- 4 -
Xã Minh thẫn thờ đẩy cánh liếp. Nghe dì Mơ hỏi, hắn mới như chợt tỉnh:
- Hỏng rồi, dì ạ. Tội nghiệp cả nhà còn một chiếc chiếu rách quấn cho nó là hết.
Dì Mơ dụi mắt, sịt mũi:
- Chôn ngay à?
- Dì tính, nó bé, còn đêm tối chẳng chôn ngay để làm gì? Phe giáp gì đâu!... Con chết, mà một hột thóc chả còn. Rõ khổ, đến chết đói tất.
Dì Mơ lại nhọc mệt cúi xuống manh áo đương vá dở dang:
- Biết bao giờ mới yên hàn? Bom đạn chẳng thấy đâu, mà đã nhăn răng cả ra rồi đấy.
Minh không nói, óc còn bận vì tiếng gọi, tiếng cười bên mâm cháo gà nhà cụ Chánh Bá.
Có tiếng chân người dừng ở ngoài sân.
- Chú xã có nhà không?
Xã Minh vội trả lời vọng ra:
- Tôi ra đây!
Hắn với cây tay thước dựng bên vách, càu nhàu: ‘‘Gớm, rét quá! Con đi canh, dì nhớ!’’
Xã Khước chờ hắn ở cổng. Minh và Khước là chỗ thân. Minh cau có:
- Rét mướt, lại đói kém thế này, làm gì chẳng nhộn. Nhưng làng ta, thì ngoài cụ Chánh Bá và vài nhà trên phố xưa nay cân ngô cân thóc, còn ai là có máu mặt nữa? Ôi chào! Đâu có cướp đến thứ nhà chúng mình.
Xã Khước trầm ngâm:
- Chú nói cũng phải. Nhưng cũng phải tuần giờ, nhỡ có chuyện gì khốn lắm kia.
Xã Minh chợt như thấy vụt qua hình ảnh dì Mơ bị đày đọa, cảnh xã Tèo nhăn nhó bên mấy gốc tre cháy dở, và lại mâm cháo gà nghi ngút...
- Mẹ kiếp! Họ ăn cho sướng, chơi cho sướng, thì kệ thây họ lo chứ!
Xã Khước ngạc nhiên, như trố mắt cố nhìn xã Minh qua đêm tối. Xưa nay xã Minh vui tính lắm, sao hôm nay đổ chứng phát bẳn như vậy?
- Chà! chú mày hôm nay cáu kỉnh tệ. Tại các ông các bà ấy ở tỉnh chạy về, nên làng mới phải cắt thêm tuần xóm thế này. Thôi, có tao loạn người ta mới phải nhờ đến mình. Rồi yên hàn, đâu chả về đấy!
Xã Minh càng hằn học:
- Thế sao lúc yên hàn người ta chả thèm nghĩ đến làng? Mà bây giờ dân làng đói nhăn cả ra đấy, người ta có ai thương!
Xã Khước chậc lưỡi:
- Chuyện!
Tự nhiên một không khí nặng nề như trùm lấy hai người. Xã Khước chẳng hiểu chuyện gì, đành cứ lầm lũi đi.
Bảy tám tay tráng đinh đã quây quần bên đống lửa nhỏ. Thấy hai người tới, họ oang oang cười nỏi:
- Ấy, ông trưởng xóm! Trưởng xóm gì mà bỏ đi đâu thế, động dụng thì làm sao?
Xã Khước sán lại đống lửa, hơ tay cho đỡ cóng.
- Trưởng với triếc gì! Làng cắt thêm tuần xóm cho chắc dạ đấy thôi. Này, tiện thể, dặn trước các chú nhé: Cứ tối đến lại đây rồi khuya ai về cứ về, song động dụng là phải chạy lại đằng tôi ngay... À, tớ vừa lại thăm xã Tèo. Thằng cu Nhớn nhà nó bỏ rồi. Chú xã Minh vừa về, thì tớ đến.
Tiếng cười bặt hẳn. Những nét mặt chất phác vụt đăm chiêu. Xã Khước đập mạnh tay vào miệng điếu cày cho tụt bã thuốc, dằn tiếng:
- Mà vét cả nhà cấm lấy được một hột lúa!
Xã Minh chưa dứt khỏi ý nghĩ lẫn vẫn trong đầu từ hồi làm cá bên vại nước, lại chồm lên:
- Đấy! Úi chào, canh với chả canh! Tôi như xã Tèo, đi ăn cướp cho rảnh chuyện!
- Chú chỉ được cái nói liều! Ăn cướp ở đâu? Chẳng sợ tù mọt gông ư?
- Rét mướt tuần giờ thế này, mà mai lại oặt xác ra làm. Mới trong Tết, chửa giáp hạt đã đói kém, phỏng tháng ba ngày tám làm thế nào?... Các anh có thấy nhà cụ Chánh Bá tối nào cũng ì-ọp tổ tôm ăn uống không?
- Cái chú này đến hay! Người ta có người ta ăn, can gì đến anh em mình.
- Thế can gì đến anh em mình lo tuần giờ đêm hôm thế này!
Một người vội xen vào như muốn cho êm câu chuyện:
- Ấy, ông Lý có nói cụ Chánh Bá bảo rồi các ông các bà ấy chả để thiệt cho anh em đâu.
Có tiếng thở dài.
- Nhà tôi đến ngô ăn cũng hết, chửa biết vay đâu bây giờ. Có vào vay cụ Chánh, đến mùa lại chẻ hoe một thành hai đấy.
Mỗi người một câu, quanh quẩn vẫn chuyện còn ăn, hết ăn, cân đay, cân thóc... Đống gốc tàn dần. Người nằm, kẻ ngồi đã lim dim ngủ. Riêng xã Minh thao thức mãi. Đầu hắn luẩn quẩn nào bà phán Thành mua cá, nào xã Tèo khóc con, nào mõ thúc thuế, nào mâm cháo gà nghi ngút... Xã Minh bực tức, xã Minh thương hại, nhưng chẳng biết làm gì, muốn gì. Những hình ảnh ấy chập chờn kéo qua kéo lại như quân đèn cù. Rồi xã Minh cũng ngủ thiếp đi.
Xã Minh vươn vai ngồi dậy. Bên cạnh, xã Khước ngáy pho pho. Bọn họ đi hết cả rồi. Hắn với chiếc ấm sành nước vối để bên đống tro còn hơi ấm, tợp một ngụm, súc miệng ùng ục. Sớm mai, giá buốt tệ. Nhà có mấy sào ngô, cấy rẽ thêm được mẫu rưỡi lúa chiêm, làm đất xong cả, chỉ mấy công tra hạt nữa là rồi. Hắn nghĩ vậy mới thong thả oằn oại đứng dậy, ra bên vại nước cho hai tay vào vụt nước rửa mặt, thở phì phì, rồi thong thả trở về.
Tới nhà, dì Mơ đã thổi chín cơm; thấy xã Minh, dì hối hả:
- Ăn cơm đi, rồi chạy lại đằng bà giáo. Hôm nay giỗ hết ông giáo, trong ấy có cho ra bảo đấy.
Không phải ở chỗ dì Mơ cấy rẽ mẫu rưỡi ruộng của bà giáo mà phải lụy như vậy đâu. Chẳng gì ông giáo cũng đã vỡ lòng cho Minh, và dạy cho Minh đậu được cái bằng sơ học yếu lược. Sau lũy tre dù cho là tây học đi nữa, chỗ tình nghĩa thầy trò vẫn được giữ chút nào phong vị của tình sư đệ ngày xưa. Vậy nên ngày mùa, bà giáo có bận cũng không cần phải ra tận tuông rẽ lúa, bao giờ Minh cũng sòng phẳng chia đều và gánh về tận nhà cho bà chẳng có tơ hào tham lam. Từ ngày có mồ ma ông giáo, Minh vẫn thường lui tới cất nhắc công việc giúp đỡ là đằng khác.
Người trai nơi đồng ruộng với hai mươi tuổi đầu đương lúc lớn lên, chẳng phong lưu gì song không công nợ, lại hồn nhiên vui vẻ thì kể ra cũng là khá tốt số ở sau lũy tre rồi. Minh vui vẻ và hồn nhiên là phải. Vì từ tấm bé đâu nó có phải cực khổ ăn không đủ no! Có bao giờ là dì Mơ không chiều quý chằm bặp nó? Còn công việc đồng áng, thì một khi đã sống và học trong nghề đó từ nhỏ, đâu phải là khó nhọc cực khổ nữa! Gương mặt sáng sủa với sức vóc khỏe mạnh, anh trai làng vui vẻ vô tư lự ấy thật đã dễ thương. Còn sinh thời, ông giáo ưa xã Minh cũng là phải; mà gia đình ông giáo mến xã Minh cũng là lẽ tự nhiên. Xã Minh biết thế nên cũng quý thầy học cũ của hắn; hễ có buồng chuối chín hay đánh được mẻ cá ngon là y cũng nhớ phần biếu thầy.
Cho nên thấy dì Mơ nhắc là nó nhanh nhẹn dọn cơm ăn. Nồi cơm ngô vàng khè đến ba phần bắp mới có một phần gạo, đĩa cà muối, mươi ngọn rau muống luộc trái mùa đỏ bẻm, nhưng hai dì con ăn ngon lành lắm, cho đến khi nồi cơm sạch nhẵn. Thóc cao gạo kém, bữa nào chả phải thổi ngon ngót đi một tí!
Xã Minh tần ngần bưng bát nước vối nóng.
- Chóng quá, dì nhỉ. Thế mà giỗ hết ông giáo rồi đấy. Tiếng là đằng ấy có năm mẫu ruộng, song mà có ai làm được? Cho làm rẽ, năm mẫu ăn còn có hai mẫu rưởi, lại thuế má. Bây giờ giời làm khó khăn mà bày ra cũng thật khỗ.
- Ai chả biết thế; song ngày giỗ thì phải có bát cơm quả trứng; vả lại phải có mâm cơm tạ họ chứ không người ta nói cho. Chắc bà giáo cũng dối giả cho khỏi tủi người chết đấy thôi.
Xã Minh như nghĩ ngợi, chưa hết băn khoăn:
- Cô Thọ cô ấy đến mười bẩy, mười tám ấy, dì nhỉ? Mà sao chỉ quanh quẩn trong nhà không chịu học làm học ăn?
Dì Mơ bật cười:
- Cái thằng đến hay! Thì cô ấy học may học vá chứ lại như dì con mình xém mày xém mặt ấy à? Con nhà học trò ai người ta chịu nổi. Mới lại năm nay hết trở ông giáo, làm gì mà chẳng chóng đi ở riêng. Ồ, mà thằng này chi hỏi vẩn vơ ; mau lên còn sang xem có làm giúp gì không chứ! Con nhớ đem mấy nải chuối gọi là của nhà để thắp hương cúng ông giáo cho phải đạo.
Xã Minh không nói, lẳng lặng xếp mấy nải chuối vào chiếc rổ. Tự nhiên hắn cứ thấy băn khoăn về cô Thọ; tự hắn cũng chẳng hiểu vì sao? Ai lại con gái mười bẩy mười tám tuổi đầu rồi, chỉ quanh quẩn ở trong nhà, hắn thấy thế nào ấy! Bảo là khó chịu, cũng chẳng phải. Mỗi lần gặp Thọ là y như hắn lại thắc mắc. Có cái gì ở nếp sống ấy thấy như xa lạ không quen với hắn, khiến hắn bực mình. Hắn không hề có ý gì ghét cô Thọ, nhất là mấy năm trước đây, mỗi khi mùa gặt đến, rẽ lúa là thế nào Minh cũng bắt cho Thọ cả hàng chục con muỗm để nướng ăn. Những con muỗm cánh xanh màu lá mạ, với cặp răng đỏ chót, nướng lên thơm ngon chứ đâu có hôi như châu chấu. Đôi nanh sắc nhọn của muỗm cắn lắm cái đau ra dáng, lắm khi làm Thọ phải nhăn nhó khiến Minh phát tức cười. Sao những cái năm xưa Minh thấy Thọ gần mình thế, như hai đứa trẻ cùng nô đùa thân thiết. Chứ mấy năm nay, Thọ lớn lên, đã là cô Thọ, và tự nhiên cứ thấy xa dần. Hai nếp sống như của hai loại người khác nhau. Minh đã thành xã Minh, như biết bao trai làng khác, hòa đời sống với đất ruộng, với rặng tre. Thọ vẫn là cô gái làng Thụy, song là một cô gái cách biệt quá, sống nhàn tản trong xa lạ. Thọ không phải là những cô gái quen với chiếc vồ đập đất, quen với cái gầu dây hay néo mạ ; Thọ cũng không phải là cô gái làng với đôi quang thúng trên vai từ chợ này qua chợ khác. Cứ vậy, từ ba bốn năm nay, mỗi mùa gặt đến là Minh lại thấy Thọ xa lạ thêm, và nó thấy như bất mãn một cái gì vậy.
Ấy thế, song người trai hồn nhiên đâu có bận tâm lâu được. Nó quên khuấy ngay, và cũng lại nhớ ngay. Chợt có việc gì tới đằng bà giáo hay có việc gì nói đến cô Thọ là y như nó lại vẩn vơ thắc mắc. Nhưng gặp chúng bạn hay mắc công chuyện gì, thì tưởng như đã không biết có cô Thọ là ai hết nữa...
Xã Minh vội vã băng qua mặt đê, khỏi ngõ xóm là tới nhà bà giáo. Xã Minh đến còn sớm. Bà giáo chít tấm khăn ngang, ngồi têm trầu trên phản nơi đầu hè, thấy Minh chào, vội hỏi ngay:
- Đã cơm nước rồi cơ à? Hôm nay ở đây hộ cô nhé. Khổ, có làm gì đâu. Giỗ hết thầy nên cô làm một vài mâm cơm cúng. Neo người chẳng có ai, nên nhắn anh tới đỡ.
Thấy Minh đặt rổ chuối trên thềm, bà giáo nhăn mặt:
- Dì con anh chỉ khéo bày vẽ. Chạy lại là quí rồi!
Nhìn vào trong nhà, thấy nơi bàn thờ gian giữa, Thọ đương lúi húi xếp dọn, bà gọi với:
- Thọ ơi! Anh xã Minh đem cho mấy nải chuối tịnh đây này. Đem bày lên mâm quả, con ạ.
Và quay lại Minh, bảo:
- Hãy còn sớm, mà tôi đã cho dặn trên hàng thịt rồi, lát nữa anh lên lấy hộ về làm cũng kịp chán. Bây giờ thì anh xem lại mâm ngũ quả giúp tôi; con Thọ tiếng thế là con gái chẳng ăn thua gì đâu, chứ em Sơn nhà tôi thì mới lên mười tuổi đầu còn dại lắm. Thật đến khổ.
Xã Minh xem việc nhà bà giáo như việc nhà mình chẳng chút nề hà, nên nhanh nhẹn đem rổ chuối vào. Thọ đương loay hoay với mâm ngũ quả thật. Mấy quả bưởi, chục cam sành còn xếp trên mặt bàn thờ. Minh cười:
- Cô không quen đâu, để tôi bày giúp.
Trong ánh sáng ban mai, Minh chợt nhận thấy nét mặt Thọ xanh và đượm buồn. Tiếng Thọ nhỏ và thân mật:
- Anh Minh sang hộ mẹ tôi đấy à? Vâng, anh bày giúp cho mâm ngũ quả ; tôi loay hoay mãi mà làm sao nó vẫn chỏng chơ thế nào ấy.
Minh ngạc nhiên. Ờ mà mọi khi nó vẫn cảm thấy Thọ cách biệt mình nhiều, như thể là lạ làm sao ấy ; thế mà lúc này chợt khác hẳn. Nó bần thần, chẳng biết nói sao. Nó cũng chẳng dám nói cái điều nó hằng nghĩ từ ít lâu nay. Nó đành chăm chú đem chuối xếp lên mâm rồi bầy bưởi với cam xen vào cho ngay ngắn mâm ngũ quả. Thọ vẫn đứng đấy. Minh có cảm giác là Thọ nhìn hắn, song hắn không dám ngẩng lên, chỉ khẽ hỏi:
- Cô cứ để tôi. Xong, tôi sẽ bao quét sạch sẽ. Cô có bận gì khác cứ đi làm đi.
- Cũng đã sắp sẵn cả rồi. Gạo nếp ngâm từ đêm, tôi dậy sớm đã vo sạch và xóc muối; chờ anh xong, bắc chõ hộ là thổi. Anh tính, có khách khứa gì đông đâu. Tiềm tiệm hai, ba mâm thôi mà... À, mà đêm qua ở đâu khóc thế, hả anh Minh?
Tiếng Thọ trầm trầm, Minh nghe quen quá, quen như tiếng cô Thọ mấy năm trước đây vẫn hỏi - ‘‘Có bắt muỗm cho tôi không đấy? Được mấy con hả anh Minh!’’
-- Tiếng khóc to lắm, song ít thôi. Hình như có ai mới chết ấy, phải không anh?
Xã Minh như vụt tỉnh:
- Vâng, anh xã Tèo mới bỏ thăng cu Nhớn.
- Tội nghiệp nhỉ. Nó làm sao thế?
Nói vậy, chứ nào Thọ có biết xã Tèo là ai đâu! Nhưng tự nhiên Thọ cũng cảm thấy như lây cái đau khổ của một người cùng làng. Mối thiện cảm ấy, Thọ cũng mới có gần đây thôi. Trước đây sao Thọ tự thấy như mình lạc lõng sống ở xóm làng Thụy; Thọ không thể nào sống cuộc đời của người dân đồng ruộng. Quanh quẩn ngày hai bữa ăn, ruộng nhà cho cấy rẽ, thày giáo tháng tháng lĩnh lương dư chi dụng, Thọ nhàn tản và êm ả sống, như rò cây mọc nơi góc nhà mau Iớn mà trắng muốt đâu có thở hút dạn dĩ nắng gió ở ngoài trời. Thọ xa nếp sống của dân làng Thụy, Thọ thấy bỡ ngỡ trong cái xã hội nhỏ bé ấy quá. Cả cho đến Minh xưa kia quen thuộc là thế cũng cứ dần dần xa lạ đi thôi. Thọ cứ mường tượng trông chờ một cuộc đời thế nào kia, khác với nếp sống tẻ ngắt này. Những cuốn tiểu thuyết Thọ đọc đi đọc lại càng làm cho Thọ nghĩ rằng rồi đây Thọ sẽ sống trong cái xã hội như thế. Thọ giữ mãi ấn tượng ấy và tin như vậy cho đến gần đây khi người Hà Nội tản cư về làng Thụy, bỗng nhiên Thọ cảm thấy đảo ngược cả? Bọn người tản cư tung tăng trên đê làng với những tà áo màu, với cánh quần lụa trắng, với bao vẻ giàu sang... bắt Thọ lại nghĩ tới những cuốn tiểu thuyết hằng đọc. Thọ đã gặp những người ở tỉnh; và Thọ cũng thấy xa lạ với họ, xa lạ hơn là với những người dân cục mịch. Thọ chợt cảm thấy mình nhỏ bé quá, tầm thường quá. Cái địa vị một cô gái ăn trắng mặc trơn đậu được mảnh bằng sơ học yếu lược, trước đây cho Thọ giá trị của một công nương nơi đồng ruộng... thì nay vụt tan bay. Lớp người đô thị tản cư về làng Thụy đã đảo lộn phần nào nhận xét của dân làng mà vô tình ném Thọ vào chỗ nhỏ bé lãng quên. Thọ thầm cảm hết nỗi bẽ bàng âm thầm ấy. Cuộc đời tiểu thuyết của mình, Thọ những tương bắt đầu, thì đã sớm vội chấm dứt ngay mất; và Thọ có cảm giác ghen tức cái bọn người đô thị tản cư kia quá! Thọ chơi vơi sống, không còn mối giây nào cho Thọ bấu víu; để Thọ khỏi ngỡ ngàng nép mình sống dưới bóng tre xanh rờn của làng Thụy này được.
Trong ánh sáng ban mai, lúc này nhìn Minh, Thọ mới chợt nhận ra gương mặt sáng sủa và vóc dáng lực lưỡng người con trai mới lớn...
Thấy Minh không đáp, Thọ nhắc lại:
- Tội nghiệp cho anh xã Tèo nhỉ? Chắc phải thương con lắm!
Nào Minh có đọc nổi được ý nghĩ của Thọ, nên thật thà trả lời:
- Tội nghiệp thì kể cũng tội nghiệp. Nhưng giá có sống cũng chẳng có gì mà nuôi nó. Chết lại hóa may!
Bàn thờ đã bày biện xong. Minh hì hục xếp gạch nơi hè bếp, bắc nồi chõ đồ xồi, và chiếc xanh lớn luộc thịt. Bếp hừng cháy. Ngọn lửa ấm làm mặt Minh đỏ bừng. Nó nhanh nhẹn cời củi cho cháy đều, vừa ngó chừng xanh thịt cho chín tới, vừa chốc chốc lo đánh chõ xôi cho lên hơi đều. Công việc thổi xôi, luộc thịt, trai làng ai là chẳng thạo?
Thọ nấu cỗ trong bếp. Không biết sao, chốc chốc Minh lại cứ thầm muốn ngó vào. Từ lúc nãy, Minh đã tự trách mình: ‘‘Nào cô Thọ có xạ lạ đâu, mà trước đây cứ hậm hực?’’ Chẳng lẽ đi gợi chuyện ra hỏi làm lành? Thọ tuy mải hi hoay xào nấu, mà không hiểu sao Minh đôi lần bắt gặp ngó ra nhìn mình. Mỗi lần như vậy, má Thọ hơi ửng hồng, không biết có phải vì lửa trong bếp? Và Thọ lại tươi cười vội hỏi:
- Sắp được chưa, hả anh Minh?
Phải đồ những hai chõ xôi. Ở nhà quê vẫn thế, nào phần ăn, nào phần biếu. Nhiều ít phải đó dĩa xôi, thiếu không được. Xôi đã chín, Minh không bắc chõ ra khỏi bếp để khỏi mất công trét lại nồi đáy. Nhìn quanh quẩn không có ai, đành ngượng ngập gọi bâng quơ:
- Nào có ai đấy không? Hộ tôi một tí dỡ xôi.
Tiếng Thọ khẽ cười:
- Còn có ai nữa mà gọi. Sao anh không bảo tôi? Bộ thằng Sơn thế ai dám cho vào bếp?
- Cô đang mắc nấu cỗ cơ mà!
- Rang sườn và nấu măng rồi. Còn có xanh chuối nấu, cứ để cho dừ không sao.
Minh vừa bỏ vung vừa nhẹ nhàng gỡ tầu lá chuối, thì Thọ đã tới.
- Cô cầm hộ cái rá này, kê gần miệng chõ, để tôi dỡ xôi ra. Xong còn đồ luôn chõ nữa.
Minh xúc vội xôi ra rá; hơi trong chõ bốc lên ngùn ngụt, như tắm vào mặt hai người. Minh thấy lòng nhộn nhịp quá, không dám nhìn lên, biết rằng cách đó có gang tay, Thọ đương nhìn mình. Tiếng nước sôi trong nồi đáy làm bật chiếc đũa úp kêu cạch cạch, phập phồng như trống ngực dồn dập đổ hồi. Không biết vì nóng hay vì rá xôi nặng chĩu, Minh nghe rõ hơi thở của Thọ cũng dồn dập như trống ngực của mình... chiếc xúc cuối cùng vừa đổ xong, Minh vội vã đón lấy rá xôi mà nói:
- Cô đưa tôi đỡ. Chắc nặng lắm, cô có mỏi tay không?
Trong hơi khói bốc mờ, lại vội vàng, nên tay Minh chụp lên bàn tay Thọ. Cả hai đành yên như thế mà đặt rá xôi lên mép phản, sợ rút tay ra thì xôi đổ mất. Minh luống cuống đỏ bừng mặt, và tưởng chừng như Thọ cũng vậy.
Minh đổ nốt rá gạo nếp vào chõ, đậy lá và úp vung lại cẩn thận, mà trống ngực chưa hết dồn dập. ‘‘Không biết cô Thọ có giận mình không?’’, Minh thắc mắc mãi. Ai bảo hấp tấp chụp phải tay cô ấy? Minh trách thầm mình và đồng thời lại ngây ngất vì cảm giác lạ lùng chưa bao giờ có. Bàn tay nhỏ nhắn mềm mại, đỡ rá xôi nóng mà sao vẫn mát dượi... Minh tần ngần. Nào có ai nhìn thấy đâu? Trong bếp có mình Thọ nấu cỗ. Bà giáo chốc chốc mới chạy xuống coi chừng nấu nướng. Vậy mà Minh vẫn thấy ngượng điếng cả người.
Xôi đã chín hết và đơm ra đĩa, thịt đã thái xong xuôi, mà Minh vẫn chưa hết thẫn thờ ngây ngất. Bàn tay mát dượi như vẫn còn nằm in trong lòng bàn tay Minh. Lòng Minh vẫn thắc mắc vẩn vơ thầm trách mình mãi.
Cơm cúng đã dọn xong, Minh tần ngần ngồi nơi thềm bếp. Nhà trên, tiếng ông thống Linh ê a cúng, và tiếng bà giáo cùng tiếng Thọ khóc hòa theo làm Minh thêm rối ruột. Thật hắn chẳng còn biết vì sao mà như vậy. Việc nhà bà giáo là việc của bà giáo. Giỗ hết thì phải khóc mấy tiếng, cổ tục vẫn vậy, nào có gì lạ! Vậy mà vì đâu Minh cứ vẩn vơ nao nao trong dạ, bồn chồn đến bực mình? Nó bực bội đứng dậy, toan đi về; nhưng cậu Sơn đâu không thấy, chẳng lẽ cứ bỏ đi.
Tiếng khóc vừa dứt là Thọ xuống, mắt còn đỏ hoe.
- Anh Minh hạ giúp tôi hai mâm để các ông các bà uống rượu đi!
Tiếng là giỗ hết, song đói kém, cực chẳng đã không đừng được nên bà giáo cũng chỉ mời những chỗ rất thân, và những nơi không thể lơ là - Cụ Chánh Bá cũng có đến. Chẳng gì trước đây ông giáo cũng có dạy ông phán Thành đến một năm ; và còn mồ ma ông giáo cũng thỉnh thoảng họp tổ tôm trong nhà cụ. Cụ Chánh Bá chẳng để ý đến xã Minh, song xã Minh nhớ lắm. Hắn nhớ đến thái độ của ông phán Thành, đến rổ cá chiều qua dì Mơ đem về. Hắn nhớ đến mâm cháo gà nghi ngút, đến xã Tèo gái cuốn chặt thằng cu Nhớn vào manh chiếu rồi tay cầm mai, tay cắp thúng, lẩn vào đêm tối. Mới đêm qua đây thôi, lâu la gì đâu!...
Tiếng mời, tiếng nói... Minh thấy ngao ngán quá, nên ngồi thừ ở hè bếp, lơ đãng cầm que gạt mấy cục than chưa tắt hẳn. Có liếng chân bước nhẹ sau lưng. Minh quay lại. Thọ đặt hai liễn cơm trên chiếc mâm nhỏ:
- Anh Minh hộ tôi nốt hai liễn cơm lên nhà nhé. Thế là xong.
Thọ thở ra, ngồi ghé trên mép phản. Minh ái ngại:
- Được, cô để đấy tôi đem lên... Thôi, chẳng nên buồn nữa, cô ạ. Thế là đầy đủ, ông nhà chẳng có điều nào phải ân hận.
Nó đoán chừng vậy, nào biết Thọ nghĩ gì đâu? Không thấy Thọ nói gì, Minh đứng dậy bưng hai liễn cơm lên nhà trên. Trở xuống, vừa dựng mâm ở chân tường, ngửng lên, Minh đã bắt gặp đôi mắt Thọ. Đôi mắt đen láy, không biết sao cứ làm cho Minh phải xốn xang trong lòng. Nét mặt Thọ bơ phờ, có lẽ đêm qua phải thức khuya để sửa soạn, mấy sợi tóc mai dài nhỏ mướt dán lên thái dương lấm tấm mồ hôi, và xòa xuống đôi má ứng hồng phơ phất ít lông tơ... Minh thẫn thờ nhìn, và tự nhiên luýnh quýnh.