Lộ Diện Trụ sở Canary -Đại lộ 11 và phố 27
Vào buổi sáng thứ ba sau khi chuyến bay 753 hạ cánh, Eph đưa Setrakian tới trụ sở văn phòng dự án CDC Canary tại bờ Tây Chelsea, cách Hudson một dãy nhà về phía Đông. Trước khi Eph bắt đầu tham gia Canary, văn phòng ba tầng này được dành cho Chương trình Sàng lọc Y khoa Dành cho Công nhân và Tình nguyện viên tại Trung tâm Thương mại Thế giới của CDC, điều tra những mối liên hệ giữa nỗ lực phục hồi sau 11 tháng Chín và các bệnh dai dẳng về hô hấp.
Eph cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi họ đỗ xe tại đại lộ 11. Hai xe cảnh sát và một cặp xe hơi mui kín không đánh dấu thuộc tổ chức nào, với biển xe chính phủ, đang đỗ bên ngoài lối vào. Cuối cùng thì Giám đốc Bames cũng đã vào cuộc. Họ sẽ có được sự trợ giúp cần thiết. Bởi chẳng có cách nào Eph, Nora và Setrakian có thể đon độc chiến đấu với tai họa này.
Khi họ tới đó, cánh cửa văn phòng tầng ba đang mở, và Bames đang hội ý với một người mặc thường phục tự xưng là mật vụ FBI. "Everett," Eph nói, anh cảm thấy thật nhẹ nhõm khi thấy ông đích thân vào cuộc. "Thật đúng lúc. Đúng người tôi đang cần gặp." Anh tiến tới một tủ lạnh nhỏ gần cửa. Những ống nghiệm kêu leng keng khi anh lôi ra một chai sữa tươi nguyên chất một lít, mở nắp và tu vội. Anh cần canxi hệt như cần rượu trước kia. Anh nhận ra con người ta thay đổi những thứ mình lệ thuộc. Ví dụ, chỉ ngay tuần trước thôi, Eph lệ thuộc hoàn toàn vào luật lệ của khoa học và tự nhiên. Còn giờ đây, anh chỉ tập trung vào kiếm bạc và đèn tử ngoại.
Anh bỏ chai sữa đã cạn nửa ra khỏi miệng, nhận ra rằng mình vừa mới thỏa con khát bằng sản phẩm của một loài động vật có vú khác.
"Ai đây?" Giám đốc Bames hỏi.
"Đây là," Eph nói, lau sạch phần ria dính sữa ở môi trên, "Giáo sư Abraham Setrakian." Setrakian đang cầm mũ, mái tóc trắng sáng lên dưới ánh đèn trần thấp. "Quá nhiều thứ đã xảy ra, Everett," Eph nói, uống thêm sữa, dập tắt ngọn lửa cồn cào trong dạ dày. "Tôi thậm chí chẳng biết mình nên bắt đầu từ đâu."
Bames nói, "Sao ta không bắt đầu với những thi thể mất tích khỏi nhà xác thành phố đi."
Eph hạ chai sữa xuống. Một trong mấy viên cảnh sát đã lách đến gần cánh cửa phía sau anh. Một nhân viên FBI khác đang ngồi trước máy tính xách tay của Eph, gõ bàn phím. "Ê, này," Eph lên tiếng.
Barnes nói, "Ephraim, anh biết gì về những xác chết bị mất tích?"
Trong một thoáng, Eph cố gắng đọc biểu cảm trên khuôn mặt vị giám đốc CDC. Anh ngoái lại nhìn Setrakian, nhưng ông lão chẳng tỏ thái độ gì, vẫn đứng thẳng với cái mũ trong bàn tay xương xẩu.
Eph quay lại với sếp của mình. "Họ đã về nhà."
"Về nhà?" Bames nói, quay đầu như thể cố gắng nghe cho rõ hon. "Về thiên đàng hả?"
"Về với gia đình họ, Everett."
Bames quay sang nhìn đặc vụ FBI, lúc này cũng đang nhìn chằm chằm Eph.
"Họ đã chết," Bames nói.
"Họ chưa chết. Hay ít nhất, chưa chết theo cái cách mà ta vẫn hiểu."
"Chỉ có một cách chết thôi, Ephraim."
Eph lắc đầu. "Giờ thì không phải vậy nữa rồi."
"Ephraim." Bames bước lên một bước, tỏ vẻ thông cảm. "Tôi hiểu gần đây anh đã chịu khá nhiều áp lực. Tôi cũng biết rằng anh có rắc rối gia đình..."
Eph nói, "Đợi đã. Tôi không nghĩ mình hiểu chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây."
Đặc vụ FBI nói, "Đó là về bệnh nhân của anh, bác sĩ ạ. Một trong những phi công trong chuyến bay 753 của Regis Air, cơ trưởng Doyle Redfern. Chúng tôi có một vài câu hỏi về tình trạng của anh ta."
Eph giấu con rùng mình. "Hãy lấy lệnh của tòa án, rồi tôi sẽ trả lời các câu hỏi của anh."
"Có lẽ anh sẽ muốn giải thích cho chuyện này."
Anh ta mở một máy xem video cầm tay trên góc bàn và nhấn nút chạy Video. Đoạn video từ một góc camera an ninh của một phòng bệnh. Redfern được ghi hình từ phía sau, đang loạng choạng, bộ trang phục bệnh viện hở phần lưng. Anh ta có vẻ đã bị thương và hoang mang thay vì vẻ giết chóc và hung dữ. Góc camera này không cho thấy vòi chích ngoe nguẩy từ mồm anh ta.
Tuy nhiên, nó cho thấy Eph đã cầm một khoan trephine đang xoay tít đối mặt với anh ta, rồi chém vào cổ Redfern bằng lưỡi dao quay.
Chợt video nhảy sang cảnh khác, và giờ đây Nora đang đứng phía sau, tay bịt miệng trong lúc Eph đứng bên cánh cửa, ngực phập phồng, còn Redfern nằm một đống trên sàn.
Và rồi một cảnh nữa. Một camera khác xa hon, trên cùng hành lang tầng hầm đó, đặt ở góc cao hon. Nó cho thấy hai người, một đàn ông và một phụ nữ, đột nhập vào nhà xác đang khóa nơi lưu giữ thi thể Redfern. Rồi nó cho thấy họ rời đi cùng một túi xác nặng.
Hai người này trông rất giống Eph và Nora.
Video dừng. Eph nhìn Nora - cô đang sốc - và rồi nhìn đặc vụ FBI và Bames. "Đó là... vụ tấn công đó đã bị chỉnh sửa cho trông thật tồi tệ. Có một đoạn bị cắt. Redfern đã..."
"Xác cơ trưởng Redfern đâu?"
Eph chẳng thể nghĩ gì. Anh chẳng thể chịu nổi sự dối trá vừa được chứng kiến. "Đó không phải chứng tôi. Camera đặt quá cao không thể..."
"Vậy anh đang nói rằng đó không phải anh và bác sĩ Martinez ư?"
Eph nhìn Nora, cô đang lắc đầu, cả hai đều quá hoang mang không thể lập tức thốt lên một lời biện hộ họp lý nào.
Bames nói, "Để tôi hỏi anh một lần nữa. Ephraim. Những thi thể mất tích khỏi nhà xác đang ở đâu?"
Eph ngoái nhìn Setrakian, lúc này đang đứng cạnh cửa. Rồi nhìn Bames. Anh chẳng thể nghĩ ra bất cứ gì để lên tiếng.
"Ephraim, tôi sẽ cho đóng cửa Canary. Ngay lúc này."
"Gì chứ?" Eph nói, chợt bừng tỉnh. "Đợi đã, Everett..."
Eph bước vội về phía Bames. Mấy gã cảnh sát sấn tới anh như thể anh là kẻ nguy hiểm, phản ứng của họ khiến anh phải dừng lại, làm anh thêm lo sợ.
"Bác sĩ Goodweather, anh cần đi với chúng tôi," đặc vụ FBI lên tiếng. "Tất cả các người... này!"
Eph quay lại. Setrakian đã biến mất.
Viên đặc vụ cử hai cảnh sát đi bắt ông.
Eph quay lại nhìn Barnes. "Everett. Ông biết tôi mà. Ông biết tôi là ai. Hãy lắng nghe những điều tôi chuẩn bị nói. Có một dịch bệnh đang lây lan khắp thành phố này - một tai họa khác với tất cả những gì ta đã từng thấy."
Gã đặc vụ FBI nói, "Bác sĩ Goodweather, chứng tôi muốn biết anh đã tiêm gì vào người Jim Kent."
"Tôi đã làm... gì cơ?"
Bames nói, "Ephraim, tôi đã thỏa thuận với họ. Họ sẽ bỏ qua Nora nếu anh đồng ý họp tác. Tránh cho cô ấy khỏi tai tiêhg bị bắt giữ và giữ gìn danh dự nghề nghiệp cho cô ấy. Tôi biết rằng hai người... rất gần gũi nhau."
"Và nói cho chính xác thì làm sao các ông biết chuyện đó?" Eph nhìn quanh những kẻ đang khủng bố mình, chuyển từ hoang mang sang giận dữ. "Chết tiệt thật, Everett."
"Video cho thấy anh đã tấn công và giết chết một bệnh nhân, Ephraim. Anh đang đưa ra những kết quả phân tích hư cấu, không thể giải thích bằng bất cứ phép đo họp lý nào, chúng không thể chứng minh và gần như chắc chắn là được ngụy tạo bằng thủ thuật nghề nghiệp. Liệu tôi có ở đây không nếu tôi được lựa chọn? Nếu anh được lựa chọn?"
Eph quay sang Nora. Cô có thể được tha. Cô cũng có thể tiếp tục chiến đấu.
Barnes nói đúng. ít nhất là trong lúc này, trong một căn phòng đầy những con người thi hành pháp luật, anh không có lựa chọn.
"Đừng khiến việc này làm em chậm chân," Eph nói với Nora. "Em có lẽ là người cuối' cùng còn lại biết được điều gì đang thực sự xảy ra."
Nora lắc đầu. Cô quay sang Bames. "Thưa ngài, ở đây đang có một âm mưu, bất kể ngài có tự nguyện tham gia vào âm mưu đó hay không..."
"Xin cô, bác sĩ Martinez," Bames nói. "Đừng tự gây thêm rắc rối cho bản thân nữa."
Đặc vụ kia đóng gói máy tính xách tay của Eph và Nora. Họ đưa Eph xuống cầu thang.
Tại sảnh tầng hai, họ bắt gặp hai cảnh sát vừa đuổi theo sau Setrakian. Họ đang đứng kề nhau, gần như lưng đấu lưng. Tay còng vào nhau.
Setrakian xuất hiện từ phía sau, kiếm đã rút ra. Ông chĩa mũi kiếm trước cổ đặc vụ FBI dẫn đầu. Một con dao găm nhỏ hơn trong tay còn lại, cũng bằng bạc. Ông chĩa con dao kề cổ họng Giám đốc Bames.
Vị giáo sư già nói, "Các quý ông đây chính là những con tốt trong một âm mưu vượt ra khỏi tầm hiểu biết của chính các vị. Bác sĩ, cầm lấy con dao này."
Eph nắm lấy tay cầm của món vũ khí, giữ mũi dao kề cổ họng ông sếp.
Barnes hổn hển, "Chúa nhân từ, Ephraim. Anh mất trí rồi sao?"
"Everett, chuyện này vượt quá tầm những gì ông biết. Nó vượt ra khỏi CDC - thậm chí vượt ra khỏi hệ thống thực thi pháp luật thông thường. Có một dịch bệnh khủng khiếp đang lây lan trong thành phố này, và ta chưa từng gặp phải bất cứ gì giống như vậy. Và đó mới chỉ là một nửa thôi."
Nora bước tới bên anh, lấy lại máy tính xách tay của cô và Ephraim từ đặc vụ FBI kia. Cô nói, "Tôi đã có tất cả những gì chúng tôi cần từ văn phòng. Có vẻ như chúng tôi sẽ không quay trở lại nữa."
Bames nói, "Vì Chúa, Ephraim, hãy bình thường lại đi."
"Đây chính là công việc mà ông thuê tôi làm, Everett. Báo động mỗi khi khủng hoảng sức khỏe cộng đồng xảy ra. Chúng ta đang trên bờ vực của một đại dịch toàn cầu. Một sự kiện diệt vong. Và một ai đó ở đâu đó đang làm đủ mọi cách để nó xảy ra."
Tập đoàn Stoneheart, ManhattanELDRITCH PALMER bật một dãy màn hình, phát sáu kênh tin tức truyền hình khác nhau. Chương trình ở màn hình góc dưới bên trái khiến ông ta quan tâm nhất. Ông ta chỉnh ghế hếch lên vài độ và tách riêng kênh đó, tăng âm lượng.
Phóng viên được cử tới bên ngoài trụ sở cảnh sát số 17 trên phố 51 Đông chỉ nhận được câu trả lời "Không có bình luận gì" từ một sĩ quan cảnh sát về việc có vô vàn báo cáo về những người mất tích khắp khu vực New York vài ngày nay. Các màn hình cho thấy một hàng người chờ đợi bên ngoài sở cảnh sát, quá nhiều người để có thể được cho vào trong, họ đang điền những tờ đon trên vỉa hè. Phóng viên đó cho biết nhiều vụ việc có vẻ khó hiểu khác cũng được báo cáo, ví dụ vài vụ đột nhập vào nhà mà dường như không có gì bị mất trộm và cũng dường như không có ai ở nhà. Kỳ lạ nhất là không thể sử dụng công nghệ hiện đại để hỗ trợ tìm kiếm những người mất tích: điện thoại di động, gần như tất cả đều có GPS theo dõi, cũng mất tích chung với chủ nhân của chúng. Điều này khiến một số người đặt ra giả thuyết rằng những người mất tích có lẽ đã có ý định rời bỏ gia đình và cộng việc, và sự gia tăng đột biến những vụ mất tích này có vẻ trùng họp với hiện tượng nhật thực gần đây, ám chỉ một mối liên hệ giữa hai sự kiện này. Một nhà tâm lý học sau đó đã bình luận về khả năng xảy ra hội chứng cuồng tập thể quy mô thấp sau sự kiện thiên văn đáng sợ. Câu chuyện kết thúc khi một phóng viên cho lên sóng một phụ nữ khóc lóc cầm trên tay bức chân dung một bà mẹ hai con mất tích chụp tại Studio JCPenney.
Sau đó, chương trình chuyển sang quảng cáo một loại kem "chống lão hóa" nhằm "giúp bạn sống lâu hơn và khỏe hon".
Ông trùm tư bản ốm yếu bẩm sinh tắt tiếng, và giờ, âm thanh duy nhất còn lại, ngoài tiếng máy thẩm tách máu, chỉ là tiếng khùng khục phía sau nụ cười tham lam của ông ta.
Trên một màn hình khác, một đồ thị cho thấy thị trường tài chính đang giảm sút khi đồng đô la tiếp tục mất giá. Chính Palmer đang điều khiển thị trường bằng cách kiên định từ bỏ cổ phần của mình và đầu tư vào kim loại: vàng, bạc, palađi và platin.
Người dẫn chương trình chuyển sang khuyến cáo rằng tình trạng khủng hoảng gần đây sẽ mở ra cơ hội giao dịch tốt trong tương lai. Palmer rất không đồng ý. Ông ta đang rút ngắn tương lai. Tương lai của tất cả mọi người, ngoại trừ ông ta.
Một cuộc điện thoại được Fitzwilliam chuyển tiếp tới ghế của ông ta. Một thành viên thân tín từ Cục Điều tra Liên bang gọi tới để thông báo bác sĩ dịch tễ của dự án Canary, bác sĩ Ephraim Goodweather, đã trốn thoát.
"Trốn thoát ư?" Palmer nói. "Làm sao có thể như vậy?"
"Anh ta đi cùng một lão già,.anh ta ranh ma hơn vẻ bề ngoài nhiều. Ông ta mang theo một thanh kiếm bạc dài."
Palmer im lặng, hít một hơi thật sâu. Và rồi, từ tốn, ông ta mùn cười.
Các thế lực đang chống lại ông ta. Được thôi. Hãy để chúng họp lại. Sẽ dễ dàng hơn khi diệt trừ cả thể.
"Thưa ngài?" người gọi lên tiếng.
"Ô - không có gì," Palmer nói. "Tôi chỉ vừa nghĩ về một hgười bạn cũ."
Cửa hàng Cho Vay và Đồ Cổ Knickerbocker,phố 118 Đông, Spanish Harlem
EPH VÀ NORA đứng cùng Setrakian phía sau những cánh cửa khóa kín của tiệm cầm đồ, hai bác sĩ dịch tễ vẫn còn run.
"Tôi đã cho họ biết tên ông," Eph nói, nhìn ra cửa sổ.
"Căn nhà này lấy tên người vợ đã mất của tôi. Chúng ta sẽ an toàn ở đây một thời gian."
Setrakian nóng lòng muốn xuống kho vũ khí dưới tầng hầm, nhưng hai vị bác sĩ vẫn vô cùng lo lắng. "Họ đang đuổi theo chúng ta," Eph nói.
"Họ đang mở đường cho sự lây nhiễm," Setrakian nói. "Dịch bệnh sẽ lan nhanh trong một xã hội trật tự hơn là một xã hội đề cao cảnh giác."
"Họ là ai?" Nora nói.
"Bất kỳ ai có đủ thế lực giúp mang cỗ quan tài đó lên một chuyến bay vượt Đại Tây Dương trong thời kỳ của khủng bố này," Setrakian nói.
Eph nói, rảo bước, "Họ đang gài bẫy chúng tôi. Cử ai đó vào lấy cắp thi thể Redfern... ai đó trông giống chúng tôi?"
"Như anh đã nói, anh là người có thẩm quyền chính trong việc cảnh báo và kiểm soát bệnh dịch. Hãy mừng vì họ chỉ tìm cách khiến anh mất uy tín."
Nora nói, "Không có CDC đứng sau, chúng tôi chẳng còn thẩm quyền gì nữa."
Setrakian nói, "Giờ chúng ta phải tự mình tiếp tục thôi. Đây chính là kiểm soát bệnh dịch ở mức độ cơ bản nhất."
Nora nhìn chằm chằm ông. "Ý ông là... giết người."
"Cô muốn gì chứ? Muốn trở thành như vậy... hay muốn ai đó sẽ giải thoát cho cô?"
Eph nói, "Đó quả là một uyển ngữ lịch sự cho việc giết người. Và nói thì dễ hơn làm. Chúng ta phải chém bao nhiêu cái đầu nữa vậy? Ở đây chỉ có ba chúng ta."
Setrakian nói, "Có những cách khác ngoài cắt cột sống. Ví dụ như, ánh sáng mặt trời. Đồng minh mạnh nhất của ta."
Điện thoại của Eph rung lên trong túi. Anh lôi ra, thận trọng, kiểm tra màn hình.
Tổng đài Atlanta. Trụ sở CDC. "Pete O'Connell," anh nói với Nora, và nghe điện.
Nora quay sang Setrakian. "Vậy giờ tất cả bọn họ đang ở đâu, vào ban ngày?"
"Dưới lòng đất. Hầm chứa và rãnh cống. Những góc tối của các tòa nhà, ví dụ như phòng bảo trì, trong hệ thống sưởi và hệ thống điều hòa. Đôi khi trong những bức tường. Nhưng thường là trong lòng đất. Đó là nơi chúng thích làm tổ."
"Vậy là... họ ngủ vào ban ngày, phải không?"
"Thế thì tiện quá nhỉ? Một đống quan tài trong một căn hầm, đầy những ma cà rồng đang ngủ. Nhưng không, chúng không hề ngủ. Không phải theo cách mà chúng ta hiểu. Chúng sẽ ngừng hoạt động một lát nếu đã thỏa mãn. Tiêu hóa quá nhiều máu sẽ khiến chúng mệt. Nhưng không lâu đâu. Chúng xuống lòng đất vào ban ngày chỉ để trốn khỏi ánh mặt trời nguy hiểm."
Nora có vẻ tái mét và choáng ngọp, trông như thể một bé gái vừa được biết người chết thực tế không mọc cánh bay thẳng lên thiên đàng để trở thành thiên thần, mà thay vào đó, họ vẫn ở trên mặt đất, mọc thêm những vòi chích dưới lưỡi và biến thành ma cà rồng.
"Câu ông đã nói đó," cô lên tiếng. "Trước khi ông chém chết họ. Câu nói bằng một ngôn ngữ khác. Như một lời tuyên bố hay một dạng nguyền rủa."
Ông lão co rúm người. "Chỉ là câu nói để tôi trấn tĩnh bản thân thôi. Để vững tay sẵn sàng cho cú cuối cùng."
Nora chờ nghe xem câu đó là gì. Setrakian nhận ra, vì một lý do nào đó, cô cần phải biết.
"Tôi nói, 'Hôi Strigoi, thanh kiếm của ta ngọi ca bạc'." Setrakian lại co rúm người, ông cảm thấy không thoải mái khi nói điều đó vào lúc này. "Nghe bằng ngôn ngữ cổ thì hay hon."
Nora nhận ra ông lão giết ma cà rồng này thực chất chỉ là một người đàn ông chân chất. "Bạc," cô nói.
"Chỉ bạc mà thôi," ông nói. "Nổi tiếng qua mọi thời đại bởi tính kháng khuẩn và sát trùng. Cô có thể chém chúng bằng thép hay bắn chúng bằng chì, nhưng chỉ bạc mới thực sự khiến chúng tổn thương."
Eph áp bàn tay rảnh rỗi còn lại của mình vào tai, cố gắng lắng nghe Pete, anh ta đang lái xe ngay ngoài Atlanta. Pete nói, "Có chuyện gì ở đó vậy?"
"ừ... anh đã biết gì rồi?"
"Biết rằng đáng lẽ tôi không được nói chuyện với anh. Rằng anh đang gặp rắc rối. Rằng anh đã vi phạm hay gì đó."
"Ở đây loạn lắm, Pete. Tôi chẳng biết phải nói cho anh những gì nữa."
"ừ thì, dù sao tôi cũng cần phải gọi. Tôi vẫn đang dành thời gian cho mẫu vật anh đã gửi tôi."
Eph cảm giác như một hòn đá nữa lại đè nặng ruột gan. Bác sĩ Peter O'Connell là một trong những người đứng đầu Dự án Xử lý những Ca Tử vong Bí ẩn (UNEX) tại Trung tâm Quốc gia CDC về các bệnh lây nhiễm từ động vật, ký sinh và các bệnh đường ruột. UNEX là một nhóm kết họp các chuyên gia vi rút, nhà vi khuẩn học, bác sĩ dịch tễ, bác sĩ thú y và bác sĩ lâm sàng từ trong và ngoài CDC. Có vô số những ca tử vong bí ẩn xảy ra tự nhiên tại Mỹ mỗi năm, và một phần nhỏ trong số đó - khoảng bảy trăm ca mỗi năm - được chuyển tới UNEX để điều tra thêm. Trong số bảy trăm ca đó, chỉ có mười lăm phần trăm được giải quyết thành công, các mẫu vật của các ca còn lại sẽ được lưu giữ để có thể xét nghiệm lại trong tương lai.
Mỗi nhà nghiên cứu của UNEX đều nắm giữ một vị trí khác trong CDC, và Pete là trưởng khoa Bệnh lý ữuyền nhiễm, một chuyên gia về cách thức và nguyên do vi rút ảnh hưỏng tới vật chủ. Eph quên béng mất là đã gửi cho anh sinh thiết và mẫu máu đầu tiên từ lần khám nghiệm sơ bộ cơ trưỏng Redfern.
"Đó là một bệnh do vi rút, Eph. Không nghi ngờ gì nữa. Nó chứa một ít axit di truyền đặc biệt."
"Pete, chờ chút, nghe tôi..."
"Glucoprotein này có khả năng kết dính tuyệt diệu. Tôi đang nói đến mấu chốt đây. Thật đáng kinh ngạc. Cái thứ chó chết đó không chỉ đon giản chiếm lấy tê bào cửa vật chủ, khiến nó sản sinh ra nhiều bản sao hon. Không đâu... nó kết họp với ARN. Hợp nhất. Hấp thụ nó... nhung bằng cách nào đó không hề hấp thụ hoàn toàn. Chính xác là, nó tạo ra một bản sao của chính nó kết đôi với tế bào vật chủ. Và chỉ lấy đi những phần nó cần. Tôi không biết anh đã thấy gì ở bệnh nhân của anh, nhung theo lý thuyết, thứ này có thể liên tục tái tạo và tái tạo, và sau hàng nhiều triệu thế hệ tiếp theo - và thứ này sinh sản rất nhanh - nó có thể tự tái sinh chính cấu trúc cơ quan của nó. Một cách có hệ thống. Nó có thể thay đổi vật chủ. Thành thứ gì đó, tôi chưa biết... nhung chắc chắn tôi rất muốn tìm hiểu."
"Pete." Đầu óc Eph rối bòi. Quá họp lý. vi rút này chiếm và biến đổi tế bào - cũng như ma cà rồng chiếm và biến đổi nạn nhân.
Những con ma cà rồng này chính là hiện thân của vi rút.
Pete nói, "Tôi muốn tự mình kiểm tra. khả năng di truyền của thứ này, thực sự tìm hiểu xem điều gì khiến nó hoạt t động..."
"Pete, nghe tôi đây. Tôi muốn anh tiêu hủy nó."
Eph nghe thấy tiếng cần gạt nước trên kính chắn gió của xe Pete đang hoạt động. "Gì cơ?"
"Lưu giữ những phát hiện của anh, tiếp tục theo hướng đó, nhưng hãy tiêu hủy mẫu vật đó ngay tức khắc."
Lại tiếng cần gạt nước, đánh nhịp cùng sự lưỡng lự của Pete. "Ý anh là, tiêu hủy những gì tôi đang nghiên cứu ư? Bởi anh biết rằng ta luôn lưu giữ một số, đề phòng..."
"Pete, tôi cần anh lái xe thẳng tới phòng thí nghiệm và tiêu hủy mẫu vật đó."
"Eph." Eph nghe thấy tiếng đèn tín hiệu của xe Pete, Pete đang tấp vào lề đường để kết thúc cuộc trò chuyện này. "Anh biết ta vẫn cẩn trọng thế nào với mọi mầm bệnh tiềm tàng. Ta VÔ khuẩn và ta an toàn. Và chúng ta có một quy định phòng thí nghiệm rất nghiêm ngặt mà tôi chẳng thể bất tuân chỉ vì..."
"Tôi đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp khi chuyển nó ra khỏi thành phố New York. Khi đó tôi đã không hiểu, nhung giờ tôi mới biết."
"Chính xác là anh đang gặp rắc rối gì vậy, Eph?"
"Tẩy nó. Nếu không được, dùng axit. Cùng lắm thì đốt nó, tôi không quan tâm. Tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn..."
"Vấn đề không phải là trách nhiệm, Eph. Vấn đề là khoa học. Lúc này anh cần thẳng thắn với tôi. Có người đã nói họ thấy gì đó về anh trên bản tin."
Eph cần phải kết thúc chuyện này. "Pete, hãy làm những gì tôi yêu cầu - và tôi hứa tôi sẽ giải thích mọi chuyện cho anh khi nào có thể."
Anh dập máy. Setrakian và Nora đã lắng nghe toàn bộ cuộc nói chuyện.
Setrakian lên tiếng, "Anh đã gửi vi rút đi đâu ư?"
"Anh ta sẽ tiêu hủy nó. Pete sẽ chọn cách an toàn thay vì mạo hiểm - tôi hiểu anh ta quá rõ." Eph nhìn nhũng chiếc ti vi bày bán trên tường. Gì đó về anh trên bản tin... "Có cái ti vi nào còn chạy không?"
Họ tìm ra một chiếc còn hoạt động. Chẳng mất nhiều thời gian để tin tức lên sóng.
Họ phát một bức ảnh của Eph từ thẻ CDC của anh. Rồi một đoạn video mờ của cuộc chạm trán với Redfern, và một trong hai kẻ giả dạng mang một túi xác ra khỏi phòng bệnh. Bản tin nói rằng bác sĩ Ephraim Goodweather đang bị lùng sục như "một kẻ tình nghi" trong vụ mất tích các xác chết của các hành khách chuyến bay 753.
Eph đứng lặng. Anh nghĩ tới cảnh Kelly đang xem chương trình này. Tới Zack.
"Lũ cặn bã," anh rít lên.
Setrakian tắt ti vi. "Tin tốt duy nhất trong vụ này là họ vẫn coi anh như một mối nguy hại. Điều đó có nghĩa là vẫn còn thời gian. Còn hy vọng. Một cơ hội."
Nora nói, "Ông nói như thể ông đã có một kế hoạch." "Không phải kế hoạch. Một chiến thuật."
Eph nói, "Nói chúng tôi nghe xem nào."
"Ma cà rồng có luật lệ riêng, man rợ mà cổ xưa. Một trong số các quy định vẫn còn được duy trì là một ma cà rồng không thể băng qua dòng nước chảy xiết. Nếu như không có hỗ trợ từ con người."
Nora lắc đầu. "Tại sao lại không?"
"Lý do có lẽ nằm ở nguồn gốc của chúng, từ rất lâu rồi. Truyền thuyết đó tồn tại trong mọi nền văn hóa được biết đến trên hành tinh này, trong mọi thời đại. Lưỡng Hà, Hy Lạp và Ai Cập cổ đại, Do Thái, La Mã. Dù đã bằng này tuổi rồi nhưng tôi cũng chẳng đủ già để biết được. Nhung điều cấm kỵ này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tạo cho chúng ta ít nhiều lợi thế. Hai người biết thành phố New York là gì chứ?"
Nora lập tức hiểu ý. "Một hòn đảo."
"Một quần đảo. Chúng ta đang được bao quanh bởi nước. Những hành khách trên chuyến bay, họ được đưa tới các nhà xác trên cả năm quận phải không?"
"Không," Nora nói. "Chỉ bốn thôi. Không có Staten Island."
"Vậy thì, bốn. Queens và Brooklyn đều tách biệt với đất liền, ngăn cách bởi sông East và Long Island Sound. Bronx là quận duy nhất nối liền với đất Mỹ."
Eph lên tiếng, "Nếu ta có thể chặn những cây cầu. Dựng rào lửa phía Bắc Bronx, và phía Đông Queens tại Nassau..."
"Tại thời điểm này thì hão huyền quá," Setrakian nói. "Nhưng, anh nhận thấy chứ, chúng ta không cần phải tiêu diệt từng kẻ một trong số chúng. Chúng cùng chung một suy nghĩ, và tâm trí chúng hoạt động như một tổ ong. Chúng được kiểm soát bởi duy nhất một trí tuệ. Và kẻ đó có vẻ như đang mắc kẹt đâu đó tại Manhattan."
"Chúa Tê’," Eph nói.
"Chính kẻ đã có mặt tại bụng máy bay. Chủ nhân của cỗ quan tài mất tích."
Nora nói, "Làm sao ông biết rằng nó không ở lại gần sân bay? Nếu như nó không thể tự mình băng qua sông East."
Setrakian cười nhạt. "Tôi khá chắc chắn là nó không du hành tới tận Mỹ chỉ để trốn ở Queens." Ông mở cửa sau, tới những bậc thang dẫn vào căn hầm chứa vũ khí của mình. "Điều ta cần làm bây giờ là săn nó."
Phố Liberty/ công trường Trung tâm Thương mại Thế giớiVASILIY FET, nhân viên diệt chuột bọ của Cục Kiểm soát Động vật Gây hại thành phố New York, đứng trước hàng rào công trường phía trên phần móng trông như một "bồn tắm" khổng lồ tại khu vực từng là tổ họp Trung tâm Thương mại Thế giới. Anh đã bỏ va li kéo của mình lại xe tải đậu trên phố West, trong một bãi đỗ của Cơ quan Quản lý Cảng cùng những xe tải công trường khác. Một tay anh mang thuốc diệt chuột cùng bộ đèn đường hầm trong một túi thể thao Puma đỏ-đen. Tay kia anh cầm thanh cốt thép, một vật đáng tin cậy anh nhặt được tại một công trường, thanh thép dài một mét, hoàn hảo cho công việc dò tìm hang chuột và đẩy bả vào trong - và thi thoảng còn dùng để đánh lũ chuột hung dữ hoặc hoảng loạn.
Anh đứng giữa những thanh chắn đường và hàng rào công trường tại góc phố Church và phố Liberty, giữa những cọc cảnh báo cam-trắng đặt dọc lối đi bộ rộng rãi. Mọi người đang rảo bước tới cửa ga tàu điện ngầm tạm thời cuối phố. Không khí tràn trề niềm hy vọng mới, ấm áp, như vô vàn những tia nắng ban phước cho vị trí đã bị hủy diệt này của thành phố. Những tòa nhà mới giờ đây đã bắt đầu mọc lên, sau hàng bao nhiêu năm lập kế hoạch và đào đất, và có cảm tưởng như vết thương đen tối khủng khiếp này rốt cuộc cũng đã được hàn gắn.
Chỉ có mỗi Fet nhận ra vết nhờn bẩn trên những mép đứng của vỉa hè. Phân chuột quanh những thanh chắn bãi đậu xe.
Những dấu gặm trên nắp thùng rác góc phố. Những dấu hiệu hé lộ sự hiện diện của lũ chuột trên mặt đất.
Một công nhân làm hầm đưa anh xuống con đường đất dành cho xe tải chở vật liệu và vào bên trong đáy móng. Anh dừng lại trước một cấu trúc xây dựng mà sau này sẽ trở thành ga tàu điện ngầm WTC[I] PATH mới, với năm đường ray và ba ga dưới lòng đất. Hiện giờ, những con tàu màu bạc phải di chuyển lộ thiên dưới ánh sáng ban ngày khi băng qua phần đáy của bồn tắm khổng lồ này để tới các ga tàu tạm thời.
Vasiliy bước ra khỏi chiếc xe bán tải. Đứng giữa những bệ bê tông, anh ngước nhìn con phố phía trên, cách một khoảng bằng chiều cao của tòa nhà bảy tầng. Anh đang đứng tại đáy nơi hai tòa tháp đã đổ xuống. Thật choáng ngọp.
Vasiliy nói, "Quả là một nơi linh thiêng."
Anh thợ hầm có bộ ria muối tiêu rậm. Anh ta mặc áo sơ mi flannel thụng bên ngoài một áo sơ mi flannel khác sơ vin trong quần - cả hai đều thấm đẫm mồ hôi và đất - và quần bò xanh cùng đôi găng tay bám bùn móc ở thắt lưng. Chiếc mũ bảo hiểm công trường của anh ta dán đầy nhãn. "Tôi cũng luôn nghĩ vậy," anh ta nói. "Nhưng gần đây thì tôi không chắc nữa."
Fet nhìn anh ta. "Bởi lũ chuột ư?"
"Chính vậy, hẳn rồi. Vài ngày nay chúng ùa ra khỏi các đường hầm, cứ như chúng tôi đã sử dụng dầu đuổi chuột. Nhưng thứ đó hiện cũng ít được dùng." Anh ta lắc đầu, ngước mắt nhìn những bức tường vữa phía dưới phố Vesey, hai mươi mét bê tông với rất nhiều thanh giằng.
Fet nói, "Rồi sao nữa?"
Anh chàng nhún vai. Thợ làm hầm rất kiêu hãnh. Họ xây dựng thành phố New York, hệ thống xe điện ngầm và cống rãnh, cùng mọi phần móng đường hầm, bến tàu, cao ốc và cầu. Mọi ly nước sạch chảy ra từ vòi đều nhờ ơn thợ làm hầm. Đây là một công việc gia đình, nhiều thế hệ khác nhau cùng làm chung trên một khu công trường. Một công việc bẩn thỉu nhưng có ích. Vì thế anh chàng này chẳng muốn tỏ ra miễn cưỡng. "Mọi người đều sợ hãi. Chúng tôi đã có hai người đi khỏi, biến mất. Họ báo cáo vào ca trực, xuống hầm, nhưng chẳng bao giờ thấy báo cáo ra. Chúng tôi làm việc 24/7 tại đây, nhưng chẳng ai muốn trực ca đêm nữa. Chẳng ai muốn xuống hầm cả. Và đó là những cậu trẻ tuổi, những anh chàng gan dạ của tôi đấy."
Fet nhìn về phía chỗ đường hầm mở ra, nơi các cấu trúc ngầm sẽ liên kết với nhau bên dưới phố Church. "Vậy là không công trình mới nào trong mấy ngày vừa qua? Ý tôi là đào mới?"
"Không, kể từ khi đáy móng được đào xong."
"Và tất cả những chuyện này xảy ra cùng lũ chuột ư?"
"Khoảng đó. Thứ gì đó đã xảy ra với nơi đây, chỉ vài ngày trước thôi." Anh thợ hầm nhún vai, gạt chuyện đó sang một bên. Anh ta đã chuẩn bị một chiếc mũ công trường cứng, màu trắng cho Vasiliy. "Và tôi cứ tưởng có công việc của tôi là bẩn thỉu thôi chứ. Mà điều gì khiến một người muốn trở thành kẻ bắt chuột vậy?"
Vasiliy đội mũ, cảm giác gió đang đổi chiều gần miệng đường hầm. "Tôi đoán là do tôi bị nghiện sự hoàn mỹ."
Người thợ làm hầm nhìn vào đôi ủng của Vasiliy, chiếc túi Puma và thanh thép. "Trước đây anh đã làm việc này rồi chứ?"
"Tôi đi bất cứ đâu có lũ chuột bọ gây hại. Có rất nhiều thành phố bên dưới thành phố này."
"Còn phải nói. Hy vọng rằng anh có đèn pin rồi chứ? Và vài mẩu vụn bánh mì?"
"Tôi ổn mà."
Vasiliy bắt tay người thợ hầm và bắt đầu di chuyển vào trong.
Thoạt đầu, đường hầm có vẻ sạch sẽ tại những chỗ đã thi công xong. Anh đi dọc đường hầm vào vùng không có ánh sáng mặt trời. Các đèn vàng đưọc treo cách nhau khoảng mười mét để chiếu sáng đường đi. Anh đang đứng tại vị trí đã được xác định là nơi giao nhau của các đường nhánh. Đường hầm lớn này về sau sẽ nối ga mới PATH với trạm trung chuyển WTC nằm giữa tòa tháp số hai và số ba, cách đó nửa dãy nhà. Các đường hầm con khác sẽ nối với hệ thống nước, năng lượng và cống rãnh của thành phố.
Vào sâu hon, anh không thể không nhìn ra lóp bụi mịn vẫn bám trên các bức tường của đường hầm. Đây là một nơi thiêng liêng, giống như một nghĩa địa vậy. nơi các thi thể và các tòa nhà bị nghiền nát thành bụi.
Anh nhìn thấy các hang, dấu chân và phân, nhung không có chuột. Anh chọc gậy vào các hang, lắng nghe. Chẳng có gì hết.
Đèn treo công trường kết thúc tại một lối rẽ, phía trước là một màn đen sâu hút, mượt như nhưng. Vasiliy mang theo trong túi một đèn pha Garrity to, màu vàng, có tay cầm cong hình sừng bò, loại cường độ một triệu candela[II], cùng hai đèn pin Maglites nhỏ dự phòng. Nhưng ánh sáng nhân tạo trong một không gian tối kín sẽ vô hiệu khả năng sử dụng kính nhìn đêm, và đối với công việc săn chuột anh cần bóng tối và yên lặng. Vì thế, thay vì sử dụng đèn, anh rút ra một ống kính nhìn đêm một mắt, một thiết bị cầm tay có dầy đeo gắn chắc vào chiếc mũ công trường, và đeo lên mắt trái. Anh nhắm mắt phải, và cả đường hầm chuyển thành màu xanh lục. Kính quan sát chuột, anh vẫn thường gọi như vậy, bởi những con mắt nhỏ xíu của chúng sẽ sáng rực trong ống kính.
Không có gì cả. Bất chấp mọi bằng chứng chỉ ra điều ngược lại, lũ chuột đã biến mất. Đã bị xua đuổi.
Điều này khiến anh bối rối. Rất khó có thể di dòi lũ chuột. Ngay cả khi ta đã loại bỏ nguồn thức ăn của chúng, cũng phải mất tới hàng tuần trước khi chúng nhận ra thay đổi. Không phải một vài ngày.
Đường hầm giao với những lối đi cũ hon. Vasiliy băng qua những đường ray đầy rác rưởi đã không được sử dụng trong nhiều năm. Chất lưọng đất đã thay đổi, anh có thể nhận ra điều đó qua kết cấu đất mà anh đã khảo sát từ Manhattan "mới" - nơi bãi rác thải đã được sử dựng để xây dựng nên công viên Battery từ đống bùn - cho tới Manhattan "cũ", vừng đá nền nguyên gốc khô ráp.
Anh dừng bước tại một ngã hầm giao nhau để chắc rằng mình đã có đủ đồ nghề cần thiết. Khi nhìn dọc chiều dài của đường hầm cắt ngang, anh thấy, qua kính nhìn đêm, một cặp mắt. Chúng phản sáng trở lại giống như mắt của một con chuột, nhưng lớn hon, và cao hơn khỏi mặt đất.
Cặp mắt đó biến mất trong chóp nhoáng, vuột ra khỏi tầm nhìn.
"Ê?" Vasiliy hét lên, giọng vang vọng. "Ê, anh kia!"
Sau một thoáng, một giọng nói trả lời anh, dội lại từ các bức vách. "Ai ở đó vậy?"
Vasiliy nhận ra sự sợ hãi trong giọng nói đó. Một ánh đèn pin xuất hiện, nguồn sáng của nó ở tận phía cuối đường hầm, xa hơn rất nhiều vị trí mà Vasiliy đã bắt gặp đôi mắt. Anh kéo ống nhìn lên khỏi mắt vừa kịp lúc, bảo vệ võng mạc của mình. Anh tự giới thiệu, rút chiếc đèn Maglite nhỏ và chiếu lại làm dấu hiệu, rồi tiến lên phía trước. Tại vị trí anh ước chừng đã nhìn thấy cặp mắt, đường hầm giao với một đường ray ngầm khác có vẻ như vẫn đang được sử dụng. Ông nhìn không cho thấy bất cứ gì, không một cặp mắt lóe sáng, vì thế anh tiếp tục đi vòng theo lối rẽ để tới điểm giao kế tiếp.
Anh bắt gặp ba thợ hầm tại đó, đeo kính bảo hộ và đội mũ bảo hộ dán đầy nhãn, mặc áo flannel, quần bò, đi ủng. Một máy bom nước thải đang hoạt động, hút nước ra khỏi một chỗ rò. Những bóng đèn halogen công suất lớn lắp trên những chân đèn thi công chiếu sáng cả đường hầm mới giống như trong một bộ phim về sinh vật ngoài hành tinh. Họ đứng sát nhau, vô cùng căng thẳng cho tới khi họ nhìn thấy rõ được Vasiliy.
"Tôi vừa thấy một người trong số các anh ở đằng kia phải không?" anh hỏi.
Ba người nhìn nhau. "Anh đã thấy gì?"
"Tôi tưởng tôi đã thấy ai đó." Anh chỉ. "Băng ngang qua đường ray."
Ba thợ hầm lại nhìn nhau, và rồi hai người còn lại bắt đầu thu dọn đồ. Người thứ ba nói, "Anh là người diệt chuột phải không?"
"Phải."
Người thợ hầm lắc đầu. "Ở đây không còn chuột nữa."
"Tôi không có ý phản bác đâu, nhưng điều đó gần như là không thể. Bằng cách nào chứ?"
"Có thể giác quan của chứng tốt hơn của ta."
Vasiliy nhìn dọc đường hầm đã được chiếu sáng, về hướng vòi bơm nước. "Lối ra khỏi hầm ở kia phải không?"
"Đó là đường ra."
Vasiliy chỉ về hướng ngược lại. "Vậy đường này là gì?" Người thợ hầm nói, "Anh đừng đi đường đó thì hon." "Tại sao không chứ?"
"Này. Hãy quên những con chuột đi. Theo chúng tôi ra ngoài. Chúng ta xong việc ở đây rồi."
Nước vẫn đang nhỏ giọt xuống chỗ nền trũng. Vasiliy nói. "Tôi sẽ theo ngay sau thôi."
Người thợ hầm nhìn anh chòng chọc. "Tùy anh thôi," anh ta nói, tắt một cây đèn đứng, rồi nhấc một túi lên vai và bước theo những người kia.
Vasiliy quan sát họ rời đi, những ánh đèn lung linh xa dần dọc theo đường hầm, và rồi tối đi khi họ đi vào ngã rẽ. Anh nghe thấy tiếng rít của bánh xe tàu điện ngầm, đủ gần để khiến anh phải chú ý. Anh tiếp tục, băng qua một đường ray mới hon, chờ cho đôi mắt mình quen trở lại với bóng tối.
Anh bật ống kính nhìn đêm, mọi thứ dưới lòng đất chuyển thành một màu xanh lục. Tiếng vang từ những bước chân của anh thay đổi khi đường hầm mở rộng ra tới một khu vực chứa rác thải gần nơi các đường ray giao nhau. Những thanh dầm thép đóng đinh tán được dựng cách đều nhau, như những cột trụ trong một phòng khiêu vũ lớn. Một kho bảo dưỡng bỏ hoang nằm ở phía bên phải Vasiliy, tan hoang do bị phá phách. Trên bức tường gạch đổ nát của nhà kho là những cái tên viết theo kiểu chữ graffiti xung quanh hình vẽ tòa tháp đôi bùng cháy. Một cái tên là "Saddam", cái tên còn lại là "Gamera".
Trên một cột trụ cũ, một biển báo hiệu tàu xưa cũ từng dùng để cảnh báo công nhân:
WARNING
LOOK OUT FOR TRAINS (CẢNH BÁO CHÚ Ý TÀU)
Chữ T và chữ N trong từ TRAINS (TÀU) đã bị tẩy xóa, và một miếng băng dính đen được dính ngang đỉnh chữ ỉ tạo thành một chữ T, vì thế giờ đây biển báo hiệu trở thành:
WARNING LOOK OUT FOR RAT s (CẢNH BÁO CHÚ Ý CHUỘT)
Thực vậy, khu vực hoang tàn này đáng ra phải là lãnh địa của loài chuột. Anh quyết định chuyển sang sử dựng ánh sáng cực tím. Anh rút ra một cây đèn nhỏ từ chiếc túi Puma và bật nó lên, bóng đèn phát ra thứ ánh sáng xanh lam mát lạnh trong bóng tối. Dấu nước tiểu của loài gặm nhấm sẽ phát sáng huỳnh quang dưới ánh sáng đen, do thành phần vi khuẩn của chúng. Anh lướt ánh đèn khắp mặt đất nơi gần cột trụ, rác thải và chất bẩn lổn nhổn như ở bề mặt mặt trăng. Anh nhận ra một vài vết nước tiểu mờ và cũ, chẳng thấy có gì mới. Cho tới khi anh lướt đèn gần một thùng dầu gỉ nằm ngang trên mặt đất. Thùng dầu và mặt sàn bên dưới sáng rực, lớn hơn và sáng hơn bất cứ bãi nước tiểu chuột nào mà anh từng nhìn thấy. Một vũng khổng lồ. Ước tính theo hiểu biết của anh, thì vết này hẳn phải của một con chuột cỡ hai mét.
Đó là chất thải mới của một loài động vật nào đó lớn hon, có thể là một con người.
Tiếng nước chảy róc rách trên đường ray cũ kĩ vang vọng khắp những đường hầm hiu hiu gió. Anh nhận thấy có tiếng sột soạt, một chuyển động phía xa, hay có thể đó là do nơi này đã bắt đầu làm anh bồn chồn. Anh cất đèn tử ngoại và quan sát toàn bộ khu vực qua ống nhìn. Phía sau một cột trụ thép, anh lại bắt gặp đôi mắt rực sáng nhìn về phía mình - rồi nó quay đi và biến mất.
Anh chẳng thể nhận biết khoảng cách tới chỗ nó. Do ống nhìn một mắt và cấu trúc hình học của những cột trụ giống hệt nhau, nhận thúc chiều sâu của anh trở nên kém hẳn.
Lần này anh không chào hỏi nữa. Anh không nói gì, mà chỉ nắm thanh cốt thép của mình chặt hơn một chút. Những người vô gia cư, khi bị bắt gặp, rất hiếm khi hiếu chiến - nhưng đây có vẻ như một thứ gì đó khác. Cứ coi như giác quan thứ sáu của một người diệt chuột. Cái cách anh có thể đánh hơi thấy sự phá hoại của lũ chuột. Vasiliy bất chợt cảm thấy mình đang yếu thế trước số đông.
Anh rút cây đèn pha sáng có tay cầm và quét khắp căn hầm. Trước khi rút lui, anh thò vào túi, xé mở nắp bìa trên một hộp giấy đụng bả bột, và rải một chút bả xung quanh khu vực này. Bả bột có tác dụng chậm hơn dạng bả mồi ăn, nhung lại chắc chắn hon. Nó còn có tác dụng phụ trợ giúp lần ra đường đi của lũ xâm nhập này, khiến cho việc dò tìm tổ để đánh bả mồi dễ dàng hon.
Vasiliy vội vã dùng hết ba hộp, rồi, anh quay trở ra theo đường hầm với cây đèn bật sáng. Anh băng qua những đường ray còn hoạt động với thanh ray thứ ba có những hộp điện lắp bên trên, rồi ngang qua máy bơm nước thải, và men theo đường ống nước dài. Đến một chỗ, eảm thấy hướng gió trong hầm thay đổi, anh ngoái nhìn và thấy một khúc quanh rực sáng phía sau. Anh vội lùi lại và áp sát vào một hốc tường, căng mình chờ đợi. Một tiếng rú chói tai. Con tàu rít lên, băng qua, và Vasiliy thoáng nhìn thấy hành khách qua khung cửa sổ trước khi anh phải che mắt lại để tránh luồng khói cuộn lên cùng cát bụi.
Con tàu đi qua, và anh lần theo đường ray cho tới khi đến được một sân ga sáng. Mang theo cả túi và thanh sắt, anh nhấc mình khỏi đường ray trèo lên một sân ga vắng tanh, bên cạnh tấm biển đề, NẾU BẠN THẤY GÌ ĐÓ, HÃY NÓI GÌ ĐÓ. Chẳng ai như thế. Anh bước lên cầu thang lửng và đi qua các cửa xoay, trở lại con phố dưới ánh nắng ấm áp. Anh bước tới một hàng rào gần đó và nhận ra mình đã trở lại phía trên khu công trường Trung tâm Thương mại Thế giới. Anh châm một điếu xì gà bằng ngọn lửa xanh của chiếc bật lửa Zippo dùng khí ga butan, rồi rít một hơi chất độc để xua đi nỗi sợ hãi mà anh vừa trải qua bên dưới những con phố này. Anh bước dọc theo con phố dẫn về khu công trường Trung tâm Thương mại Thê giới, tình cờ bắt gặp hai tờ roi viết tay được ghim vào hàng rào. Anh màu của hai thợ hầm, một trong số họ đội mũ bảo hiểm, mặt lấm đất. Dòng tiêu đề màu xanh phía trên cả hai bức ảnh viết: mất tích.
chú thích[I] World Trade Center: Trung tâm Thương mại Thế giới.
[II] Đơn vị đo cường độ sáng. 1 candela tương đương với cường độ sáng của một ngọn nến thông thường.