Đèn thi công đều tắt sạch, các công tắc đèn thì vẫn chưa nối vào đâu hết. Rudy nghĩ ngọi một lát, rồi rút chiếc BlackBerry của mình ra, chuyển màn hình hiển thị sang chế độ LUÔN BẬT. Anh chiếu ánh đèn xanh xung quanh, và nhận ra tại chân bức tượng thiên thần có cánh cạnh cầu thang chất hàng đống máy ảnh SLR và máy quay kỹ thuật số cao cấp, vũ khí của bọn săn ảnh. Tất cả chồng đống lên như thể mớ giày dép bên ngoài một bể boi.
"Xin chào?"
Giọng anh vọng lại yếu ớt khắp vài tầng dưới chưa hoàn thiện. Rudy bắt đầu bước lên cầu thang cẩm thạch xoắn, lần theo ánh đèn xanh lam của chiếc BlackBerry. Anh cần động viên Gabe cho show diễn Roseland tuần tói, và có vài lịch diễn lắt nhắt tại Mỹ gần lễ Halloween cần phải chuẩn bị.
Anh lên tới tầng trên cùng, phòng ngủ của Bolivar, và tất cả các đèn đều tắt.
"Ê, Gabe? Tôi đây, anh bạn. Đừng buộc tôi phải tự tiện bước vào chứ."
Quá yên ắng. Anh đẩy cửa tiến vào phòng ngủ, quét ánh đèn điện thoại quanh căn phòng, thấy tấm ga trải giường lật tung nhưng chẳng hề thấy Gabe say xỉn đâu hết. Có khi đang vật vờ ngoài kia như thường lệ. Anh ta không có ở đây.
Rudy tạt vào phòng tắm chính để đi tiểu. Ở đó có một lọ
Vicodin kê đon mở nắp trên quầy và một ly cocktail pha lê nồng mùi rượu. Rudy cân nhắc một lát, rồi quyết định lấy hai viên Vicodin, anh rửa ly trong bồn rửa và uống hai viên thuốc cùng nước vòi.
Khi đang đặt lại chiếc ly lên quầy, anh chọt phát hiện động tĩnh đâu đó phía sau. Anh lập tức quay người, và đó là Gabe, đang bước ra từ bóng tối tiến vào phòng tắm. Bức tường ốp gương hai bên khiến trồng như có tới hàng trăm anh ta.
"Gabe, Chúa ơi, anh khiến tôi phát khiếp," Rudy nói. Nụ cười vui vẻ của anh tắt ngúm khi Gabe cứ đứng đó nhìn anh chằm chằm. Anh sáng xanh từ điện thoại lờ mờ và không chiếu thẳng, nhưng da Gabe trông tối, đôi mắt anh ta nhuốm đỏ. Anh ta khoác áo choàng đen mặc trong nhà, dài tới đầu gối, không mang áo sơ mi bên trong. Tay anh ta buông thõng, chẳng có vẻ gì là chào đón người quản lý của mình. "Có chuyện gì vậy, anh bạn?" Đôi bàn tay và ngực anh ta bẩn thỉu. "Anh đã dành cả tối bên trong thùng than hả?"
Gabe chỉ đứng đó, những hình ảnh phản chiếu qua gương nhiều tới vô tận.
"Anh hôi quá, anh bạn," Rudy nói, tay bịt mũi. "Anh có chuyện quái gì vậy?" Rudy cảm thấy sức nóng kỳ lạ từ Gabe. Anh giơ điện thoại gần mặt Gabe hơn. Mắt anh ta vô hồn dưới ánh sáng. "Anh bạn à, anh giữ lóp trang điểm quá lâu rồi đấy."
Vicodin bắt đầu phát tác. Cả căn phòng, cùng những gương chiếu mặt, dãn ra như một chiếc đàn accordion mở. Rudy di chuyển ánh sáng điện thoại, và cả phòng tắm trở nên lung linh.
"Này, anh bạn," Rudy nói, mất bình tĩnh bởi thái độ tình bơ của Gabe, "nếu anh đang phiêu du, tôi có thể quay lại sau."
Anh định lách sang bên trái Gabe, nhưng Gabe không tránh ra. Anh thử lại lần nữa, nhưng Gabe vẫn không tránh đường. Rudy lùi lại, chiếu ánh đèn điện thoại vào khách hàng lâu năm của mình. "Gabe, anh bạn, chuyện gì...?"
Bolivar mở áo choàng, dang rộng cánh tay, như một đôi cánh, để quần áo roi tuột xuống sàn.
Rudy há hốc. Cơ thể Gabe xám ngoét và hốc hác từ đầu đến chân, nhưng thứ thực sự khiến anh choáng váng là vùng háng của Gabe.
Không lông, phắng mịn như búp bê, và không có cơ quan sinh dục.
Bàn tay Gabe bịt chặt miệng Rudy. Rudy bắt đầu vùng vẫy, nhưng đã quá muộn. Rudy thấy Gabe cười toét miệng - và rồi, nụ cười ấy tắt ngúm, một thứ gì đó trông như một cái roi quằn quại bên trong miệng anh ta. Dưới thứ ánh sáng xanh rung bần bật từ điện thoại - khi anh đang điên cuồng mò mẫm nút 9,1 và 1 - anh thấy một vòi chích thò ra. Những cơ quan vô định hình phồng lên và xẹp xuống dọc hai bên vòi chích, trông như hai bọc thịt lỗ chỗ, xung quanh rìa là những lỗ hở trông như mang cá xòe ra cụp vào.
Rudy nhìn thấy tất cả chỉ trong một thoáng trước khi nó bắn vào cổ anh. Điện thoại anh roi xuống sàn phòng tắm bên dưới đôi chân đang vùng vẫy mà chắng kịp bấm nút GỨI.
***
Cô bé Jeanie Millsome chín tuổi chắng hề thấy mệt mỏi trên đường về nhà cùng mẹ. Xem Nàng tiên cá tại Broadway quả thực tuyệt vòi, con bé tin rằng nó chưa từng tỉnh táo đến như vậy trong đòi. Giờ đây nó đã thực sự biết mình muốn làm gì khi trưởng thành. Không phải giáo viên dạy ba lê ở trường nữa (sau khi Cindy Veeley bị gãy hai ngón chân khi nhảy). Không phải huấn luyện viên Olympic nữa (nhảy ngựa quá đáng sợ). Con bé sẽ trở thành (cho xin mấy nhịp trống nào...) một diễn viên Broadway! Và con bé sẽ nhuộm tóc màu đỏ san hô và diễn Nàng tiên cá trong vai chính Ariel, sau cùng, khi hạ màn, nó sẽ nhún đầu gối cúi chào một cách duyên dáng nhất mọi thời đại. Và sau tràng vỗ tay ầm ầm như sấm nổ, nó sẽ chào đón những fan kịch nghệ trẻ tuổi của mình sau buổi diễn, ký tặng vào tất cả những tờ chương trình của họ, rồi mỉm cười chụp hình điện thoại cùng họ - sau đó, vào một buổi tối thật đặc biệt, nó sẽ chọn ra một cô bé chín tuổi lễ phép và chân thành nhất trong số khán giả, mòi cô bé làm người đóng thế cho mình và làm bạn thân mãi mãi.
Mẹ sẽ làm nhà tạo mẫu tóc cho nó, và bố sẽ trở thành người quản lý, giống như bố của Hannah Montana vậy. Và Justin... ừ thì, Justin có thể cứ ở nhà và là chính mình.
Và con bé ngồi đó, tay chống cằm, quay đầu trên ghế ngồi trong tuyến xe điện ngầm hướng về phía Nam, bên dưới thành phố. Con bé nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ, nhìn thấy ánh sáng của toa phía sau, nhưng đôi khi những ánh sáng đó lập lòe, và trong một thoáng chớp đen đó, con bé nhận ra mình đang nhìn ra một khoảng trống nơi đường hầm này nối tiếp đường hầm kia. Và rồi nó thấy một thứ gì đó. Chỉ như một hình ảnh lòe lên trong tiềm thức, như thể một khung hình nhiễu loạn lọt trong một thước phim tẻ nhạt. Nó nhanh đến nỗi tầm trí tỉnh táo của một cô bé chín tuổi chẳng thể nào xử lý kịp, cái hình ảnh mà con bé chẳng hiểu nổi. Nó thậm chí chẳng thể giải thích tại sao mình lại khóc, khiến bà mẹ đang gật gà gật gù bật dậy. Trông cô thật đẹp trong bộ áo choàng và váy đi xem hát bên cạnh con bé, cô an ủi nó, cố gắng dỗ nó nói ra điều gì đã khiến nó khóc nức nở. Jeanie chỉ có thể chỉ ra cửa sổ. Và suốt chặng đường về nhà còn lại, nó cuộn mình trong vòng tay mẹ.
Thế nhung, Chúa Tể đã nhìn thấy nó. Chúa Tể thấy tất cả. Ngay cả khi - đặc biệt là khi - đang hút máu. Khả năng nhìn trong đêm tối của hắn phi thường, gần như kính thiên văn vậy, trong mọi mức tối khác nhau, và có thể ghi nhận được nguồn nhiệt trong nhũng dải quang phổ trắng sáng.
Xong xuôi, dù chưa thực sự thỏa mãn - không bao giờ thỏa mãn - hắn để con mồi yếu ớt trượt xuống khỏi cơ thể mình, đôi bàn tay khổng lồ của hắn thả con người vừa biến đổi xuống mặt sàn sỏi. Nhũng đường hầm xung quanh xào xạc gió, làm phất phơ tấm áo choàng đen của hắn. Tàu rú inh ỏi phía xa, sắt đụng thép, như tiếng thét của thế giới khi đột ngột nhận ra sự hiện diện của hắn.