- 10 -
Rồi một hôm, hai hôm...Qua cánh đồng bát ngát, hướng về phía con đê dài, họ nhìn rải rác một vài đám khói bốc lên lẫn một vài ngọn lửa đỏ vụt dâng cao. Họ chua xót nhìn theo tưởng chừng như những thứ gì thân mến quí báu nhất có lẽ đã thành tro tàn. Và họ lại càng nhất quyết cố bám lấy mảnh đất này, không thể bỏ đi được. Một vài người liều gan đã lén trở về làng thăm thú, và đem tin lại cho dân làng tản cư đau khổ kia càng thêm đau khổ. Địch đã sục sạo xóm làng. Đồ đạc của dân quê thì còn có gì cho chúng lấy? Nên chúng đã đập phá chơi cho thỏa cái thèm đập phá... Mươi lăm nóc nhà cháy dụi làm cho mấy người già cả liều ở lại bị chết uổng ; hàng chục lợn gà bị chúng giết để ăn phí phạm và giết để giết cho sướng tay ; một vài rặng chuối chúng chém ngang thân cho ngả rạp... Người dân buồn rầu và đau khổ chờ ngày lầm lũi trở về để dọn dẹp và gây dựng lại.
Xe địch thỉnh thoảng vẫn chạy qua trên mặt đê, nhưng coi chừng chúng không sục sạo vào trong xóm làng lắm nữa. Mới lại còn có gì nữa đâu? Trạm canh, nay chúng cũng đã bỏ, rút đi hết. Một ít người táo bạo trở về, liền ẩn nấp trong nhà mỗi khi thấy tiếng máy nổ. Rồi chẳng bao lâu, dân làng lục tục kéo về theo, trừ số ít dư tiền của, quá sợ hãi, đã liều chạy lên miền Bắc xa xôi hiểm trở cho được ‘‘an toàn’’.
Đời sống của làng Thụy vì chiến cuộc mà thành ra cheo leo buồn tẻ. Mỗi khi nghe tiếng động cơ là ai nấy hấp tấp tìm chỗ ẩn nấp, nhất là có một bữa ca nô của địch làm cho cả làng mất vía. Địch đã liên lạc từ thủ đô về Nam Định bằng đường bộ trên mặt đê hữu ngạn sông Hồng rồi, chúng bèn mở thêm liên lạc bằng đường thủy. Ca nô của chúng cứ vài ngày lại thấy chạy qua ở dưới sông. Một bữa không rõ vì sao mấy anh du kích quân từ phủ bộ về trấn đóng ở làng dưới, thấy ca nô của chúng lại nổ súng. Đạn có tới hay không, nào ai biết? Chỉ thấy địch bắn cả tràng liên thanh lên bờ làm cho bên xóm bãi chạy trối chết. Cứ thế, lâu lâu lại một loạt liên thanh từ ca nô dưới sông bắn lên, hoặc từ xe ‘‘dip ” trên đê sả ra tứ phía. Còn ai dám yên tâm ra đồng làm việc nữa?
Ngô mới mọc được ba, bốn tấc thì biến cố; không ai vun bón, cỏ mọc lấn, mùi dại lên ngập đầu. Bãi dâu xưa xanh rờn, những lá non luôn luôn thay đổi, thì nay đã xám bạc vì già sau bao nhiêu lứa bỏ uổng không hái.
Ngày qua ngày dân lành hãi hùng sống cực khổ, dưới đe dọa của quân thù, ngại ngùng vì du kích và bộ đội, và kinh hoàng vì viễn tượng đói rét.
Vai trò Ủy viên liên lạc của Minh cũng lu mờ hầu như chẳng ai để ý tới nữa. Cho đến cả chủ tịch xã, và các ủy viên khác cũng vậy. Làng Thụy lặng lẽ âm thầm sống, chẳng còn biết đến đóng góp, chẳng hiểu còn có luật lệ hay không, nhưng ai nấy cứ yên phận bình thản sống và trông chờ.
Dì Mơ chỉ còn biết loanh quanh trong nhà; có ít lúa, ít ngô, đổ ra ăn dần. Còn đi đâu được mà làm thuê, làm mướn thêm cặp? Vả lại ai mượn người làm gì? Minh cũng ở nhà luôn, ít còn biền biệt đi cả ngày nữa. Quanh ra quanh vào, đôi khi dì lại nhắc:
- Thời buổi này, nào biết tao sống chết lúc nào? Thì loạn ly cũng mặc, phải lo vợ lo con cho mày chứ.
Có lúc dì bực mình phát gắt:
- Tùy mày đấy. Không bằng lòng con Bèo thì thôi. Ưng ai thì nói đi... Hay cô Thọ nhé? Nếu mày nhất định thì nhờ anh Văn nói thử với bà giáo xem. Phải duyên phải số thì xong chứ gì?
Dì sốt ruột lắm rồi. Biết bao giờ yên hàn? Thôi thì buộc chân Minh lại cho xong. Từ cái hôm chạy loạn vào chùa làng Xuyên, gần Thọ dì cũng thấy yêu. Chỉ ngại là chẳng biết con nhà học trò, rồi thì ăn làm ra sao? Dì lại chép miệng, tự an ủi: ‘‘Hay là cái số nó thế!’’
Thấy dì Mơ dục mãi Minh cũng băn khoăn. Lấy đĩ Bèo ư? Đã hẳn là giản dị lắm, lo lúc nào xong ngay lúc ấy. Nhưng Minh vẫn không làm sao quên được Thọ. Minh vẫn nhớ đôi mắt đen láy mỗi khi bắt gặp là Minh lại bối rối; lại đôi má ửng hồng phơ phất mấy hàng lông tơ; lại bàn tay mát dượi... Minh tự nhủ: - ‘‘ Tại sao lại không thể bảo Thọ tập lấy công việc đồng áng được. Lấy Minh rồi, công việc đến tay sẽ quen đi chứ!’’... Chắc hẳn là Thọ cũng bằng lòng ; nhưng Minh chỉ ngại bà giáo... ‘‘Nhờ anh Văn nói thử với bà giáo xem’’; Ừ, dì nói phải. Nghĩ vậy mà Minh lưỡng lự mãi, chưa biết nói sao cho tiện. Mà lâu nay Văn cũng hình như ru rú ở lì trong nhà, có mấy khi qua bên dì Mơ đâu! Chả lẽ Minh lại sang bà giáo, tìm Văn để nhờ việc ấy!
Cho đến một bữa vào cuối tháng ba, gà vừa mới lên chuồng, Văn vội vàng tới, và kéo Minh vào trong nhà. Văn vừa chào dì Mơ xong, đã dặn vội:
- Thôi, chú đừng đốt đèn nữa, vừa phí dầu, vừa không tiện. Có điều này cần bàn với chú. À, chú hãy đóng cổng lại đã.
Dì con Minh ngẩn ngơ không hiểu Văn có điều gì mà cẩn thận như vậy. Cho nên Minh ra đóng cổng thì dì Mơ cũng cứ thắp ngọn đèn cho đỡ tối.
Văn ngồi trên chõng tre, tần ngần khẽ nói:
- Tôi sang đây tối thế này cho ít người để ý. Sang để dặn chú khi nào trên tỉnh bộ hay phủ bộ có giấy tờ gì về tôi, thì lén cho tôi biết ngay nhé.
Minh ngẩn ngơ gặng hỏi:
- Có chuyện gì mà anh phải dặn như vậy?
- Không. Chú chẳng hỏi tôi rằng có định công tác gì không ư? Không lẽ cứ tân cư ăn không ngồi rồi mãi như vậy. Tôi định đi ngay từ hồi tản cư về đây, song cứ nấn ná vì dì, vì chú... và cũng vì cô Thọ nữa. Bây giờ thì cũng mới sửa soạn thôi, chờ cho bà giáo khỏi đau đã.
Dì Mơ ngạc nhiên:
- Bà giáo ốm hồi nào? Tôi có thấy ai nói gì đâu?
- Dạ, cô giáo cháu từ hôm chạy loạn vào làng Xuyên về rồi cứ khặc khừ ốm. Hồi này chẳng đi đâu nên cũng chẳng ai biết. Cháu cũng sốt ruột quá, chẳng lẽ thấy nhà neo người, lại loạn ly mà bỏ đi ngay cũng tội.
Minh băn khoăn không hiểu Văn định nói gì? Tại sao lại bảo là nấn ná vì dì Mơ, vì Minh, lại cũng vì cả cô Thọ nữa? Mà cái anh chàng đến gan dạ! Minh còn nhớ như in cái đêm địch còn đóng mà anh dám rủ Minh lẻn về làng. Minh vừa phục, vừa mến. Sao mà anh Văn khác với những người tản cư như họ hàng vợ chồng phán Thành thế!
Minh ngơ ngẩn hỏi lại:
- Anh định đi đâu? Lên Tuyên hay lên Thái?
- Cũng chưa định hẳn, chú Minh ạ. Để còn xem, không chừng mà tôi vào khu tư, miệt Thanh Nghệ ấy mà!
Minh không biết làm thế nào gợi chuyện để hỏi được điều mà Minh muốn biết; cũng còn muốn hỏi cả về Thọ nữa! Minh cứ ngường ngượng không dám. Văn như đoán được thắc mắc ấy, nên cười mà bảo:
- Có gì đâu mà chú phải băn khoăn? Chẳng là cái đêm tác chiến ở thủ đô, rồi sau đó vội vã ra được, tôi chợt nghĩ đến ông giáo đã mất nên ghé thăm gia đình xem sao, định bụng tiện dịp nghỉ ngơi ít ngày rồi hãy đi. Bất ngờ thấy cảnh nhà bà giáo heo hút, lại có nhiều chuyện thắc mắc nên nấn ná mãi. Rồi lại gặp dì, gặp chú, thấy mến, mà việc đi cũng chẳng vội gì...
Dì Mơ thấy hai người rủ rỉ với nhau, thì cười:
- Ờ thôi, cậu Văn hãy ở chơi đấy với em. Minh à, muốn hỏi gì anh Văn thì hỏi đi. Dì sang thăm bà giáo một chút xem đau ốm ra sao.
Minh chợt nghĩ ra, nên vội vã đứng dậy:
- Vâng, phải đấy. Dì nói với bà giáo là anh Văn ở đây có câu chuyện bàn với con, có lẽ khuya mới về. Hay dì ở chơi bên ấy cho đỡ buồn. Lát nữa đưa anh Văn về, con đón dì.
Minh ghé vội vào tai Văn:
- Anh ngồi đây nhé, có nhiều chuyện muốn nói với anh.
Dì Mơ đi khỏi, Minh hạ cánh cổng tre, rồi mới vào nhà. Hắn sửng sốt vì nét mặt đăm chiêu của Văn, nên lẳng lặng ngồi xuống chõng, nhìn Văn như chờ đợi. Văn uể oải hỏi như cho có chuyện:
- Dì đi rồi ư?
- Vâng, dì em đi rồi. Cổng cũng đóng cẩn thận. Anh bảo có việc gì định bàn với em thế?
- Cái việc tôi định lên khu để công tác... Thắc mắc là vì cứ nghĩ đến dì, nghĩ đến chú, và nghĩ đến Thọ.
Văn ngừng lại, ngẩng lên chăm chú nhìn Minh:
- Chú yên trí là cứ thế này mãi hả? Nếu quân Pháp lại kéo về đóng ở đây... thì chú định thế nào?
- Đành tạm chạy vào vùng đồng chiêm như hồi nọ.
Văn bật cười:
- Rồi chúng còn chiếm cả đường, số một, vào cả vùng đồng chiêm nữa thì sao? Rồi ở đây chúng lại lập làng nữa!
Minh không hề nghĩ đến như thế bao giờ. Vả lại Minh cũng chẳng biết rồi quân đội, súng ống đâu mà đánh. Minh lúng túng:
- Ờ nhỉ... Thôi thì đành liều. Đằng nào cũng phải làm phải ăn.
- Tây mà nó để yên cho chú làm ăn, người ta sẽ bảo chú là theo tây, là Việt gian... thì sao?
Minh chưng hửng. Nó không còn nghĩ đến việc mượn Văn ướm hỏi bà giáo về chuyện Thọ nữa. Nó chợt thấy Văn hỏi là phải. Ừ, làm sao lại không nghĩ ra? À, có lẽ vì thế mà Văn đi chắc. Nó đâm lo.
Văn nhìn Minh, thương hại:
- Nghĩ xa xôi vậy thôi. Chú Minh này, có lần dì nói chuyện với tôi về việc cô Thọ. Chú nghĩ thế nào?
Minh định bụng hỏi Văn, thì nay Văn lại đem ra nói trước, thành thử khó nói quá. Nó chưa hết hoang mang vì điều Văn mới hỏi đây, thì Văn lại đem ngay việc Thọ ra mà hỏi. Thật là quái ác! Minh đắn đo mãi, rồi ngập ngừng hỏi lại:
- Dì em nói với anh thế nào?
- Nói việc chú với cô Thọ, song bà giáo không thuận.
- Không, em muốn hỏi là dì em nghĩ thế nào cơ?
- Dì không nói. Còn tôi thì tôi muốn hỏi lại chú đã nghĩ chín chưa?
- Em cũng chẳng nghĩ gì cả. Bà giáo không thuận, mà dì em thì lo cô Thọ là con nhà học trò biết làm ăn ra sao...
Văn cười:
- Thế chú tưởng là con nhà học trò thì không làm được công tác đồng áng hẳn? Thế sao chú làm ruộng mà trước đây lại đi học được. Có cái gì là phân biệt nhất định đâu? Tập là được hết; chẳng qua là cứ nệ ra thôi.
Văn đứng dậy nói tiếp:
- Thôi hãy biết thế. Để khi nào đi, tôi sẽ nói hết cũng kịp chán... À, mà chú nhớ có giấy tờ gì hỏi về tôi, hãy giấu đi, rồi cho tôi biết ngay nhé.
Dì Mơ đương ngồi nói chuyện với Thọ thì Văn và Minh về. Thọ đầy vẻ lo âu. Dì Mơ khẽ gọi Văn bảo cho biết là dì ngại cho bà giáo lắm. Dì thì thầm:
- Phải kiếm lấy một vài chén thuốc, cậu ạ. Tôi sờ chân tay bà giáo thấy khô ráp, xấu lắm. Cậu thử bàn với cô Thọ xem. Có gì cũng phải vào tận trong Khổ Liễu mới cân thuốc được. Có một ông thầy khách thì hồi nọ dọn dẹp chạy vào mãi trong Vân Đình kia rồi!
Bàn với Thọ, thì Thọ còn biết gì nữa. Được một vài chum ngô, một vài chum thóc dù đổ ra bán cũng khó lắm. Văn còn được ít tiền, nên nhờ Minh mai sớm đi giúp. Đưa dì con Minh ra cổng, Văn dặn với:
- Mai chú Minh chịu khó đi hộ. Tôi cũng biết bốc thuốc cách bức thế này có ăn thua gì đâu! Nhưng thôi, cho chị em Thọ khỏi ân hận.
Hai thang thuốc, Minh mất một ngày mới lấy về được, song bà giáo cũng không muốn uống. Có lẽ bà cảm thấy rằng chửa chắc đã ích gì. Con người ta nhiều lúc bỗng nhiên như linh cảm được sự sống chết của mình! Bà giáo cho Thọ mời Văn đến, rồi đuổi khéo Thọ, sai đi hái lá nấu nước để xông. Bà đem chuyện Thọ ra kể hết cho Văn, rồi ngừng lại nhìn Văn:
- Nói ra cũng tội nghiệp chúng nó. Tôi ngăn cấm con Thọ ở nhà, rồi chẳng có chuyện gì nữa. Từ hồi tản cư về đây, cậu cũng thấy đó. Kể cũng khó nghĩ. Giời lại làm tao loạn thế này, tôi thật đến khổ, chẳng còn biết thế nào cho phải. Nếu tôi có mệnh hệ nào, cậu nghĩ đến chú mà lo cho em nó được nhờ.
Như một ngọn đèn cạn dầu, bấc cứ lụt dần, bà giáo mỗi ngày một sút đi. Cho đến một buổi chiều, Văn vừa qua bên dì Mơ về, chợt nghe tiếng Thọ thất thanh gọi. Văn chạy vội lên. Thọ ngồi ở chân giường, ôm mặt khóc. Văn vén màn nhìn: một thân hình gầy gò, co dúm. Bà giáo đã ngừng thở. Gian phòng tối, lại càng tối tăm, lạnh lẽo. Văn bâng khuâng, lòng ngao ngán.
Người chết thật xấu số. Hồi này, xe quân địch ngày nào cũng một hai lần qua lại trên đê làng. Ai dám thò mặt ra? Đem chôn cất cho tử tế, nhỡ xe quân địch đi qua, thấy có người lố nhố dưới ruộng, chúng cho một loạt liên thanh thì khốn.
Chết nhằm lúc chiến tranh cũng thật đáng thương. Thà rằng bị chết vì quân thù, vì hòn đạn lạc cũng đành đi một nhẽ! Chứ đây chỉ là cái chết già, cái chết bình thường. Lúc bình thì, đã con cháu họ hàng làng xóm tấp nập, đã ầm ĩ hàng phe hàng giáp cúng tế, chôn cất linh đình.
Cái làng nhỏ bé đương lo âu vì nạn binh lửa, đương sợ hãi các biến cố xẩy ra không biết lúc nào, thì cái chết của một người già yếu, cũng im lìm như ngọn đèn hết dầu lụt bấc, không có lấy một tiếng vang!
Minh và dì Mơ hấp tấp tới. Dì Mơ và Thọ vội thay áo cho người chết. Văn châm ngọn đèn dầu, thắp mấy nén hương cắm vào bát gạo để tại đầu giường. Mấy người im lặng cắm cúi làm, nào bó, nào liệm. Dù là loạn ly chăng nữa, ‘‘nghĩa tử là nghĩa tận’’, có lẽ ai cũng thầm nhớ lại câu đố mà có công lo liệu.
Lúc này kiếm cho ra một cỗ áo quan không phải là chuyện dễ dàng. Có mấy hàng thợ mộc trong làng đều nghỉ; họ sợ quân địch đốt phá, số ít cỗ quan đóng sẵn họ đã đem ngâm giấu dưới ao. Đêm mưa lạnh, còn ai đi mò lên? Minh vất vả cả đêm hôm ấy mới tìm được ở làng dưới một cỗ áo còn lại chưa kịp dìm nước.
Nếu ví thứ kiếm không ra, thì biết sao? Minh chưa về, là Văn còn băn khoăn; Văn thở dài, nghĩ tới việc bó chiếu. Thật ra nó có nghĩa lý gì đâu! Nhưng đối với bộ óc bình dị ở thôn quê chỉ một tiếng bó chiếu cũng tủi cho người chết, và để ân hận cho người sống.
Minh mua được cổ áo quan về, ai nấy thở ra như trút được bao nhiêu lo âu phiền não.
Minh còn gọi Khước tới giúp. Việc liệm, việc nhập quan, hết thảy đều giản tiện. Biết làm sao hơn được?
Hai chị em Thọ thút thít khóc, và nhất nhất chỉ còn trông chờ ở như Văn.
Rồi cũng đến xong.
Và một buổi sớm mờ mờ đất, sương chưa tan hẳn để một màu lam còn vương vấn trên cảnh vật, gió lành lạnh từng cơn từ ngoài sông đưa tới, đem đến cả một lạnh lẽo cho đám tang quá thê lương. Chiếc áo quan mộc do bốn người trai trẻ khiêng bằng đòn ống, cũng có đủ bát cơm quả trứng, đôi đũa bông với nắm hương ngát. Một người đốt bó đóm đi trước dẫn đường. Đám tang âm thầm không kèn, không trống ; cũng không có cả một tiếng khóc cho ra tiếng khóc. Ai nấy vội vàng rảo cẳng, chỉ e sáng rõ nếu quân địch qua làng, từ trên đê chúng thấy nhấp nhô sả súng bắn vào thì tội. Hết mấy xóm nhà, họ lẩn vào những hàng ngô đã lớn ngang vai.
Sương đọng trên lá xanh, sương vương trên tơ nhện, sương nhẹ thấm ướt qua lần áo...Văn thấy nỗi buồn dần tràn ngập cả tâm hồn. Nào phải là lần đầu đưa người chết ra chỗ ở cuối cùng? Nhưng Văn cũng mủi lòng nhìn bó đóm còn bốc khói dưới gốc ngô, và chỗ huyệt đào nơi làn đất xốp. Mấy người trai làng hì hục làm, chắc hẳn không một ai nghĩ đến người chết. Họ nhanh nhẹn cho vội chiếc quan tài xuống huyệt, rồi vội vàng lấp đất cho xong. Mà nghĩ tới để làm gì? Họ làm vì tình quen thuộc mà thôi. Chiến tranh xóa nhòe hết, khiến cái chết của một người cũng im lìm như ngôi sao sa vậy.
Nhát mai cuối cùng nện nấm đất cho chặt đã xong. Thọ ngồi xệp trước nấm mồ mới đắp, thút thít khóc như một đứa trẻ. Thọ thương mẹ, thương em mà cũng thương cả cho chính mình. Minh tần ngần nhìn Thọ, nhìn Văn.
Sáng rõ. Mấy người trai hộ đám đã khuất vào trong xóm, dì Mơ mới dắt Thọ đứng dậy. Hai người mắt cùng đỏ hoe. Trên bờ ruộng gập ghềnh, họ thất thểu trở về.
Giờ phút này, không hiểu sao đột nhiên dì thấy thương cho Thọ quá. Dì nhớ lại ngày nào u dì mất đi, dì còn là chị cả Thành...Dì lấy vạt áo lau nước mắt, nghẹn ngào bảo Thọ:
- Người đã mất, khóc cũng chẳng lấy lại được. Thôi cô ạ, thương bà thì cũng đành để bụng, để còn lo công việc chứ biết làm sao bây giờ?
Nếp nhà ba gian từ hồi ông giáo mất đi đã vắng vẻ, đến nay lại càng hiu quạnh. Ngay gian giữa, kế bên bàn thờ ông giáo là bàn thờ bà giáo mới được thiết lập. Tấm lụa trắng tết mũi treo nơi bài vị làm ‘‘hồn bạch’’ tự nhiên đầy linh động vì ngọn đèn dầu nhấp nhô mờ tỏ, khiến Thọ rùng mình. Thọ rưng rưng nước mắt, nhìn dì Mơ như van lơn và khẽ mời:
- Dì ở bên này chơi ít ngày...Nhà vắng, con sợ lắm.
Giọng Thọ ngập ngừng, nghe não cả ruột. Vô tình Thọ xưng con với dì, làm cho dì xốn xang xúc động. Dì chưa biết nói sao, thì Văn đã thêm vào:
- Vâng, dì ở chơi bên này với các em, kẻo tội nghiệp. Hồi này chú Minh cũng ở nhà luôn, dì khỏi lo đằng nhà.
Đâu phải ngại về việc nhà, dì có lưỡng lự cũng chỉ là vì lo miệng tiếng thiên hạ mà thôi. Dì với ông bà giáo đâu có họ hàng qua cát? Nhất là chuyện có từ cả một năm nay về Thọ và Minh. Người ta xấu miệng, biết đâu chẳng bảo là hai dì con tham mấy mẫu ruộng của bà giáo mà cố vun vào. Văn như đoán được mối băn khoăn ấy, nên khẩn khoản:
- Dì đừng ngại gì cả. Mới lại cháu cũng có ở nhà lâu được đâu? Còn phải lo công việc làm ăn nữa chớ. Dì chẳng giúp cho em Thọ, thì còn biết nhờ ai nữa đây?
Dì Mơ không đừng được, đành phải ở lại. Dì thấy Thọ cũng đặng đột với mọi công việc trong nhà trong cửa. Và dì lại lo cho Thọ rồi đây cuộc đời sẽ ra sao? Sống vào đúng thời buổi loạn ly cách mạng ầm ĩ, chờ cho xong ba năm công việc thì quả thật cũng đáng lo ngại cho một người con gái côi cút. Nhỡ quân Pháp lại tràn tới, biết chạy đi đâu? Lấy gì mà đi? Nên một buổi tối, thừa khi Thọ mệt quá đã ngủ, dì mới đem bàn với Văn hết những lo âu thắc mắc của dì.
Văn biết nói gì hơn? Nhưng Văn chưa tiện đem ra nói với Thọ ; vì dù sao đi nữa, Văn tiếng thế cũng chỉ là một người anh họ. Văn đành hoãn ngày đi, nấn ná chờ dịp.
Quân Pháp càng ngày càng thưa qua lại, nên đời sống của làng Thụy được yên ổn hơn. Nhưng càng trở lại bình thường thì Văn càng thấy lạc lõng, và cảm thấy có những con mắt của bọn cán bộ phủ đi về dòm ngó. Cho nên Văn thản nhiên khi thấy Minh hớt hải cầm tờ báo Cứu Quốc nhem bẩn, chạy tới chỉ cho Văn xem nơi góc trang cuối có ghi danh sách những người mà cơ quan trung ương ở Việt Bắc yêu cầu các Ủy Ban kháng chiến địa phương giúp phương tiện đưa lên khu lãnh công tác. Văn thấy rõ ràng tên mình ghi nơi đó. Thọ cũng có đấy, nên lo lắng nhìn Văn như dò hỏi.
Văn gấp tờ báo đưa trả lại Minh, và lạnh lùng bảo:
- Chú có thân với chủ tịch xã không?
- Có, em biết hắn lắm chứ! Hắn còn ơn dì em là đằng khác. Trước đây ở làng ai còn lạ gì xã Tèo? Cái năm đói kém, con hắn chết, một hột gạo ăn hắn cũng chẳng còn, em phải nói với dì bớt chỗ ngô giống cho hắn vay ăn đấy. Nhưng anh hỏi làm gì?
- À, muốn nhờ chú xin với Ủy ban xã cho anh cái chứng minh thư, và giấy giới thiệu để lên Việt Bắc liên lạc với cơ quan trung ương.
- Anh nhất định đi thật à?
- Đằng nào rồi chẳng đi? Nhất là bây giờ cơ quan trung ương lại ra lệnh như thế ; không đi, người ta đâu có để cho yên!
Minh tần ngần:
- Ờ nhỉ! Mà việc xin chứng minh thư cho anh, cũng phải nghĩ lại đã. Chủ tịch Tèo chả nói làm gì, nhưng thằng cha bí thư thì khó chịụ lạ. Lão Tùng ấy mà, cô Thọ có nhớ không? Trước kia hồi còn Tây nó đã làm thư ký trong Hội đồng ; sau này hồi Nhật đảo chính, nó đi đâu chẳng biết. Đến hồi tháng tám, nó về nói huênh hoang là nó đi làm cách mạng. Nghe chừng trên phủ bộ tin nó, động một tí có việc gì trong làng là nó báo cáo ngay. Thằng bí thư Tùng này nó khó chịu với em lắm, vì thấy trái tai là em đả luôn.
Thấy Minh nói một hơi có vẻ bực tức lắm, Văn phì cười vội ngắt lời:
- Thế thì liệu có xin được giấy cho tôi không? Chẳng có, cứ đi liều!
- Chết! Liều thế nào được? Xã nào cũng xét hỏi chứng minh thư ngặt lắm. Em liên lạc lên phủ cũng còn bị hỏi giấy luôn.
Minh suy nghĩ một chút:
- Được, anh khỏi lo. Em nhờ anh Khước, ủy viên quân sự làm giúp.
Thấy Minh vội vã định chạy đi, Văn giữ lại:
- Còn một tuần nữa thì bốn mươi chín ngày bà giáo. Vậy chú cũng nói rõ là xin giấy, tôi sửa soạn tám hôm nửa sẽ đi.
Minh đi khỏi, Văn lẳng lặng xếp ít đồ dùng đêm thủ đô tác chiến chàng đã đem theo. Nào còn có gì? Một hai bộ quần áo, cái lược, cái khăn mặt... Xếp lại không đủ căng chiếc cặp da đã sờn góc. Không một mảnh giấy, không một mẩu bút chì; Văn để lại hết. Văn lưỡng lự mãi, sau chót chàng đã quả quyết đem xuống bếp và lần lần đốt kỳ hết cả mấy tập giấy ghi đặc chứ.
Thọ buồn lắm. Nàng đi ra, đi vào, tần ngần nhìn Văn xếp dọn, như có điều muốn nói lại thôi. Văn cảm thấy vậy, song thản nhiên làm như không biết. Thấy Văn đem cả mấy tập giấy xuống bếp đốt đi, Thọ vội hỏi:
- Tại sao anh lại đốt? Mà anh viết những gì nhiều thế?
Đột nhiên giọng Văn trầm hẳn như nghẹn ngào ; từ ngày tản cư về đây, chưa bao giờ Thọ nghe thấy như vậy.
- À, những điều tôi đã thấy, và những điều tôi chợt nghĩ đến, từ cái ngày dời Nam bộ về tới Hà nội cho đến gần đây... Bây giờ đi...
Văn nhếch mép cười, đầy uất ức:
-... thì lại nghĩ ra rằng thời buổi này đem theo mớ chữ nghĩa là nguy hiểm.
- Hoài của! Sao anh không bảo em sớm? Cất ở đây, rồi khi nào bình thì anh lại về lấy có được không?
- Để! Lại thêm một cái tội nữa cho cô à?
Thọ cười, tưởng Văn đùa.
- Tôi nói thật đấy. Còn mớ chữ nghĩa tây học và trưởng giả này là tất phải có bộ óc phản động. Người ta sẽ bảo cô thế. Mà chứa chấp, tất nhiên là chưa giác ngộ.
Dứt lời, tập giấy cũng đã cháy gần hết. Văn lầm lũi bỏ lên nhà trên.
Cho đến chiều tối, Thọ thấy Văn như thắc mắc điều gì. Thọ không tiện hỏi, đành vẩn vơ thu dọn như không hay biết gì hết.
Tối đã lâu, Văn vẫn tựa cột, ngồi ờ đầu hè. Trong nhà, nơi bàn thờ bà giáo vẫn để đĩa đèn dầu, bấc khêu nhỏ như hạt đậu xanh. Không biết Thọ ở trong buồng với Sơn còn thức hay đã ngủ; Văn khẽ gọi:
- Cô Thọ còn thức hay ngủ rồi đấy?
Tiếng Thọ khẽ trả lời:
- Em đã ngủ đâu, mới quạt cho Sơn nó ngủ đấy thôi!
Và tiếng chân Thọ nhẹ nhàng trong đêm vắng lặng. Văn chờ Thọ ngồi yên, mới chậm rải nói:
- Cô Thọ ạ! Tôi có câu chuyện, kể nói với cô bây giờ khí sớm, nhưng không nói, cũng chẳng còn lúc nào nói được nữa.
Thọ vẫn ngồi im trên bực cửa, hai tay bó gối.
- Có lần tôi đã hỏi cô có nghĩ đến chuyện học công việc đồng áng không? Đó là tôi hỏi thật. Vì cô không thể sống mãi như thế này được, nhất là bây giờ ông bà đều mất cả. Cô tưởng rằng có mấy mẫu ruộng, cứ việc cho cấy thuê, rồi yên trí tần tiện sống ư? Không, không giản dị như thế nữa đâu. Nếu không học lấy công việc đồng áng, không sống như mọi người dân làng, cô sẽ sống biệt lập lẻ loi, và ai người ta chịu để cho cô sống như vậy? Ấy là nói xa xôi, chứ còn nhỡn tiền đây, nào đã hết loạn ly! Biết chừng lúc nào quân Pháp nó lại càn quét, đốt phá? Chị em cô chạy đi đâu? Lấy gì mà sống? Cô đừng giận, tôi nói không phải, vào cái lúc loạn lạc thì người con gái lại càng khó nữa.
Văn ngừng bặt, chưa biết làm sao nói cho được cái điều muốn nói. Nhưng Văn sửng sốt, vì Thọ khẽ hỏi lại:
- Em còn nhớ, có lần anh hỏi em có nghĩ đến chuyện ra ngoài tỉnh không? Tại sao anh lại hỏi em thế? Và bây giờ thì... theo anh, em có nên đi biệt ra thủ đô không?
Bóng tối không cho Văn thấy nét mặt Thọ, nhưng giọng Thọ đượm vẻ liều lĩnh. Văn chưa trả lời, Thọ nói luôn:
- Ngày mà anh hỏi thế, em bỡ ngỡ. Nhưng rồi nghĩ về lời anh nói, em thấy có lẽ hay. Từ nhỏ em có làm ruộng đâu? Mà có lẽ sống ở trong làng, em thấy lạc lõng thế nào ấy. Sống mà không hợp với mình, thì chỉ bằng đi còn hơn.
Văn đâu có ngờ một câu nói của mình có dụng ý khác lại khiến Thọ nghĩ ngợi nhiều đến thế.
- Hỏi vậy là nghĩ đến cái buổi thái bình cơ! Chứ bây giờ quân Pháp chiếm đóng, ra làm sao được? Và cô quen ai ở thủ đô? Còn sinh sống nữa chứ.
Thọ đáp gọn thon lỏn:
- Thì cũng liều chứ sao? Chẳng hơn nghe anh nói vừa rồi thì ở lại đây cũng dễ mà yên thân ư? Vả lại, còn có gì cho em thiết nữa mà sợ.
Văn ngạc nhiên:
- Cô nói lạ! Việc gì mà phải liều lĩnh như vậy? Tôi muốn nói chuyện với cô, chính là vì muốn lo cho cô, nhất là tôi lại sắp đi xa.
Đột nhiên Thọ nhích lại gần, nới như cướp lời Văn:
- Vì biết là anh sắp đi, nên em lại càng quyết. Em không thể sống ở đây được nữa. Làm sao ấy! Cứ ro ró sau mấy hàng rào tre, không ai hiểu cho mình, lại còn dòm ngó như kiếm chuyện. Trước em tưởng giá anh cứ ở lại đây... Nhưng, không được nữa rồi! Thì em chẳng đi, còn sống làm gì ở cái chốn ao tù này nữa?
Thọ ngồi lại hẳn bên Văn:
- Thật đấy! Hoặc anh ở lại đây cho tới khi yên hàn, em sẽ theo ra Hà Nội. Vạn nhất có phải chạy, thì cùng chạy. Em nói vậy, chắc anh hiểu cho em rồi.
Thọ ôm mặt, nức nỡ khóc:
- Khổ quá... em khổ quá! Anh đừng nói gì nữa, em biết hết rồi. Thế nào mẹ em đã chẳng nói với anh. Thế nào dì Mơ cũng đã chẳng nói với anh. Bây giờ thì không được nữa rồi. Mẹ em đã mất... Với lại, cũng không thể được nửa! Em có thích cách mạng gì đâu! Mà nào em có hiểu họ làm cách mạng ra sao đâu? Nhưng em thấy không thể chịu được nửa, không thể sống mãi như thế này được nữa! Thôi thì cứ đi, muốn ra sao cũng mặc.
Văn luống cuống:
- Chết! cô cứ nói liều. Còn em Sơn nữa chứ!
- Cả đến Sơn nữa! Làm sao lại cứ muốn cho nó sống như em thế này? Hoặc là nó sống hẳn như anh Minh đi!
Thọ nấc lên, gục đầu vào vai Văn:
- Hay là em gửi Sơn cho anh Minh. Anh cho em đi theo với! Em chán cái làng Thụy này rồi; em chán tất, tất cả!
Văn lặng thinh. Chàng không ngờ câu chuyện lại xoay ra thế, và đành ngồi yên cho Thọ khóc.
Văn hối hận. Tại sao lại tản cư về làng Thụy này rồi nấn ná mãi không đi? Văn đã có phần nào trách nhiệm, vì đem lại cho Minh và Thọ hé thấy một chân trời mới lạ. Nếu Văn không đôi khi gây cảm tình, nếu Văn không phát biểu ý kiến cho họ thấy phần nào thắc mắc ưu tư, thì biết đâu Thọ và Minh sẽ mãi mãi chẳng là một người dân quê như các người dân quê đã sống dưới bóng tre xanh? Hé mở một chút chân trời cho họ, rồi bỏ mặc họ ư? Không, không phải hoàn toàn lỗi ở Văn. Còn cả cái cuộc xáo trộn gọi là cách mạng tháng tám này cũng có trách nhiệm của nó chứ! Còn cả cái thế kỷ đè nén tăm tối có ai nghĩ đến họ đâu, thì cũng còn có trách nhiệm của lớp người tự nhận là trí thức nữa chứ! Ngay đến bản thân Văn lúc này nữa? Văn đã biết là mình hướng về đâu chưa?
Văn bối rối. Bây giờ thì còn đem chuyện Minh ra nói làm chi nữa!
Đêm vắng lặng. Trời tháng tư, song về khuya đã mát dịu, không oi bức lắm. Cả hai người như thấy còn chứa chất nhiều u ẩn, vì nào ai nói hết được cái điều mình muốn nói?
Văn ngập ngừng:
- Thế nghĩa là cô không bằng lòng Minh nữa!
- Bây giờ em chỉ quí anh Minh vì anh ấy tốt. Nhưng định lấy anh ấy như hồi nào, thì quả thật là không. Em không thể sống ở đây được nữa. Em thấy u uất lắm!
Văn chưng hửng; Văn không ngờ Thọ lại bạo dạn nói phứt ngay như thế. Và đột nhiên Văn thấy ngài ngại. Văn chỉ là một người xa lạ, từ nhỏ đến giờ có bao giờ gặp nhau đâu! Đầu Thọ còn gục nặng trên vai Văn; Văn rùng mình. Thọ đã không còn coi Văn là một người anh họ nữa rồi.
Văn thở dài:
- Thọ ơi! Anh hiểu rõ nỗi khổ tâm của Thọ. Không phải chỉ mình Thọ khổ thế đâu. Thế hệ chúng ta còn nhiều người cũng sống u uất như Thọ. Có lẽ bây giờ Thọ chưa hiểu là anh định nói gì, nhưng rồi Thọ sẽ hiểu... Bây giờ anh dấu Thọ làm gì nữa? Sáng ngày kia anh sẽ đi sớm, không chờ sau tuần tứ cửu của bà đâu. Ban chiều anh nói với Minh như vậy là cốt cho bọn cán bộ phủ hay những kẻ muốn dò la anh không nghi ngờ vội; anh cần đi sớm cho khỏi trắc trở. Em phải giữ kín cho anh đấy. Còn em đi theo anh ư? Không được! Sẽ mang tai tiếng chết.
Thọ cười chua chát:
- Tai tiếng ư? Thì cả năm nay em chẳng chịu tai tiếng rồi sao? Mới lại thời buổi cách mạng này, thế nào là tai tiếng?
- Không được. Cách mạng có gì là xấu đâu? Còn người ta lạm dụng cách mạng lại là chuyện khác. Không nên nghĩ như vậy, em Thọ ạ. Anh chỉ khuyên em mấy điều. Còn tang bà, hãy giữ bổn phận của em đã. À, đừng có nói cách mạng!... Còn thời thế biến chuyển, khi xét cần phải đi, tùy em, miễn là đắn đo cho kỹ. Biết đâu, rồi một ngày kia em và Minh chẳng gặp lại nhau. Sao em dám chắc là Minh không thay đổi, và Minh cứ mãi mãi là Minh ngày năm ngoái? Sau hết, nếu có đi, anh nói thật tình và em nhớ để bụng thôi, là chớ có lên Việt Bắc, vô ích! Muốn tìm một cái gì để xây dựng, không phải là ở đấy đâu... Thôi, khuya rồi, em đi nghỉ. Biết đâu Thọ và anh sẽ lại chẳng còn gặp nhau ở một nơi khác? Và lúc đó anh mong sẽ lại được gặp cả cô em và cả chú Minh thì hay biết mấy.
Thọ đứng dậy, khẽ nói như thất vọng:
- Anh vẫn chưa hiểu được hết nỗi khổ tâm của em. Nhưng thôi, biết sao! Chỉ xin cầu trời khấn phật cho anh được bình an.
Tiếng cửa buồng Thọ đã đóng. Văn thao thức ngồi mãi ở đầu hè cho tới khi gà bắt đầu gáy sáng.
Hôm sau, Văn qua thăm dì Mơ và mời dì vào tuần tứ cửu bà giáo sang chỉ bảo cho Thọ làm lễ. Loạn ly thì loạn ly chứ, còn có thể làm được gì cho người sống khỏi tủi, khỏi ân hận thì nghĩ cũng nên cố mà làm.
Dì Mơ cũng đã biết Văn sửa soạn sau ngày ấy sẽ đi, nên băn khoăn quá. Chẳng biết cái việc dì bàn với Văn, Văn đã giúp dì chưa? Hơn nữa, Văn đi dì cũng nhớ, nên dì bùi ngùi bảo:
- Việc của cậu, quê mùa chúng tôi làm sao mà biết được. Nhưng tôi nghĩ hãy thư thả, chờ xem binh tình thế nào. Chậm, thì đã chậm cả nữa năm nay rồi có sao?
Văn cười:
- Đằng nào thì sớm muộn cháu cũng phải đi, nán lại có hơn gì? Chỉ thương hại cho em Thọ không biết rồi đây làm ăn ra sao.
Văn không gượng cười được nữa. Dì Mơ cũng tần ngần chờ Văn nói nốt. Những nguy hiểm, tan vỡ của loạn ly, thì dì cũng chỉ mường tượng vậy thôi. Bất quá cũng đến đốt cháy một vài xóm nhà, bắn chết mươi lăm con trâu, con bò... Chứ dễ mà chết hết cả bàn dân thiên hạ ư? Cho nên việc nào đáng lo, cứ lo cho xong. Dì phải lo việc cho Minh đã, rồi có chết cũng yên trí. Tao loạn mãi cũng phải có lúc bình thì, dì nghĩ vậy; nên lo thì lo, dì vẫn chịu đựng được. Liệu Văn có giúp nổi dì không? Thọ và Minh có lấy nhau thì cũng được; mà Thọ không bằng lòng nữa cũng chẳng sao! Dì sẽ hỏi đĩ Bèo ; miễn là dứt khoát, con dì chẳng thế lững lờ mãi thế này được.
Văn ái ngại:
- Cháu chưa có dịp nói; vì nghĩ đi nghĩ lại, bà giáo mất chưa được bốn mươi chín ngày, nói thật không tiện. Nhưng xem ý ra thì bây giờ em Thọ nó cũng khác tính; chẳng biết sau này thế nào. Thôi thì dì cứ thương em, trông nom cho; chẳng là con dâu thì là con nuôi, kẻo tội nghiệp.
Dì đã hiểu.
- Thì tôi chẳng nói với cậu rồi ư? Bề nào cho nó xong hẳn một bề đi. Còn giúp đỡ cho cô Thọ thì đã đành rồi. Thế nào tối nay tôi cũng qua đằng nhà xem cô ấy định lễ lạt ra sao.
Văn đi khỏi, dì Mơ còn suy đi tính lại mãi xem về tuần tứ cửu bà giáo nên bảo Thọ cúng lễ thế nào cho tiện. Bày vẽ ra nhiều cũng chẳng lấy đâu ra cổ mà rồi người ta còn nói cho. Lúc này cái gì cũng đòi phải cách mạng theo đời sống mới... Nhưng không lẽ tự nhiên nhất đán bỏ hết, dì thấy thế nào ấy!
Dì lại lan man nghĩ đến việc nhà. Ừ, mà Văn nói phải. Chẳng là con dâu thì là con nuôi đã sao? Dì trạnh nghĩ đến cái ngày dì bị nhà cụ Chánh Bá ruồng rẫy phải bỏ đi tứ cố cô thân... Dì dơm dơm nước mắt; dì thấy thương cho Thọ quá. Bây giờ thì mối khổ tâm có thể giải quyết được rồi. Dì sẽ bảo thẳng cho Minh biết là dì hỏi đĩ Bèo cho Minh, rồi giao mọi công việc nhà cho vợ chồng nó. Dì sẽ trông nom dùm cho Thọ. Người thôn phụ trung hậu bao giờ cũng nhìn sự vật giản tiện, và giải quyết êm thấm được hết.
Cho nên buổi trưa lúc Minh về ăn cơm, dì chẳng còn e dè đem nói tất cả cho Minh biết.
Rồi dì bảo:
- Thôi, con có thương dì thì con nghĩ một lần nữa cho kỹ đi. Nào dì có ghét bỏ con Thọ đâu? Dì cũng thương nó lắm chứ. Nhưng anh Văn bảo đấy, nó cũng không nhất quyết lấy con. Kể thế cũng phải, con ạ. Thôi mình con nhà nông làm ăn, cũng không nên chòi mòi làm gì.
Thấy Minh lầm lì không nói, dì an ủi:
- Mà con cũng đừng giận dì, cũng đừng giận cô Thọ. Người ta ở đời ai là chẳng có số. Không phải duyên phải kiếp thì cố gắng gượng cũng chẳng hay. Như dì đấy thôi!
Đâu Minh có giận dì Mơ; mà Minh cũng chẳng giận Thọ. Minh còn mải nghĩ về việc Văn đi; Minh buồn lắm. Trong thời gian ngắn ngủi chung sống, Văn đã đem lại cho Minh một ánh sáng mới. Minh chưa biết hẳn như thế nào, song Minh thầm cảm rằng có điều gì Văn chưa nói, và một khi Văn nói ra có lẽ Minh sẽ như người ngủ mê bừng tỉnh. Bây giờ Văn đi, Minh còn khắc khoải, còn như muốn một thứ gì, như bất mãn về đời sống hắn đương kéo dài dưới bóng tre xanh... Nhưng ao ước gì? muốn gì? Minh chưa làm sao mà hiểu được rõ ràng.
Thấy dì Mơ buồn, Minh vội vã trả lời:
- Chết, con đâu dám giận. Dì bảo phải. Có điều con đang lo nghĩ là cứ loạn lạc mãi thế này thì khổ. Mà trong làng bây giờ lục đục làm sao ấy! Có lẽ con cũng xin ra khỏi Ủy ban cho xong. Làm việc gì mà người này nghi ngờ người nọ... Mà rồi nhiều cái trái tai lắm.
- Thôi, dì con mình hãy biết thế. Tối nay vào trong bà giáo xem đến tuần tứ cửu, cô Thọ có tính làm gì không? Và hỏi thăm cậu Văn đi đâu cho biết.
Chiều đến, dọn dẹp xong, hai dì con Minh sang ngay nhà bà giáo cho sớm.
Gọi là bàn cho có chuyện, chứ dì Mơ tính lễ lạt thế nào thì chị em Thọ nghe theo như vậy. Thôi thì thanh bạch, bát cơm quả trứng, làm mâm cơm cúng dối dá qua loa, và nhờ nhà chùa tụng cho bà giáo phiến kinh để được mát mẻ.
Dì Mơ về rồi, Minh còn ở lại vì Văn thầm bảo trước.
Sơn đã ngủ. Chỉ còn ba người, Văn bảo:
- Thôi ta tắt đèn đi. Ra hè ngồi nói chuyện cho mát, mà người nào có đi ngoài giậu cũng không thấy.
Mỗi người một tâm sự, cùng cảm thấy cần phải cởi mở với nhau, mà chưa biết nói sao cho tiện.
Văn hỏi trước:
- Thế nào, chú Minh? Liệu có xin được cho anh cái chứng minh thư không?
Minh vội vã lấy ở túi ra đưa cho Văn:
- Anh không hỏi em quên mất. May quá, em lấy được chứng minh thư và cả giấy giới thiệu cho anh đây. Thằng cha bí thư Tùng nó lên phủ bộ vắng.
Văn cầm lấy mảnh giấy gấp tư Minh vừa đưa cho, lặng lẽ bỏ túi. Tối, nào có nhìn thấy gì đâu. Minh hỏi:
- Anh có cần xem lại không?
- Chẳng cần đâu! Anh nói thật, dù chú không lấy được chứng minh thư cũng chẳng sao. Vì đằng nào, mai sớm anh cũng đi rồi.
- Ấy! Anh bảo sau tuần tứ cửu bà nhà, bảy tám hôm nữa mới đi cơ mà.
Văn bật cười:
- Đúng thế! Nhưng việc cần đi, thì mai đi chứ sao?
Văn hạ thấp giọng:
- Chúng mình nói khẽ chứ. Anh nhất định rồi, chú Minh ạ. Anh nói với chú như thế để xin giấy họ khỏi nghi. Mới lại cần đi trước cho khỏi bị phiền nhiễu. Mai kia, chứ cứ lẳng lặng làm bộ ngạc nhiên như thể không hiểu vì sao anh đi vội vàng như vậy mà không cho dì và chú hay.
Minh và Thọ vẫn ngồi im. Văn nhích lại gần, hạ thấp giọng nữa.
- Bây giờ thì anh chẳng giấu gì cô Thọ và chú nữa. Mai sớm anh đi, nên anh muốn nói hết; nói hết những ý nghĩ chân thành của anh.
Có lẽ chắc các em đã nhiều lần thắc mắc muốn biết tại sao anh lại tản cư về đây hàng mấy tháng nay? Chính anh cũng chẳng biết tại sao nữa. Anh nói thật đấy. Ngay cái đêm thủ đô tác chiến, anh đã tính ở lại, song không thể được, vì chắc chắn sẽ uổng mạng vô ích. Nhưng tản cư đi đâu? Anh có giấy công tác đem theo đây...Thú thật, đời nào anh vào khu tư như công tác họ giao cho anh! Mà cũng chẳng bao giờ anh lên Việt Bắc đâu!
Anh nói rõ hơn để các em hiểu. Bây giờ thì anh dám nói, vì anh biết đời nào hai em nỡ hại anh! Và anh cũng nói để các em thấy rộng hơn; mong rằng những nỗi khổ tâm của anh sẽ giúp ích cho các em sau này.
Anh không thể lãnh công tác tại khu, thì đi đâu? Anh sực nhớ đến bên nhà, vì hồi xưa ông còn, mỗi khi lên tỉnh lãnh lương đều có ghé chơi với các bác nên anh biết. Cũng định bụng ẩn náu mươi lăm bữa, xem tình hình rồi sẽ liệu. Nhưng tin tức chiến cuộc làm anh khó suy tính; lại ưa may gặp các em thấy đáng mến. Anh vẫn muốn tìm hiểu nếp sống ở thôn quê nên thấy ngay là một dịp tốt. Chắc các em cũng thấy anh không khó chịu lắm như các ông các bà khác ở tỉnh chạy về chứ gì? Anh thường nghĩ: tại sao cùng là dân Việt mà tỉnh với quê lại cách biệt nhau thế? lại khinh thị để có thể thù ghét nhau thế? Nếu không chịu tìm hiểu nhau, thì có ngày đến chém giết nhau mất, còn nói gì đến độc lập, đến tự do, đến hạnh phúc.
Văn ngừng lại giây lát, như suy nghĩ:
- Anh chưa nói tại sao anh nhất định không ra khu lãnh công tác nhỉ? Có phải là tại anh sợ gian khổ trường kỳ kháng chiến không? Có phải là anh phản động, định cấu kết với địch không? Mấy tháng nay, chắc các em không nỡ nghi cho anh như thế. Anh nhất định không ra khu chỉ vì anh đã thấy quá rõ, anh không còn tin tưởng nữa, hay nói cho đúng hơn, anh tìm con đường khác để tin tưởng.
Làm sao mà hai em có thể hiểu được điều anh vừa nói đây, nếu anh còn giấu các em? Giấu làm gì nữa, vì mai sớm anh đi; chắc hẳn chẳng đời nào các em lại đi báo cho ủy ban biết mà bắt giữ anh lại. Trước đây, thầy em Thọ đôi khi qua thăm nhà anh, anh còn nhỏ, nên lắm lúc vui chuyện thầy em có kể chuyện dưới quê. Anh nghe thì nhớ vậy. Thật ra thầy em với bác giai chỉ là chỗ quen biết, song xứ thân tình thì cứ nhận là anh em đấy thôi. Tại sao anh lại nói rông rài như vậy nhỉ?... Cứ nghe thầy em kể chuyện ở dưới làng, dần dần anh cũng thấy thích thôn quê; thế rồi những vụ nghỉ, nhất là nghỉ hè, anh đi chơi đây đó, anh có dịp thấy rằng đồng bào chúng ta cực khổ lắm, và nếu không có gì biến chuyển sẽ chỉ ngày cực khổ thêm mà thôi. Còn những người như anh ở tỉnh, may mắn được ăn học, thì hầu hết cũng cứ an phận lo học hành, lo kiếm chỗ làm cho được lương cao tiền nhiều ; thật tình nào có biết rõ đồng bào ở thôn quê sống ra làm sao đâu? Mà có lẽ ở đồng ruộng cũng cho dân tỉnh thành chúng anh là tây tầu nhố nhăng chỉ biết lấy của làm giẫy. Anh vẫn suy nghĩ phải làm thế nào cho tỉnh với quê bớt cách biệt nhau, làm thế nào để những người dân chân lấm tay bùn với lớp người có chút học hành khỏi như người hai nước... thì mới có thể cùng khá mà ra khỏi chỗ bế tắc.
Thế rồi anh bị chính phủ bảo hộ trưng dụng và đưa tuốt vào Sàigòn. Đâu có phải là lần đầu anh biết miền Nam bộ? Trước đây anh đã có dịp vào miền Nam gần một năm trời và lặn lội khắp miền Tiền Giang. Âu đó cũng là cái may trong cái không may vậy! Vì nếu không bị trưng dụng đưa vào miền Nam làm việc thì bửa nay đâu anh có ngồi đây nói chuyện với các em? Nếu không bị trưng dụng và đầy vào miền Nam, thì có lẽ lúc này anh cũng hăng hái mơ hồ lên khu để giải phóng...
Đột nhiên Văn cười, tiếng cười khẽ mà chua chát như đầy hoài nghi, hờn giận:
- Giải phóng! Giải phóng cho ai? Giải phóng cái gì? Thế nào là giải phóng?
Và nắm chặt lấy tay Minh, dằn từng tiếng:
- Nếu chưa biết mình muốn gì, đừng có nói giải phóng vội. Hãy tìm hiểu đã. Phải tìm mà hiểu nhau, phải tìm hiểu sự việc đã.
Văn ngừng lại một chút, và trở lại bình tĩnh:
- Anh quên mất câu chuyện chính nhỉ. Mấy tháng sau, Nhật đảo chánh Pháp; rồi Nhật đầu hàng ; rồi quân Anh Pháp trở lại Sàigòn; rồi súng nổ ở Sàigòn và lan tràn toàn vùng Nam bộ. Có người thanh niên nào là không rung động vì đất nước chuyển mình để vươn tới? Nhưng thôi, nhắc làm gì? Anh chỉ có thể nói với các em rằng anh đã chiến đấu, anh đã lang thang khắp nẻo để được thấy thế nào là hy sinh, thế nào là phản bội! Để được hiểu thêm một chút...
Anh trở ra Bắc để còn kịp nhìn thấy rõ hơn nữa cuộc chiến tranh của dân tộc, và nhìn thấy những con người không tưởng cố ý chuyển hướng dân tộc vào một cuộc phiêu lưu... Anh đã thấy tận mắt trong đêm mười chín tháng chạp vừa qua bao nhiêu là thanh niên tự vệ thành như bầy thiêu thân lăn vào lửa đỏ. Anh mến phục họ và cũng thương hại cho họ...
Anh biết nói gì hơn nữa với các em đây? Không, anh không hề nghĩ rằng chúng ta tránh được đau khổ đâu! Chiến tranh còn dài ; quê hương chúng ta còn đau khổ thì làm sao chúng ta cứ mong được an vui? Anh đã chẳng nói với Minh rằng súng đạn, máy bay kia cũng vô ích. Quân Pháp sẽ thua. Nhưng ai sẽ được đây? Kháng chiến được hả? Nhưng kháng chiến là những ai? Những kẻ dẫn về thủ đô trong chiến thắng sau này có phải là kẻ thực sự kháng chiến không? Mà. thắng, để rồi sao nữa? Để áp bức, đói khổ ư? Không, không... Anh chưa nhìn thấy gì hết cả, hai em ạ. Anh chỉ còn biết một điều là dân tộc Việt Nam chúng ta vẫn trường tồn. Nhưng ai hướng dẫn đây? Và hướng dẫn về đâu? Có lẽ bây giờ các em chưa hiểu được lời anh nói... Thôi, các em hãy nhìn dì đấy. Cứ kiên gan bền bỉ chịu khổ cố sức bám lấy mảnh đất này. Giặc có tới, lánh đi. Giặc đi, lại trở về. Kẻ nào giữ được bản chất của mình, thì sẽ thắng đấy, hai em ạ.
Văn nói như người trong cơn mê; Thọ và Minh im lặng nghe, không còn biết hỏi lại thế nào. Văn ngừng nói đã lâu, mà cả Thọ lẫn Minh không nhúc nhích. Văn khẽ thở ra, như trút một gánh nặng:
- Mai đây, anh đi sớm. Anh sẽ trốn ra thủ đô. À, các em đừng vội giận là anh theo giặc. Đời nào anh lại theo Pháp được. Nhưng anh còn muốn sống, để tìm hiểu, rồi mới nói chuyện giải phóng. Mà sống ở đây cũng như ở khu, thì người ta không để cho sống nữa rồi. Kể thật cũng mai mỉa. Anh về đây, anh được thấy dì; anh mến và phục lắm. Vì vậy mà anh liều về Hà Nội đấy ; anh sẽ cố sống như dì, các em đừng lo... Thôi, khuya rồi, đi ngủ đi; mai anh còn đi sớm cho ít ai thấy anh đi. Chú Minh ngủ lại đây với anh nhé!
Văn mở mắt, choàng dậy vì thấy dưới bếp có ánh lửa. Văn rón rén bước lại gần. Thọ đương loay hoay đun bếp. Nghe có tiếng chân người, Thọ giật bắn người quay lại:
- Gớm! Anh làm em hết hồn. Anh dậy sớm thế.
- Chưa sớm bằng cô. Cô đun nấu gì đấy?
- Em thao thức không làm sao mà ngủ được, cứ nghĩ đến anh đi mà vừa buồn, vừa lo. Chợt nhớ rằng có lẽ anh đi xa, nên dậy thổi nồi cơm nếp đậu, lát nữa anh gói đem theo...
Thọ không nói hết đã nấc lên, cố nén tiếng khóc:
- Anh đi ra Hà nội. Còn em, em sẽ đi đâu? Và bao giờ mới đi được!
Văn nhìn Thọ tấm tức mà thương hại. Chàng biết nói sao? Có bao giờ ai dám an ủi cái điều người ta muốn tránh không dám nói đến?
- Em hiểu những thắc mắc của anh. Chắc anh còn có nhiều điều chưa nói hết. Phải, làm sao mà anh có thể ở đây mãi được. Thôi, em chỉ còn biết chúc anh đạt được ý muốn ; và em mong rằng một ngày khác sẽ còn được gặp anh...
Văn tần ngần. Ánh lửa dưới bếp nhấp nhô làm rung động thêm đôi vai của cô gái gục đầu trên gối. Văn lắc đầu, khẽ đặt tay lên vai Thọ, nhẹ nhàng bảo:
- Em đừng nên khóc. Chợt chú Minh thấy càng thêm thắc mắc và khó nghĩ cho anh. Còn loạn ly thế này, anh còn như con chim chưa biết bay đi phương nào, em thắc mắc làm gì? Chúc em ở lại được may mắn và làng ta bình yên qua cơn sóng gió. Một ngày kia, anh sẽ trở lại thăm em. Mong rằng khi đó em đã hoàn toàn sung sướng.
Nước trong nồi cơm đã sôi. Thọ vội chắt nước, quấn rơm đốt. Văn vội vã ra ngoài sân rửa mặt, cố tránh cuộc nói chuyện tay đôi như vậy.
Gà vừa gáy thì Minh cũng vừa trở dậy. Thọ đã gói chặt cơm nếp trong tàu lá chuối non hơ trên lửa cho héo khỏi ròn.
Ra gần tới cổng, ba người cùng nghẹn ngào. Văn dừng lại, vỗ vai Minh, bảo:
- Chú thưa với dì: tôi gửi lời chào dì nhé. Đừng tiễn làm gì, sẽ phiền cho tôi và cho cả chú nữa. Tôi chỉ còn biết khuyên chú cố gắng cẩn thận, vì cuộc chiến đấu thật trường kỳ đấy. Dù cho Pháp có thua và rút lui hết đi nữa, cũng chưa phải là xong đâu. Thế nào tôi cũng sẽ còn gặp chú. Cô Thọ ở lại nhé. Đừng có buồn quá làm gì. Sống ở làng thì phải hòa mình vào nếp sống của dân làng đi. Anh khuyên cô nên mời dì sang đây với cô cho vui... À, có ai hỏi, cứ nói là anh có giấy trên khu về gọi nên vội vã đi luôn nhé. Thôi, bây giờ thì xin chào tất cả.
Cánh cổng vừa khép, thì Văn cũng thấy như lòng mình khép lại. Chàng rảo bước băng qua ngõ xóm ra cánh đồng; chàng tránh đi trên đê làng để mọi người khỏi để ý. Cánh đồng vào cuối tháng năm chỉ còn trơ những gốc rạ với những gốc ngô đã chặt, nên thật tiêu điều và tàn tạ. Lòng Văn cũng mang mang u hoài như để lạc mất hết mọi mến thương.