← Quay lại trang sách

- 9 -

Có tới hai tháng, kể từ buổi trưa địch bắn phá ụ đất trên đê làm chết con trâu nái của lão Chánh Bá cựu. Sau những ngày nhớn nhác, dân làng Thụy lại lầm lũi sống, và quen lần với tiếng máy bay, với tiếng đạn nổ. Thỉnh thoảng máy bay địch vẫn lảng vảng song chúng không bắn nhiều nữa, và dân làng đã quen tìm chổ núp cho nhanh.

Lớp học, Văn vẫn tiếp tục, song không còn ở tiền đường văn chỉ, mà đem vào nhà thờ họ ở xóm đồng, tiện bề cho trẻ ẩn nấp. Lớp học cũng tẻ dần, vì ai nấy đều cảm thấy giông tố vẫn đè nặng trên đầu. Những niềm hân hoan tin tưởng xem cách mạng như một phép mầu cởi mở, xây dựng, đã chìm biến lần và để chỗ cho kinh hoàng, hoài nghi. Ai nấy chỉ còn một ý nghĩ: ‘‘Nếu địch qua làng? Bao giờ thì chúng đi qua? Chạy đi đâu?’’, và bàn tán ngày này qua ngày khác. Phủ bộ cũng có lệnh tản cư lên an toàn khu. Một vài gia đình có máu mặt đã đi thật. Những người dư dật hồi nọ chạy về làng Thụy nay cũng đã tản cư quá vào vùng đồng chiêm, gần Đồng Quan. Làng Thụy cứ lần lần tẻ lạnh như người bệnh kiệt sức, thoi thóp nằm chờ số mệnh.

Văn cảm thấy như vậy. Hồi này Văn ít đi lại, suốt ngày ở lì trong nhà bà giáo, nếu không thì lại qua bên dì Mơ. Làm màu đã xong, ngô đã tra đủ nên ít việc, dì Mơ cũng chỉ quanh quẩn trong nhà. Mỗi lần Văn qua là dì mừng lắm, hỏi Văn đủ chuyện. Dì đem cả chuyện Minh ra than thở, nhất là tao loạn này chỉ mong cho Minh lấy vợ rồi muốn sao thì sao, dì cũng được yên trí. Tư tưởng trường tồn ở người đàn bà Việt thật là bền bỉ; giặc giã không thể làm cho quên, nghèo đói không thể làm cho sao nhãng. Phải gây dựng gia đình cho được! Nếu không thì dì Mơ làm gì còn có lẽ sống? Nếu không, dì còn chịu khổ cực làm chi? Đời dì sẽ hết ý nghĩa. Cho nên dì đã nói hết, nói hết... để Văn biết, và nhờ Văn khuyên bảo Minh. Ngày nào mà Minh ưng chịu và dì lo xong cho Minh lấy vợ, nhất là lấy được đĩ Bèo, thì dù cho địch bắn phá mà nói dại dì có làm sao đi nữa, dì cũng vui lòng. Mà lo thì dễ lắm, nhất là vào lúc giời đất loạn ly này, làm gì mà chẳng giản tiện dễ dàng!

Văn không biết nói sao, và cũng chửa biết nên khuyên Minh như thế nào? Văn hiểu những thắc mắc và ao ước mơ hồ của người dân Việt đương muốn vươn lên cao, Văn hiểu Minh, và cũng biết Minh tin tưởng ở lời khuyên của mình. Nhưng thật sự ra Minh đã thông cảm được hết mọi ưu tư hoài bão của Văn đâu? Còn xa nhau quá. Phải một thời gian gần gũi nữa mới có thể dắt tay nhau mà tiến lên được. Cho nên mỗi lần dì Mơ nhắc nhở đến chuyện lo vợ cho Minh, là Văn lại cố an ủi dì, và nói lảng sang những lo âu của thực tại, để lưu ý người đàn bà nơi đồng ruộng này đã nhiều khi quên hẳn thực tại, có lẽ vì đã không ý niệm được những biến chuyển sâu xa của xã hội mà ảnh hưởng bên ngoài đương thúc đẩy diễn tiến thêm mau lẹ. Tòa nhà đương rạn vỡ, mà ác hại thay, người ở bên trong vẫn không hay!...

Làng Thụy cứ thoi thóp sống trong chờ đợi, cứ lo, cứ vội vã ẩn nấp khi máy bay sà tới, và cứ làm, cứ sống.

Mùa mưa phùn đã lần lần kéo tấm màn ẩm ướt lê thê lên đồng bằng Bắc Việt. Lạ cho cái năm Đinh Hợi, sao mưa xuân năm đó lại dai dẳng đến thế. Trời xám đục như li bì, mưa cứ lặng lẽ rơi ngày này qua ngày khác có tới nửa tháng rồi; mưa rơi đều như bột rắc trắng xóa trong không gian. Ngõ xóm lầy lội, nhơ nhớp, mà mưa vẫn cứ rơi, rơi mãi.

Văn không thể làm gì được nữa. Lớp học đã tan rã. Cán bộ phủ lui tới về làng nhắc Văn cảm thấy sự có mặt của mình ở chốn thôn xóm hẻo lánh này là thừa, và từ chỗ thừa đã trở nên khó chịu cho những con mắt thiếu thiện cảm ấy. Văn chợt nhớ lại câu hỏi của Minh:

- Anh Văn à, anh có định công tác gì không?

Dù Văn có muốn hòa mình vào xóm làng, canh tác ruộng đất cho bà giáo để biến thành một anh Minh khác, thì cũng không thể được nữa rồi!

Văn đã trót là một thanh niên trí thức ở thành thị; dù chàng có muốn, người ta cũng không cho chàng lột xác hòa mình vào đám người chất phác này được. Văn không nghi ngờ gì ở Minh hết; chàng hiểu rõ lắm. Người ta đã hỏi Minh, đã bảo Minh hỏi Văn như vậy. Cho nên chàng cười, và đã thân mật trả lời:

- Anh chẳng nói với chú là thủ đô tác chiến nên vội vã tản cư, chờ liên lạc được với khu là sẽ nhận công tác ư?

Văn ngừng lại, nhìn Minh; Minh đỏ mặt. Văn vỗ vai Minh, nhẹ nhàng nói tiếp:

- Thế rồi thấy đằng bà giáo đơn chiếc quá, lại được gặp dì và chú càng thêm mến, nên quên phứt đi. Mới lại cơ quan ở Việt Bắc tưởng anh vướng lại ở thủ đô mà cũng chẳng nghĩ gì đến nửa. Nhưng... tại sao chú lại hỏi anh thế?

Minh luống cuống chưa kịp trả lời, Văn đã tiếp:

- Ý hẳn các ông cán bộ phủ thấy tôi nhàn tản ở đây nên hỏi chứ gì? À, chú cứ trả lời là tôi nghỉ dưỡng sức ít ngày rồi lại lên Tuyên Quang lãnh công tác.

Minh vội hỏi:

- Anh tính đi thật đấy à? Bữa nào anh đi?

- Tôi chưa định hẳn; nhưng sớm muộn rồi cũng phải đi chứ!

Minh xịu mặt, buồn thiu...

Nét ngay thật của Minh làm Văn thương hại.

Nhưng giờ đây nhớ lại, Văn cũng thấy cần phải tự đặt cho chính mình câu hỏi:

- Anh có định công tác gì không?

Dĩ nhiên Văn không thể kéo dài mãi cái lối sống tản cư này được? Nhưng công tác... thì những ngày ở Nam Bộ với sáu tháng ở thủ đô trước đêm lịch sử đã cho Văn một nhỡn quang khác...

Văn bó gối ngồi trên tấm ngựa ngoài hè có cả hàng giờ để chờ đêm xuống. Màn mưa bụi vẩn lê thê buông trên xóm làng đồng ruộng. Cực khổ cho con người biết mấy, nhưng đất màu ẩm ướt sẽ cho ngô lúa được nẩy mầm tốt tươi. Văn cảm thấy lòng mình lắng xuống và chín chắn thêm được phần nào. Chàng giật mình vì tiếng cười khanh khách sau lưng:

- Anh Văn nghĩ gì mà thần lần ra thế?

Thọ để đĩa củ dong khối nghi ngút lên tấm ngựa.

- Mưa phùn ướt át chẳng còn đi đâu được. Mẹ em bảo luộc ít củ dong, anh xơi cho nóng.

Văn cười, cái cười gượng gạo vô nghĩa lý, khi không còn biết nói gì?

Thọ đứng tựa vào cánh cửa, nhìn ra sân. Ánh sáng ẩm ướt từ bên ngoài hắt vào làm nổi bật đôi mắt đen láy như đầy u ẩn. Văn chợt nhớ đến Minh, và nhớ lời dì Mơ ân cần. Văn tưởng chừng như hàng rào tre xanh đương rung chuyển, mà làn nước tù hãm muốn giao động.

Văn nhìn đĩa củ dong:

- Tưởng nên để dành, lúc nào có chạy giặc đem theo luộc ăn cũng đỡ.

Thọ quay phắt ngay lại:

- Ừ nhỉ! Liệu có yên được không, hả anh? Mấy hôm nay mưa thế này không có máy bay đỡ phải trú ẩn; nhưng nào biết là được bao lâu?

- Chắc gì mưa? Lúc chúng nó hành quân, cần đi là đi chứ mưa mà làm gì? Có cái cứ nên cẩn thận mà thôi. Nói dại, nếu quân Pháp phá ụ qua làng ta, thì ở nhà định thế nào, cô Thọ?

- Nào em biết! Thì cũng liều chứ sao?

Thì cũng liều, nghĩa là chẳng biết làm thế nào cả? Cứ kiên nhẫn mặc số mệnh! Văn thở dài. Chính Văn cũng chưa biết sẽ làm thế nào? Văn đột nhiên hỏi:

- Cô có nghĩ đến chuyện ra ngoài tỉnh không?

Thọ mở to mắt, sửng sốt nhìn Văn. Câu hỏi đột ngột quá, Thọ không ngờ, nên bối rối:

- Ra tỉnh? Ra Hà Nội ấy à? Tại sao anh lại hỏi vậy? Mà ra thế nào được cơ chứ! Pháp nó chiếm mất rồi còn đâu?

Văn cười:

- Tôi hỏi thật đấy. Nghĩa là khi nào thuận tiện, thái bình về sau này... Nếu không, ở nhà cô làm gì được? Cô có quen làm ruộng đâu?

Văn ngừng lại, nhìn Thọ. Thọ vẫn nhìn ra ngoài sân, có lẽ chẳng biết nghĩ ra sao về ý kiến của Văn.

- Hay cô muốn mãi mãi ở đây. Thế cô có nghĩ đến chuyện học công việc đồng áng không? Kể cũng chẳng khó; ấy, thỉnh thoảng qua bên dì Mơ tôi bắt chước học mà xay lúa, giã gạo, giần, sàng được cả?

Văn ranh mãnh lơ đãng nói tiếp:

- Kể Minh cũng hay; thật dễ chịu. Chỉ khổ một cái là cứ lang thang thế này, chẳng biết rồi chú ấy muốn cái gì nữa?

Thọ không đáp. Đôi lúc Thọ mơ hồ cố nghĩ đến những ngày mai, nhưng nào biết làm gì hơn được? Ngay đến nỗi lòng u ẩn cũng đành âm thầm chờ, chờ mãi... Nhưng tại sao Văn lại hỏi như vậy? Văn có ý gì? Thọ hơi đỏ mặt. May mà bóng tối đã xuống hẳn, ai có thấy? Thọ chưa biết nói sao, thì ngoài ngõ xóm nghe có tiếng ồn ào. Bà giáo hớt hải gọi:

- Cậu Văn ơi! Cậu Văn!

Văn vội vã chạy ra cổng.

- Không biết có chuyện gì mà thấy nhộn nhạo cả lên thôi! Cậu chạy ra xem đi.

Con đường đất thịt trơn như đổ mỡ, Văn không nhớ trượt chân đến mấy lần mới tới được bờ đê. Trời tối, nên chỉ thấy lố nhố những người. Từ mặt đê cao, nhìn về hướng Hà Nội thấy ánh đèn sáng rực. Mà lạ, sao lại gần quá. Ánh đèn pha rọi cả lên trời! Mọi người bàn tán, nỗi hãi hùng lo âu tràn ngập. Văn chợt nhận ra tiếng Minh gần đấy; chàng lẳng lặng lại gần, ghé vào tai Minh:

- Chú là Ủy viên liên lạc, phải chạy lên xã trên lấy tin tức chứ!

Minh quay lại thấy Văn:

- Tôi quên mất nhỉ.

Nói rồi, Minh chạy vụt đi. Dân làng kéo lên mặt đê mỗi lúc một đông. Ai nấy nhớn nhác, mà cứ nhớn nhác vậy thôi, chưa biết phải làm gì và nên làm gì. Thấy Minh trở về, mọi người xô lại hỏi. Minh thở hồng hộc:

- Quân Pháp chúng nó kéo tới làng Chẩy rồi. Chúng đóng ở đấy, rọi đèn pha ra tứ phía nên sáng rực trời như vậy.

Văn ngắt lời:

- Thế sao không thấy phủ bộ cho tin tức gì cả?

- Chúng nó theo mặt đê, từ Vĩnh Tuy kéo về xuôi, đi băng băng, tầu bò đi trước phá ụ, mạnh ai nấy chạy. Phủ bộ ở đường số một có hay biết gì đâu? May mà tới Chẩy tối quá chúng đóng lại, chứ sớm một chút là xã mình chạy cũng chẳng kịp. Tôi lên xã trên vừa gặp Ủy viên liên lạc xã Chẩy mới hớt hải chạy xuống cho biết. Anh ta đương thăm ngô ngoài đồng, nghe thấy ầm ầm, nhìn lên mặt đê thì xe địch tới nơi rồi; thế là bán sống bán chết chạy về xuôi.

Mọi người nhao nhao. Chủ tịch xã, Ủy viên quân sự xã đều có mặt. Thấy mọi người lúng túng, Văn xen vào:

- Bây giờ tối chúng không dám tiến đâu, song mai sớm thế nào chúng cũng qua làng ta. Ta hãy tạm lánh vào trong đồng chiêm nghe ngóng, rồi chờ lệnh phủ bộ đã.

Kể cũng không còn cách gì hơn. Đành là cắt người coi ở đầu làng, và luôn luôn liên lạc với xã trên để báo tin cho kịp thời. Đó là việc của Minh.

Văn về tới nhà thì mấy mẹ con bà giáo vẫn ngóng chờ tin tức ở cổng. Văn hối thúc sửa soạn vào miền đồng chiêm cho kịp. Còn biết đem gì theo, và để gì lại? Thấy bà giáo và Thọ lúng túng xếp dọn, Văn thương hại. Lúc này đây, nào mình gì gia đình bà giáo, có lẽ cả ngàn, cả triệu gia đình khác cũng đương lúng túng.

Văn giục:

- Thôi, cô Thọ đi nấu cơm, nắm lại, mai sớm đem theo đi ăn; để tôi thu xếp với bà cho chóng.

Văn nhặt nhạnh gói ghém làm mấy tay nải. Vừa xong, đã nửa đêm. Văn nhìn bà giáo, ái ngại:

- Bây giờ thì bà và các em nằm nghỉ lưng một chút. Con qua dì Mơ xem sao, kẻo chú Minh còn lo liên lạc lấy tin cho cả làng. Con về là đi ngay mới kịp.

Dì Mơ cũng đương lúi húi thu dọn. Nhưng khổ, có gì để đem theo, ngoại trừ mấy bộ quần áo vá? Gia sản của người dân quê Việt đâu có thể đem theo được, nếu không phải là đôi bàn tay cần cù?... Văn giúp dì Mơ chẹn cửa ngõ cho chắc chắn, để dì kịp thổi nổi cơm và rang ít muối vừng.

Vừa xong thì Minh xô cửa vào. Minh ngồi thừ trên chõng tre, lo lắng nhìn Văn:

- Làm thế nào, hả anh?

- Thì đã bảo là hãy tạm lánh vào khu đồng chiêm xem sao đã. Dì đã sửa soạn xong cả rồi. Tôi nghĩ dì vào trong bà giáo cùng chạy, cho có người nọ người kia. Tôi ở lại khi nào địch tới làng, rút lui vào trong đồng cũng vừa. Còn chú... sớm tinh sương vào trong bà giáo, tôi chờ chú nhé. Chứ bên này ở xóm bãi chạy qua mặt đê cao, chúng nó bắn chết. Thôi, chú lên trạm canh, có gì lạ thổi còi cho dân làng biết mà chạy cho kịp.

Dì Mơ đã khóac tay vải lên vai, sụt sịt:

- Này Minh, cầm gói cơm nắm có sẵn vừng trong đó rồi. Nhớ nghe anh Văn dặn đấy. Sáng mai vào trong bà giáo đi cùng anh Văn.

Cánh liếp khép chặt; Minh lấy dây thừng buộc lại cẩn thận, rồi ba người rảo bước qua ngõ xóm, băng qua con đê cao tới nóc nhà.

Hai mẹ con bà giáo và dì Mơ đi vào miền trong. Họ hẹn gặp nhau ở chùa làng. Thọ nhất định đòi ở lại trông nhà, nói khi nào xe quân Pháp đến sẽ cùng chạy với Minh và Văn cũng kịp.

Đêm lạnh buốt, tối đen như mực. Cuối tháng giêng, mưa xuân mà còn giá lạnh biết mấy. Tiếng gọi nhau, tiếng xào xạc, bóng người nhấp nhô. Kinh khủng lẫn buồn rầu phủ kín lên dãy làng nhỏ yếu đuối ở ven sông Hồng.

Minh về tới cổng thì tiếng động cơ nổi dậy. Ba người vừa ra khỏi hàng rào tre cuối cùng, thì xe quần địch tới đầu làng, ụ đất đắp trên đê làm chúng phải ngừng lại. Những loạt súng bắn ụ rền vang, xen lẫn liên thanh và súng trường. Mấy chiếc phi cơ chiến đấu đen sì lượn vòng thúng, là sát gần ngọn cây, kêu xé trời nhức óc. Bọn người tản cư ban đêm đã tới các làng miền trong, còn những người nán lại đi sau chưa đủ thời giờ dời xa, đành nằm nép xuống luống cày, dưới các hàng ngô mới lên cao độ nửa thước.

Văn chỉ kịp giật vội tay Thọ và tay Minh cho ngã chúi xuống nằm rạp cạnh mình là máy bay xẹt ngang đầu đồng thời với một loạt liên thanh. Ba người nín thở, tự thấy tính mệnh treo bằng sợi tóc. Chưa kịp ngẩng lên, lại một chiếc khác vụt qua. Tay Thọ vẫn nằm gọn thon lỏn trong bàn tay Văn và run bần bật.

Văn khẽ nắm chặt như an ủi và khuyến khích bình tĩnh. Tiếng Thọ rên rỉ:

- Anh Văn ơi, nguy quá... Anh Minh có đấy không?

Tiếng Minh như nghẹn trong cổ:

- Có! Hay là chúng ta chạy mau cho xa hơn chút nữa.

Văn vội giữ chặt cánh tay Minh như muốn đè xuống đất:

- Không được. Yên trí mà nằm im. Chạy, chúng bắn chết.

Tiếng máy bay qua đầu; gió nơi cánh quạt máy bay thổi ngả rạp hàng ngô xòa cả vào mặt ba người. Đầu Thọ gục vào cánh tay Văn ; Văn thấy rõ hơi thở qua tay áo.

Không hiểu sao, một ý nghĩ quái ác vụt qua đầu chàng:

- Chú có nghĩ đến chuyện dân quân kháng chiến xung phong giết giặc không?

Thấy Minh không đáp, Văn thản nhiên nói tiếp:

- Vậy mà những ngày đầu ở miền Nam, người thanh niên đã vác tầm vông vạt nhọn xung phong giúp người ta cướp chính quyền, và chiến đấu đấy. Tôi hỏi chú là để muốn biết xem người ta bảo chúng mình chiến đấu như thế nào đấy thôi!

Văn ngừng lại, day qua phía Thọ. Mặt Thọ tái mét.

- Không nên sợ quá, cô Thọ ạ! Chú Minh, chú tưởng cứ máy bay và súng bắn ụ như thế kia là Pháp thắng được à? Không, chúng không thể được đâu! Càng thế chúng chỉ càng mau thua mà thôi. Có điều là rồi ai sẽ được đây?

Nói xong, Văn mới thấy là mình vô lý. Làm sao mà Minh hiểu nổi ý nghĩ của mình được?

Ụ phá xong, đoàn xe địch tiến về hướng Nam, để lại một toán đóng án ngữ ở trạm canh giữa làng. Chỉ còn tiếng ‘‘tắc bộp’’ nổ rời rạc như trống cầm canh.

Khỏi cơn kinh hoàng, người dân quê biết chưa thể trở về nhà, đành dắt díu băng qua cánh đồng bát ngát, tiến về miền lầy lội của đồng chiêm. Mưa rơi, rơi đều, phủ kín thôn quê trong làn nước mờ mờ. Mây đục vẩn, lừ lừ trôi đợt này qua đợt khác, đem giá lạnh và ẩm ướt phủ lên cảnh vật âm thầm buồn chết. Đồng quê xưa u tịch, nay nhiễm đầy thê lương và khủng khiếp. Làn nước mỏng, trắng mờ, đem cả một màu tang chế lên chuỗi làng nhỏ ven sông Hồng.

Văn lầm lũi đi, cố tránh những cây ngô non mơn mởn. Thọ và Minh cũng im lặng đi bên cạnh. Giờ đây có lẽ hai người đã cảm thấy đồng ruộng này không đủ đảm bảo nuôi họ nữa; giờ đây có lẽ hai người mới bất đầu biết thế nào là chiến tranh, một cuộc chiến tranh không tên tuổi.

Tới chùa làng Xuyên đã gần ngọ. Cả bà giáo lẫn dì Mơ đỏ mắt chờ. Mấy nắm cơm gối hồi đêm đã lạnh ngắt, không còn ai muốn nuốt trôi. Đột nhiên, Văn như thể cây trụ chính cho hai gia đình bấu víu ; ai nấy chỉ còn chờ Văn nói sao thì làm vậy.

Nhờ đến sớm, dì Mơ xin được mớ rơm rối, trải trên nền đất nện, đủ cho hai tấm chiếu. Gia đình bà giáo và gia đình dì Mơ thu gọn trên hai chiếc chiếu ấy. Mấy chiếc tay nải nâu chất gọn một gốc.

Minh thần mặt ngồi sát bên Văn. Có lẽ Minh nghĩ lung lắm, mà đầu óc hẳn vẫn trống rỗng; Thọ ngồi dưới chân mẹ, đăm chiêu nhìn trong không trung. Văn nghỉ một lát rồi đứng dậy.

- Bây giờ thì hãy ngủ đã ; qua đêm nay xem sao rồi sẽ liệu. Đi từ đêm chắc các bà và các em đều mệt.

Dứt lời, Văn kéo Minh ra trước sân chùa. Trên hè, bọn người tản cư chen chúc nằm ngồi. Đông, đông lắm. Bao thân hình co ro trong bộ quần áo nâu cũ kỹ. Những nét mặt sạm nắng, hốc hác và hãi hùng. Họ ngồi chờ...Trong hoang mang hoảng hốt ra đi, họ phó mặc cho trời.

Người ta bảo họ đi, đi xa nữa.

Mưa vẫn rơi đều. Họ mệt nhọc và lo âu. Xa xa tiếng nổ thưa thớt, tiếng động cơ xe còn vẳng đưa lại. Sau làn nước, làng ẩn hiện trong lùm cây xanh rì có những ngọn cau dướn mình in lên trên nền trời xám. Xa nữa, phía chân trời, vài đám khói đen bốc cao điểm mươi lưỡi lửa đỏ hồng. Họ buồn rầu và lo âu thay cho nơi chôn rau cắt rốn. Nào biết có thoát khỏi bị tàn phá không? Những gian nhà chật hẹp đủ che mưa nắng, những mảnh vườn nhỏ bé... hết thảy là quý báu vô ngần. Đó mới là lẽ sống của họ, vì chỉ những thứ đó mới đem lại cơm áo và ấm áp cho bản thân.

Nay họ đành ngồi chờ. Về không dám về, đi không dám đi. Dù người ta khuyên bảo họ dời bỏ quê hương để đi, đi lên ‘‘chiến khu’’, ‘‘an toàn khu’’, mà sinh cơ lập nghiệp, vừa trường kỳ kháng chiến vừa tránh cảnh tàn phá, lại xây dựng thêm cơ sở mới. Nhưng tâm hồn mộc mạc, bình dị và thực tế của họ không thể khứng chịu các dự định viển vông, và cũng không thể mường tượng nổi cái tương lai trong hứa hẹn bâng quơ như thế. Cho nên mặc dầu mọi lời biện thuyết, mặc mọi sự đe dọa, ít người bỏ chốn quê hương nghèo nàn để giấn mình vào một cuộc phiêu lưu mới. Phần đông vẫn lặng lẽ cố bám lấy mảnh đất bao năm quen biết, và liều chờ cơn bão táp.

Thì nay cơn giông tố đã nổi dậy. Nhưng nghĩ tới ra đi, họ lại rùng mình. Đi! đi tới một nơi chưa hề được biết bao giờ, họ e ngại lắm. Sau rặng tre xanh, túp nhà tranh chật hẹp thật, nhưng đủ che mưa nắng, và không phải là không ấm áp. Miếng đất năm này qua năm khác đào lên trộn xuống, họ thừa hiểu nó ra sao. Những ngõ nhỏ lầy lội, những bụi tre nghiêng ngả, những ao nước phẳng lặng... hết thẩy đầy thân tín và hiền lành. Hồn họ quyến luyến mảnh đất hằng nuôi sống họ như làn khói vương vấn không muốn dời khỏi mái tranh những buổi mưa dầm ướt át.

Ra đi là bỏ hết cả. Bỏ cả, vì còn gì mà đem theo? Của cải họ là những vật thật vô giá trị. Nó là túp nhà, là những đồ dùng cục mịch, là những hàng cây non nẩy mầm trên luống đất đẫm mồ hôi khó nhọc. Ra đi, còn đem theo được gì ngoài đôi bàn tay trắng? Người ta hứa hẹn có đất cát, ruộng nương. Nhưng mảnh đất mới lạ, nào biết nó ra làm sao? Liệu có nuôi nổi mình không? Mà lấy gì lập lại cuộc đời? Phải lo từng cái bát, từng đôi đũa dù chỉ là đôi đũa tre đi nũa!

Bây giờ nói đến đi, họ rùng mình. Từ đêm, mới cách quê hương có mươi, mười lăm cây số mà dắt díu bồng bế nhau đã thấy biết bao nhiêu khó nhọc. Tới ghé nghỉ ở cái làng còn gần gần quê quán mà đã bị nhìn bằng con mắt xa lạ, nghi ngờ. Đời sống eo hẹp của dân quê, những lo sợ các lời đồn đại, đủ làm cho không tìm đâu ra sự giúp đỡ cho kẻ tản cư. Người ta nhìn kẻ mới tới bằng con mắt nghi ngại nhiều hơn là con mắt thương hại, nữa là nói chi đến chốn xa xôi hàng trăm, hàng ngàn cây số.

Họ chán chường và lo âu ngồi chờ...

Xa xa một vài tiếng nổ lẻ tẻ vang tới. Cái làng nhỏ yêu dấu, mập mờ như thoi thóp cố gọi họ về. Họ sợ sệt, lo ngại, đau xót, rồi đành chờ. Thật ra, nào biết chờ đến bao giờ? Họ co ro cạnh nhau, cau có gắt gỏng cùng nhau, và nhẫn nhục trước thời gian cùng định mệnh.

Một ngày đã qua. Trời sập tối. Mưa vẫn lặng lẽ tỏa mù như làn sương dầy đặc. Nền trời xám không có một ngôi sao. Đằng xa, ánh ‘‘đèn pha’’ vẫn ửng hồng một góc trời. Ai nấy chen chúc sắp sửa ngả mình trên lớp rơm rối trải thay chiếu nằm. Bên ngoài trời tối như mực, gió lạnh vẫn thổi đều, xô đẩy những lớp mây nặng nề ướt át.

Văn nhổm dậy. Đĩa đèn dầu trên tam bảo chỉ đủ cho gian chùa khỏi tối om. Văn khẽ lay Minh:

- Minh ơi! Sửa soạn chứ.

Minh choàng dậy, dụi mắt. Văn hạ thấp giọng:

- Tôi định trở về nhà xem sao. Chú có muốn đi không?

Và như không cần chờ Minh trả lời, chàng tiếp:

- Về, rồi gần sáng lại qua đây. Không sợ gì hết đâu. Nhưng phải lẳng lặng đừng cho ai biết.

Giọng Thọ run run như nói trong hơi thở:

- Sao anh liều thế?

Văn quay lại. Thọ đã ngồi ở sau lưng lúc nào, chăm chú nhìn hai người.

- Em nằm, nhưng có ngủ được đâu! Các anh định về làng đấy à? Chúng nó còn canh ngay trạm giữa làng trên mặt đê cơ mà?

Văn khẽ suỵt:

- Em nói khẽ chứ, đừng để ai biết. Tôi và chú Minh lẻn về lúc đêm tối này bọn chúng biết thế nào được? Xong lại đi ngay, chẳng có gì đáng sợ đâu.

Dứt lời, Văn khẽ kéo Minh lẩn ra khỏi chùa. Thọ hoảng hốt không kịp giữ lại, mà có lẽ cũng không đủ can đảm giơ tay níu lại. Trong thứ ánh sáng lờ mờ chập chờn của ngọn đèn dầu ta, Thọ chợt cảm thấy cô độc quá. Mẹ đấy, em đấy... Mà sao Thọ vẫn thấy trống trải quá đỗi. ‘‘Giá cứ liều đi theo hai anh ấy!’’. Thọ rùng mình, nhắm mắt lại. Rõ ràng hai bóng người vùn vụt mải miết chạy... Rõ ràng Văn giật Thọ ngã chúi xuống cạnh Văn và Minh, rồi tiếng máy bay, tiếng đạn réo qua đầu... Làm sao nói được hết cái cảm giác lạ lùng lúc đó? Một cảm giác đê mê vừa sợ hãi, vừa sung sướng. Ôi! giá một viên đạn của địch trúng vào Thọ đi... Thọ hoàn toàn mãn nguyện. Thọ nghẹn ngào nấc lên vì sung sướng...

Thọ mở choàng mắt. Vẫn ánh đèn dầu chập chờn. Mọi người đã ngủ yên. Thọ cố giỏng tai nghe ngóng: không động tĩnh. Thọ cố mở to mắt nhìn ra ngoài: đêm tối mò mịt. Mai đây ra sao? Thọ sẽ làm gì? Nói dại, nếu cả hai anh Văn, Minh bị địch bắt được? Thọ hốt hoảng lắc đầu như xua đuổi cái hình ảnh hai người quằn quại trên vũng máu. Thọ ôm lấy đầu ; mồ hôi đã xâm xấp ướt trên vầng trán lúc nào không hay.

Không biết là mấy giờ khuya rồi, Thọ không dám nằm xuống nữa, đành bó gối chong mắt chờ...

Ra khỏi chùa, Minh nắm chặt tay Văn rảo bước đi. Hắn thuộc làu con đường, vì hắn đã chẳng thường gánh ngô thuê cho những bàn cân để giao tại bến sông làng Thụy? Trời tối như mực. Mưa vẫn phất phất rơi. Minh chợt hỏi, giọng đầy ái ngại:

- Anh có quen đi tối không? Lại giẫm đất nữa!

Văn phì cười:

- Quen lắm rồi. Có cái là quen với đồng lầy và ngõ đất miền Nam thôi. Đêm không có tối thế này mà cũng chẳng làm quái gì ra cái lối mưa phất phất giá buốt như ở đây.

Đường đất thịt gồ ghề, trơn như đổ mỡ. Họ băng qua cánh đồng. Dưới gót chân bước vội vàng, những tảng đất màu tan vỡ, những cây ngô mới lớn rạp mình gẫy gục. Tiếng cây ngô non giập gẫy làm Văn rùng mình. Hàng luống ngô non biết bao khó nhọc mới có được mà suốt buổi mai đã bị giầy xéo dưới bước chân hoảng hốt, lại còn bị chà đạp nữa. Có biết bao nhiêu mầm sống tốt tươi đã héo lụi? Những phá hoại... để đem lại hạnh phúc cho đám dân quê hiền lành, yên tĩnh?

Đến hàng rào tre ven làng, Văn đứng lại, kéo Minh lùi lại sau, mà bảo:

- Không được nói gì hết, chú cứ đi theo sát tôi và nhẹ bước nhé.

Cẩn thận vậy thôi. Làng mạc im phăng phắc. Hai người qua rào vào làng.

Xóm đồng liền với cảnh ruộng bát ngát, nên chỉ qua hàng rào tre là hai người đã biến vào ngõ xóm tối đen dưới bóng tre kẽo kẹt. Tối trời nhìn không rõ, song Minh và Văn đã thuộc lòng từng khúc quanh, từ dốc nhỏ, cho đến chuôm ao, nên vẫn lặng lẽ thoăn thoắt bước nhanh. Xa xa, qua ngọn cây, từ nơi trạm canh làng Thụy, ánh đèn pha rọi sáng một vùng mặt đê.

Văn kéo Minh đi quanh quất qua các xóm, chán rồi mới vượt rào vào trong nhà. Nhà bà giáo không suy suyển. Văn cảm thấy như vậy vì đồ đạc đâu yên đấy, Văn không hề vấp vướng.

Văn khẽ bảo Minh:

- Có lẽ chúng chưa đủ thì giờ lục phá các xóm. Nếu chúng còn đóng lại đây lâu thì khó mà còn. Lát nữa về qua, chúng mình nhặt nhạnh đem thêm đi. Bây giờ thì chú cẩn thận; chúng ta sẽ băng qua mặt đê sang xóm bãi, xem đằng nhà nữa chứ! Phải chạy thật nhanh và cúi rạp xuống đấy. Trên đê nhìn rõ lắm.

Minh lưỡng lự:

- Nhà dì em còn có gì? Thôi, nếu nguy hiểm chẳng qua nữa.

Văn gắt:

- Phải qua chứ! Xem địch chúng phá phách thế nào. Cho quen đi!

Nói rồi, Văn nắm tay Minh, kéo ra ngõ.

Tới gần chân đê, Văn lom khom chỉ cho Minh phía trạm canh giữa làng, ngay mặt đê. Đèn pha sáng rực hướng ra quanh đồn. Một vài bóng cao lớn thấp thoáng dưới ánh sáng. Minh ngần ngại:

- Hay thôi, anh Văn ạ!

Văn nín thinh, kéo Minh đi về xuôi, tới quãng đê quai vòng thúng, từ trạm canh nhìn xuống bị khuất bụi tre cao, Văn chăm chú nhận xét địa thế, rồi nắm tay Minh, khẽ bảo:

- Cúi người xuống, chạy theo tôi thật nhanh nhé.

Minh như cái máy, làm y theo Văn. Hai người vụt chay qua ngang mặt đê; tới bên kia là các ngõ xóm khuất khúc tối om dưới các hàng tre ngang dọc xào xạc dưới gió lạnh. Họ men theo bờ sông, ngược lên phía văn chỉ. Tới khi Văn ngừng lại, nấp dưới bụi chuối, thì Minh chợt thấy chỉ cách trạm canh quân Pháp đóng khoảng vài ba trăm thước. Minh trố mắt nhìn, trống ngực Minh dồn dập. Nhỡ bọn chúng bắt gặp? Minh lo ngại, kéo Văn lùi lại...

Nhà dì Mơ cũng chưa bị lục soát; dây thừng buộc cửa liếp vẫn y nguyên, nên Minh không buồn vào nữa.

Quá trên đê, mấy ngọn đèn pha vẫn sáng rực.

Văn dắt tay Minh thoát ra khỏi hàng rào tre êm ả như không. Những tảng đất màu lại tan vỡ dưới chân. Văn đột nhiên cười, cái cười bực tức làm Minh cuống quít:

- Chết, sao anh cười to thế, địch nghe thấy thì nguy?

Văn dằn giọng:

- Địch nào? Tụi Pháp ư? Chúng nó dám thò ra khỏi chỗ đồn trú trong đêm tối thế này? Vả lại chúng mình đã xa làng rồi, chúng nghe thấy thế nào được!

- Nhưng anh cười gì mà tợn thế?

- À, tôi cười vì thấy chú còn ngớ ngẩn quá! Đấy chú xem, tha hồ cho Pháp đóng quân, tha hồ cho chúng có máy bay, súng ống... chúng mình vẫn đi lại. Ngày thì cứ tạm cho là của chúng đi! Còn đêm thì ai làm chủ đây? Chúng đòi thắng làm sao được?

Minh ngập ngừng:

- Thế là Pháp sẽ thua ; kháng chiến nhất định thành công! Chúng ta sẽ thắng.

Văn giận dữ ngắt lời:

- Dĩ nhiên là Pháp thua. Nhưng ai thành công? Ai thắng? Chú thắng hay tôi thắng? Hay chúng mình cùng thua? Không, chưa biết được đâu, chú Minh ạ.

- Chú Minh này, giá thử giặc Pháp đi rồi, trong làng sẽ làm gì đây?

Minh ngạc nhiên:

- Thì ai đâu lại về đấy làm ăn chớ sao? Anh hỏi lạ quá, em chẳng còn biết ra làm sao nữa.

Văn phì cười:

- Nhưng mùa ngô này thế là bị hỏng rồi đấy nhá! Thôi, chúng mình hãy về chùa đã cho mọi người khỏi biết.

Minh ngẩn ngơ lầm lũi theo Văn, cắm cổ đi mà không ai nói thêm một lời.

Tới chùa, đã mờ sáng. Thọ vẫn ngồi bó gối, chờ...