- 11 -
Ngày hôm Văn đi, dì Mơ đã qua bên Thọ, trông coi giúp ít lâu và cho nhà đỡ vắng vẻ. Thọ như người vơ vẩn mất hồn. Mùa màng đã xong, nên Thọ cũng chẳng còn bận phơi phóng gì nửa! Khổ, còn có gì? Ruộng ông giáo để lại, cho cấy rẽ năm mẫu ăn hai mẫu rưỡi, vừa ngô vừa lúa chiêm vào vụ tháng năm này. Song đầu năm quân Pháp phá ụ, rồi xe chúng qua lại trên con đê làng hàng hai, ba tháng, thành thử đồng ruộng chỉ được chăm bón vội vàng như ăn trộm thì làm sao mùa màng tốt cho được. Thọ bắt đầu thấy lo lắng về đời sống. Phải lo cho gia đình, dù chỉ có hai chị em, phải lo cho nhà cửa, và còn biết bao nhiêu thứ lo cho được yên ổn dưới bóng tre xanh. Dì Mơ qua ở chơi với chị em Thọ, thì nhà đỡ vắng vẻ, nhưng cũng chỉ đỡ vậy thôi, chứ việc nhà Thọ thì đâu dì có biết, mà dù biết nữa dì đâu có quyết định?
Nên Văn đi, Thọ cảm thấy cả một trống rỗng và vắng vẻ. Những u ẩn trong lòng, nào Thọ có nói được hết với Văn? Và cũng chỉ gần cái ngày Văn ra đi Thọ mới nói ra được phần nào.
Cuộc đời tiểu thuyết Thọ đã thấy xa lắc xa lơ! Cái ngây ngất buổi ban đầu khi Minh đắm đuối nhìn mình, những xúc động trào lòng khi mê mải bước theo Minh trên con đê từ tỉnh lỵ về làng buổi biểu tình ngày nào... hết thảy đã xa quá, xa quá rồi. Những luồng đạn bắn xé trời, những xóm nhà cháy dở, rồi bà giáo qua đời trong cảnh kinh hoàng thê lương của thôn xóm... hết thảy đã làm tan vỡ mộng đẹp. Nên chi Văn vụt hiện ra như một ngọn lửa ấm, một ánh sáng mới hấp dẫn Thọ, cho Thọ bấu víu trong cơn hoang mang hầu khỏi bị chim đắm trong vô định và vô vọng.
Nay Văn đã ra đi. Hy vọng gặp lại Văn thật mong manh biết mấy! Bây giờ làm gì? Chờ đợi gì? Thọ như kẻ chơi vơi nơi biển cả ; chỉ một đợt sóng nữa là đủ vùi dập. Bóng dáng của Minh thật thà chất phác đã quá mờ, không làm sao đủ kéo Thọ lại cuộc đời quá bình thường dưới bóng tre xanh, nơi đó, người, vật và cây cỏ cứ âm thầm sống chết như mùa màng hết năm này tới năm nọ.
Thọ đương qua một cơn bệnh nặng, mà nào ai biết? Nào ai có thể biết cho Thọ?
Dì Mơ chỉ yên trí là Thọ thương nhớ bà giáo, và Thọ lo sợ cho chị em mình vì nhà vắng vẻ lại gặp buổi loạn ly ; cho nên dì nghĩ rằng ở đấy ít ngày cho Thọ đỡ sợ hãi, rồi dần dần sẽ quen đi.
Minh thì không lui tới nữa. Có phần nào là Minh muốn giữ ý tứ khỏi để Thọ mang tiếng ; và phần nào Minh đã thắc mắc về những lời nói của Văn. Văn nói nhiều, nhiều lắm, Minh không nhớ hết, và có lẽ không hiểu hết. Nhưng giọng nói rành rẽ, say sưa của Văn còn như văng vẳng ; càng nghĩ, Minh dần dần càng như gần Văn hơn. Nhìn lại cuộc đời hàng ngày trong lo sợ và thiếu thốn, nhìn lại những bạn như chủ tịch Tèo, như ủy viên quân sự Khước, nhìn lại nét hãnh diện và xảo trá của bí thư Tùng, nhìn lại dân làng cắm cúi trên miếng đất... Minh chợt thấy mình không còn là xã Minh, không còn là đồng chí Minh hăng hái tham gia cách mạng, hô hào biểu tình nữa.
Minh càng thắc mắc tại sao Văn đã kháng chiến trong Nam bộ, lại thôi không ra khu kháng chiến ở Việt Bắc nữa? Tại sao Văn chống Pháp, rồi nay lại trốn vào Hà Nội? Con người lanh lẹ đáng mến thế, có thể là Việt gian được không? Vả lại Văn ở đây có tới năm sáu tháng trời, làm gì đâu mà bảo là Việt gian?
Rồi Minh lại thầm hỏi bao giờ kháng chiến thành công? Thành công rồi ra sao? Hiện nay nói gì thì nói, chứ quân Pháp có qua làng nữa đâu, mà ủy ban có biết làm gì hơn ban hương hội ngày trước? Văn đã gieo lại một chút nghi ngờ trong lòng Minh. Và tự nhiên Minh không nghĩ đến Thọ nữa, mà còn thấy rằng những thắc mắc trước đây lo xem có lấy được Thọ hay không nay đã biến thành câu chuyện quá xa xăm.
Dì Mơ cứ vô tình cần cù làm lụng, nào có biết đến những băn khoăn của hai người đương lột xác để mỗi ngày xa nhau thêm một chút. Dì như cây cỏ hút màu đất của làng Thụy để lớn, để sống năm này qua năm khác, rồi chờ tuổi già chết đi, đem xương thịt tan biến hoàn trả lại cho đồng ruộng đất màu đã hút. Cách mạng hay loạn ly có làm gì cho dì đau khổ nữa thì cũng chỉ như bão táp rung chuyển cây kia làm cho tơi tả, hoặc quá nữa đổ gãy là cùng, chứ cây nọ làm sao mà dời đi được?
Mấy dì con cứ âm thầm bền bỉ sống. Song những nỗi hân hoan cởi mđ, những câu hỏi tò mò tìm hiểu đầy thiện cảm của Văn, nay không tìm đâu thấy nữa. Dì Mơ sống trông chờ thái bình. Thọ sống mơ màng ngày vượt khỏi rặng tre xanh đi tìm cuộc đời mới. Minh sống trong hoang mang mơ hồ chờ đợi một biến đổi, tìm lấy hướng đi mà Văn chưa kịp vạch rõ.
Ở nơi thôn xóm, tắt lửa tối đèn thường gặp nhau, thì thêm một người hay bớt một người cũng đủ cho dân làng xì xào nói tới ngay. Văn bất thần đi, dù cho Thọ và Minh nói là có giấy gọi, và nhật báo có đăng lệnh lên khu nhận công tác thì người ta cũng không dễ tiếp nhận ngay như thế.
Những lời dị nghị làm cho Thọ thêm buồn, và cho Minh thêm lo nghĩ bực tức. Cán bộ phủ đi về xã luôn. Và một bữa, kể ra Văn đi đã tới nữa tháng, Minh đương ngồi cạp lại máy chiếc rổ rá thì có lệnh gọi ra trụ sở công tác gấp. Kể ra hồi này Minh cũng không liên lạc luôn luôn với toàn bộ ủy ban xã; thường ngày Minh chỉ cắm cúi lo công việc làm như thuở xưa.
Minh lật đật tới trụ sở thấy đã tập họp đông đúc. Có cả ba ủy viên từ phủ bộ về họp. Minh cảm ngay thấy một không khí nặng nề, mà linh tính như báo cho Minh biết là sẽ không hay cho bản thân. Minh vừa ngồi xuống, thì ủy viên phủ bộ đã lạnh lùng đặt ngay vấn đề.
Bí Thư Tùng tố cáo ủy viên liên lạc Minh về ba tội: kém tinh thần phục vụ nên lừng khừng trong công tác, liên lạc với giai cấp phản động vì hai dì con Minh đã ‘‘tương quan mật thiết’’ với gia đình bà giáo, đã chứa chấp và giúp đỡ một tên khả nghi là Văn. Cho nên phủ bộ cử ba ủy viên về điều tra và xét xử. Minh bỡ ngỡ không hiểu sao những việc Minh làm giản dị và ngay thẳng như vậy lại có thể bị xem là tội. Có lẽ phần nào nhớ những bỡ ngỡ của Minh như từ cung trăng rớt xuống, và nhất là nhờ được chủ tịch Tèo và ủy viên quân sự Khước bênh vực, nên sau buổi hội nghị Minh chỉ bị hạ công tác. Nói là hạ công tác, thật sự Minh nào còn thiết làm gì từ lâu nay? Có điều là ít bữa sau, ủy ban hành chánh và kháng chiến xã đã cải tổ và Minh không còn nhiệm vụ gì nữa.
Thâm tâm Minh thật mừng đã không còn phải nghĩ đến công tác cho ủy ban. Minh có thể yên trí làm ăn cầy cấy. Dì Mơ cũng mừng ; thôi thì hai dì con cứ an phận. Dì có tuổi, cảm thấy sức đã kém trước, nay thấy Minh chăm lo đồng áng thì dì đở vất vả, và mừng thầm như vậy tất sao cũng lo xong vợ cho Minh.
Bẵng đi một dạo, cán bộ phủ không thấy lui tới thường như trước ; thẳng hoặc một vài anh bộ đội qua lại cũng chỉ nói là canh chừng ca nô địch trên sông Hồng. Trên đê, năm thi mười họa xe địch mới qua lại, song dân làng đã quá quen nên mặc ý lặng lẽ sau rặng tre xanh, việc ai nấy làm, không chọc giận chúng thì thôi. Làng Thụy những tưởng lại êm đềm sống như thưở nào.
Thật đến lạ lùng! Chiến tranh cứ tiếp diễn, hai kẻ địch cứ chung sống trên lưng dân quê đất Việt; mà người dân quê cũng cứ bền bỉ chịu đựng trong nghèo khó và vất vả, đổ mãi mồ hôi lên luống cầy, vãi thêm xương máu lên đất nước.
Mùa tháng năm, rồi tháng mười, rồi lại mùa tháng năm... Đã hai năm qua từ đêm thủ đô tác chiến, dân quê sống ven những con đường địch qua lại đã bền bỉ chịu đựng để âm thầm tồn tại trong buổi tranh tối tranh sáng.
Rồi một ngày cuối Đông năm Bính Tuất sắp sang năm Đinh Hợi (1947) [1], thôn xóm làng Thụy đương xo ro trong gió hanh rét mướt, cây cối bạc phếch cằn cỗi như hết cả sinh lực, và dân làng mệt mỏi sống cầm chừng như cây cỏ gắng gượng cố lấy chút mầu trong đất kiệt chờ ngày ấm áp, thì bỗng đâu từ làng Trang làng Yết phía dưới vọng lên những tiếng kêu hãi hùng lẫn với hàng tràng liên thanh vang rội. Mọi người nhớn nhác chạy ra ngõ xóm nhìn về xuôi. Tiếng nổ càng mau, càng lớn, rồi ánh lửa bốc cháy đỏ rực. Người làng dưới tuôn chạy lên, đầy hãi hùng, lo âu trong bất lực.
Quân Pháp đốt phá, vì xe chúng qua làng, bộ đội gài mìn trên mặt đê làm nổ tung một chiếc díp của chúng. Bộ đội lẩn đi đâu từ bao giờ, nào ai biết? Nhưng dân làng ở đây, vẫn sống chết ở đây, thì bây giờ chịu làm mồi cho quân Pháp đổ hết giận hờn lên đầu.
Lửa bốc cao thêm và lan rộng. Những lưỡi lửa đỏ hồng trong khói đen vươn lên khỏi bóng tre nghiêng ngả, vẫn dồn đuổi người dân tới tấp từ xuôi chạy trốn lên ngược. Chưa ai biết làm thế nào, cứ nhớn nhác, và đành ngơ ngẩn đứng trông.
Nhưng tiếng động cơ xe đã chuyển lại gần. Ai nấy như ngủ mê sực tỉnh, vội vã từ hai bên đê tỏa ra chạy về phía đồng, và về phía bãi ven sông. Con đê chạy dài phân đôi làng Thụy, lúc này ai dám băng qua? Thôi thì sống chết có giời; họ hàng đành chịu; mẹ con, vợ chồng... đành chịu. Người ở phía xóm đồng chạy một đàng, kẻ ở xóm bãi chạy một nẻo. Như luồng gió lốc từ từ cuốn lên, những lằn đạn từ mặt đê bắn rải ra hai bên. Tiếng cây ngả gục, tiếng đạn réo, tiếng động cơ rền nổ... Mùi khói lửa theo gió thổi từ xuôi lên ngược đã phảng phất lợm khét trong khí giời.
Minh dìu dì Mơ nằm nép tận bờ sông dưới hàng dâu chưa kịp chặt gốc. Kể đã xa bờ đê đến cây số ngàn mà dì Mơ còn run lẩy bẩy. Minh bàng hoàng, không thấy một chút sợ hãi, nhưng tự nhiên xốn xang bực tức. Tại sao mình lại bất lực như vậy? Nếu không may một viên đạn lạc tới thì cũng đến chết như con trâu, con chó vậy thôi! Mà tại sao không đánh, lại chọc chúng, để chúng tàn phá làm gì? Có phải như vậy mới gây căm thù không? Minh không thể hiểu được.
‘‘... Nhưng ai thành công? Ai thắng? Chú thắng hay tôi thắng? Hay chúng mình cùng thua?...’’
Minh chợt mang máng nhớ đêm nào Văn bảo Minh như vậy; Minh không nhớ rõ thật đúng lời Văn nói, nhưng ý Văn là vậy…‘‘Pháp sẽ thua. Nhưng ai thành công? Ai thắng?...’’ Đột nhiên Minh như bắt đầu hiểu Văn một chút. Chết uổng như con trâu, con chó vậy ư? Chọc cho địch đốt phá những túp nhà tranh là cả cơ nghiệp của mình mới gọi là kháng chiến ư? Minh băn khoăn và xốn xang bực tức quá đi mất thôi. Minh thấy thắc mắc làm sao ấy!
Dì Mơ chợt kéo vai Minh, dơm dơm nước mắt bảo:
- Này Minh, không biết chị em cô Thọ có chạy được không? Nhỡ Tây nó bắt được thì chết!
Nào Minh còn nghĩ đến Thọ! Thấy dì Mơ nhắc, Minh chợt nhớ ra. Nhưng nhớ ra để làm gì? Ngay chính bản thân còn lo chưa nổi, giúp ai được? Minh đành tặc lưỡi:
- Thôi thì còn có số. Lát nữa êm rồi vào trong ấy xem ra sao, chứ bây giờ đành chịu!
Tiếng động cơ xa dần và tắt hẳn. Dân làng ngơ ngác từ chỗ trú ẩn lóp ngóp kéo ra để gặp lại nhau mà mừng, và kiểm điểm thiệt hại. Cũng may chúng không đốt phá; những băng đạn chỉ làm gẫy cây cối, vỡ tường, thủng mái, ngã mấy con trâu, bò, ở ven đê chưa kịp dắt đi xa.
Dì Mơ hớt hải tới thì Thọ cũng vừa ở vệ ao lên nhà. Dì thương cho Thọ quá, dì chưa biết nói gì đã nghẹn ngào rớt nước mắt. Thọ cũng khóc. Đêm hôm đó dì Mơ ngủ lại không về nhà.
Cơn kinh hoàng chưa dứt thì mấy ngày sau quân Pháp lại kéo về. Chúng chiếm đóng điếm canh ngay ở mặt đê giữa làng, rồi chia thành toán vào trong xóm duồng bắt được một số dân làng nấp không kín. Chúng dẫn lên đê, sai đem bao cói, xúc đất tải về chất chung quanh điếm canh. Chúng lại đem cả giây thép gai, đóng cọc căng kín bốn phía, đủ để một lối vào. Thế là chúng lập đồn canh ở lại. Thật tình, một ngày, hai ngày chúng chỉ có bắt ít gà vịt ăn thịt mà thôi chứ không phiền hà đến ai cả. Rồi chúng cất lẻn bất chợt vào trong các xóm. Cuộc tiếp xúc bất thần và gượng gạo cũng không thấy khó khăn, nhưng dân làng cố lẩn tránh, âm thầm lén lút sống không dám dàn mặt, tuy chúng chưa bắn giết ai.
Nhưng mấy bữa sau, vừa lúc chạng vạng tối, trong cái im lìm như nín thở của thôn xóm, bỗng có tiếng kêu thất thanh, rồi tiếng chân nhộn nhịp. Tiếng kêu như xé trời, cô độc và tuyệt vọng, như con lợn bị bắt trói đem đi mổ thịt còn cố giẫy giụa đến cùng. Tiếng kêu khàn dần rồi im bặt trong tăm tối của bóng đêm.
Dì Mơ ngơ ngác; Minh vội tắt phụt ngọn đèn. Hai dì con dỏng tai nghe ngóng. Minh khẽ nói:
- Để con bò ra ngoài giậu nghe xem động dụng thế nào?
Dì Mơ vội níu lại, nhưng không kịp. Minh đã như con rắn lách người ra khỏi liếp. Minh vừa kịp lẩn vào sau bụi chuối ngay cổng vào thì một bóng đen men theo giậu đã bò vào sân. Có tiếng quen gọi khẽ.
- Chú Minh! Chú Minh có trong nhà không?
Minh nghe rõ tiếng Khước, bèn rón rén tới và khẽ thưa. Ngọn đèn khêu lại bằng hạt đậu ; nét mặt Khước hốc hác càng nổi rõ gò má với đôi mắt sâu hoắm thâm quầng. Khước hổn hển, thì thào:
- Nguy quá, thế này làng ta khó mà yên được với chúng! Lúc nãy tưởng đã nhá nhem ắt bọn chúng không mò đi đâu nữa, nên ai nấy có cần đi lại chút ít thì đi cho xong việc. Thế rồi, không may cho cái Bèo lơ ngơ ra cầu ao rửa chân tay, thế nào gặp ngay mấy thằng. Cháu vừa ở trong nhà bước ra sân thấy rõ ràng trước mắt. Chúng bấm đèn ‘‘bin’’ sáng lòa rọi vào mặt, thấy con gái là chúng áp tới ôm xốc lấy đem về đòn. Khổ cho cái Bèo kêu khản cả tiếng, nhưng ai mà dám ra cứu? Vợ chồng bác Hương đứng sau giậu, cũng đành nhìn chúng bắt mất con. Bác gái chạy sang bên nhà khóc lóc hỏi cháu làm thế nào cứu nó?
Khương nhăn mặt, lắc đầu chán nản:
- Dì tính, cháu còn biết làm thế nào nữa! Có ra chúng bắn cho một phát cũng đành bỏ chứ cứu với cấp gì!... Hai vợ chồng bác Hương đương khóc ở nhà đấy ; hàng xóm láng giềng thật tội nghiệp. Nghe mà não cả lòng, cả ruột; cháu vội lẻn sang đây nói để dì hay.
Dì Mơ và Minh lặng thinh nghe Khước nói mà tưởng chừng như còn thấy trước mắt đĩ Bèo giãy giụa kêu khóc, và tiếng kêu còn phảng phất trong không. Dì sụt sịt, lẩm bẩm:
- Con bé ngoan thế! Thật là khổ. Còn biết làm thế nào bây giờ! Sao mà số con bé vất vả thế!
Từ xưa Minh biết dì Mơ vẫn định hỏi Bèo cho Minh, vì Minh mê mải nghĩ đến Thọ nên việc ấy đành còn xếp lại. Nay cơ sự xảy ra như vậy, tự nhiên Minh thấy bâng khuâng thương hại cho Bèo quá. Bèo bị bắt đem vào đồn; thế là hết đời Bèo rồi còn gì nữa! Bèo còn mặt mũi nào sống ở thôn xóm làng Thụy được? Ai dám lấy Bèo? Cuộc đời nhỏ bé ấy chỉ một đêm đủ tan vỡ hết. Minh nhìn Khước:
- Cứ thế này, rồi chúng còn bắt người, còn lấy của... Biết làm ăn ra sao đây?
Từ lâu nay dì Mơ đã không nói chuyện với Minh về việc hỏi Bèo, bây giờ thì dì lại càng nín thinh. Dì vẫn biết là thương hại cho Bèo lắm; đâu phải là lỗi ở như Bèo? Nhưng dì không thể nào lại hỏi Bèo cho Minh được nữa!
Cuộc đời con gái ở đồng ruộng nó mong manh quá, nghèo hèn quá! Lúc loạn lạc này, giây phút bỡn cợt giải buồn, hoặc giây phút thể xác đòi hỏi của bọn người đem mạng mình đùa với tử thần, rồi vin vào đấy mà xem hết thẩy là trò đùa? Ôi, những tâm hồn cuồng loạn ấy đâu có biết rằng cuồng loạn của chúng lùa theo bao nhiêu con người khác vào sa đọa?
Dì Mơ lại trạnh nghĩ đến Thọ, nên đêm khuya vội cất lẻn vào thăm. Cổng đóng chặt, dì không dám gọi; dì lách qua hàng giậu vào trong sân, thấy buồng Thọ có ánh sáng. Dì gõ cửa khẽ gọi. Đèn vụt tắt; dì vội vã nói qua khe cửa:
- Cô Thọ ơi, tôi đây mà!
Cửa kẹt mở, tiếng Thọ còn run rẩy:
- Dì làm con hết hôn. Có việc gì mà dì phải sang khuya thế?
Đèn đã sáng lại, hai người mặt còn thất sắc, một già một trẻ nhìn nhau, thương hại đầy trong khóe mắt. Dì Mơ vừa ngồi ghé xuống giường đã thở dài não nuột:
- Khổ quá! Chuyến này thì thật chết! Hồi chập tối, việc bên xóm bãi... Cô biết chưa?
- Có, con nghe rõ cả tiếng kêu. Khổ cho chị Bèo.
Đôi mắt đen láy của Thọ vội khép lại như vừa lo lắng cho chính thân mình, vừa ngượng ngập xấu hổ. Hai người lại nín thinh. Biết làm gì giúp nhau trong cảnh bất lực? Dì Mơ lưỡng lự, rồi ngập ngừng:
- Cô ở đây vắng vẻ quá. Nói dại đổ sông đổ biển, nhỡ ra thì làm thế nào?
Thọ rùng mình, ôm mặt:
- Cô đừng giận nhé. Ấy vì sốt lòng sốt ruột mà tôi phải sang ngay bàn với cô đấy. À, mà sao cô thức khuya thế?
Thọ giật mình như sực tỉnh, khẽ nói:
- Con khổ quá, dì ạ. Con vẫn lo. Nhất là lúc nãy thấy hàng xóm xì xào về việc chị Bèo, nên con càng nhất định. Con thấy ủy ban xã có nhiều người chẳng hiểu sao lại cố ý thù ghét con, thì dù ở cũng khó yên. Bây giờ địch lại đóng đồn... Thôi thì dù có không may chết giấm chết giúi ở đâu kia không ai biết, còn hơn là nhỡ ra bị nhục nhã thì tủi cực lắm dì ạ.
Dì Mơ sửng sốt nhìn Thọ như không ngờ cô gái trước mặt mình lại cả gan liều lĩnh thế! Tuổi già đã làm dì nguội hết hăng hái bồng bột của thời xưa. Dì quên khuấy đã có thời dì cũng từng liều lĩnh vượt rặng tre xanh. Mấy lại, nghĩ cho cùng, không liều cũng chẳng được, dì tự bảo thầm vậy. Nhưng đi đâu? Dì lo lắng hỏi:
- Cô nhất định đi ư? Thật tôi cũng chẳng biết thế nào mà khuyên cô được! Nhưng cô định đi đâu? Hay là nán lại ít ngày xem ra sao?
Giọng Thọ thêm cả quyết:
- Đằng nào thì cũng một lần; nán lại, nhỡ ra thật hối không lại. Con đương thu dọn định mai sớm đi ngay, song còn lưỡng lự không biết làm thế nào nói với dì, thì may quá dì lại sang.
- Nhưng cô định đi đâu mới được chứ?
Mắt Thọ vụt sáng quắc. Hăng hái và liều lĩnh đã dồn hết trên khuôn mặt của cô gái bị ném vào giữa cuộc đời đầy bất trắc.
- Con trốn ra Hà Nội. Nếu tìm thấy anh Văn thì càng may ; bằng không, con làm thuê, làm mướn, hoặc quang gánh buôn bán nuôi em Sơn con vậy.
Dì Mơ nín thinh. Dì lo cho Thọ. Liệu có đi thoát vào Hà Nội không? Một người con gái đương thì như Thọ tránh sao khỏi cặp mắt thèm thuồng của bọn ăn thịt người không tanh kia? Làm ăn, buôn thúng bán bưng, cái đó dì chẳng ngại cho Thọ, vì dì đã từng liều như thế rồi. Nhưng dì liều là ở cái thuở bình thì kia! Chứ nay? Dì hoảng hốt lắc đầu như xua đuổi bao nhiêu hình ảnh kinh hoàng:
- Không! Không thể được.
Thọ cố gượng cười, tiếng cười nghẹn ngào đầy nước mắt:
- Dì tính không liều thì làm thế nào? Ngồi đây mà chịu chết như chị Bèo ư? Con đã nói với dì là thà chết giấm chết giúi ở đâu kia, chứ con không chịu tủi nhục ở đây được.
Thọ ngừng lại, cầm lấy hai tay dì Mơ, mà nước mắt tự nhiên cứ tuôn ra. Thọ khóc nức nở. Cũng chẳng hiểu tại sao mà khóc nhiều như vậy? Thọ có biết bao nhiêu là điều u uất trong lòng, nếu không được khóc thì Thọ chết mất. Một lát sau như đã hả, Thọ lau mặt, nhích lại gần dì Mơ.
- Dì sang chơi thật may quá. Mai sớm nhất định con sẽ đi. Quần áo, con đã xếp xong cả rồi. Thôi thì mọi việc ở nhà con nhờ dì tất cả. Nhờ trời phật, bình thì chúng con cùng trở về được nơi quê cha đất tổ là phúc đức. Bằng không, thì dì cứ trông nom cho, sau này muốn ra sao thì ra.
Thọ đứng dậy.
- Để con lấy giấy bút viết lại nhờ dì trông nom cho khỏi có điều nói ra nói vào.
Dì Mơ luống cuống không còn biết nói làm sao. Dì ấp úng:
- Cô chỉ nói dại. Như thế thật khó nghĩ cho tôi quá. Người ta nói chết.
- Thôi thì dì thương con là hết. Còn mẹ con, dì với anh Minh vẫn trông coi đấy. Về số ruộng cho bác Tư Lù làm rẽ thì con viết giấy đây dì cứ thu lúa rồi lo mọi công việc ở nhà giúp con.
Dì Mơ ngần ngại:
- Hay cô để cậu Sơn ở nhà, tôi sang đây trông nom giúp cho.
- Thôi dì ạ. Con cho em Sơn đi theo. Đã liều thì liều một thể. Con cũng muốn cho em Sơn nó học hành thành người.
Thọ cắm cúi bên ngọn đèn dầu. Tờ giấy trắng trải trên mặt giường. Thọ viết đi viết lại, xé bỏ hai ba lần mới xong. Dì Mơ gấp bỏ vào ruột tượng, bảo Thọ:
- Nói có ngọn đèn, còn bà giáo thế nào thì bây giờ cũng vậy. Thóc lúa của cô tôi sẽ phơi phóng gạt đủ ; rồi ví thử có thuế má công việc đằng nhà tôi sẽ lo. Còn thì cứ xin để đấy. Rồi cũng phải yên hàn, chứ cứ loạn mãi thế này ư?
Đã khuya lắm. Dì Mơ và Thọ mới đi nằm. Chợp mắt được một lát gà đã gáy sáng. Thọ choàng dậy, đánh thức Sơn sửa soạn. Dì Mơ đã thổi chín và gói cho hai chị em -
- Cô nhất định đi ư?
- Vâng. Dì tính chẳng nhất định cũng chẳng được.
- Cô tính đi lối nào?
- Lần trước, anh Văn có nói là anh sẽ theo lối Đồng Quan, qua Chẩy, Trừ rồi vào lối Quang, Tó. Tất cả từ hồi năm nọ bán bớt ngô thóc, con gom góp được hơn hai trăm bạc Đông vẫn giấu kỹ. Thôi thì nhờ trời, có phúc có phần chứ biết lo sao cho hết.
Mới mờ sáng. Trời đông lạnh buốt. Ngõ xóm trắng khô. Thọ dơm dớm nước mắt dặn dì Mơ:
- Thôi con đi, trăm sự nhờ dì trông nom nhà của ruộng nương cho. Ủy ban xã có hỏi, dì cứ nói là con vào Đồng Quan buôn bán và chạy giặc. Ít bữa địch rút đi, yên hàn con lại về ngay. Dì cho con gởi lời chào anh Minh ; bao giờ thái bình về, chắc hẳn dì có cháu ẫm rồi đấy...
Dì Mơ đóng cổng, chép miệng thở dài, trở vào nhà mà còn bâng khuâng như sống trong giấc mơ hãi hùng đầy những chia lìa chết chóc!
Hai chị em Thọ lủi thủi đi về phía đồng, thấp thỏm lo có người trông thấy. Qua những hàng giậu thưa, những lùm cây quen thuộc, mà có biết bao nhiêu con mắt nghi ngờ, và những con mắt hằn thù vô cớ; Thọ hãi hùng mong trốn thoát cho nhanh. Gió bấc khô lạnh giần giật thổi ngang qua cánh đồng sau vụ gặt chưa làm màu. Giữa các thửa ruộng lởm chởm gốc rạ, con đường bờ ruộng khô trắng gập ghềnh, ngoằn ngoèo, sao mà dài thế? Thọ hấp tấp đi như chạy mà mãi mới vượt hết đồng làng. Nổi sợ hãi của kẻ đi trốn mới phần nào dịu bớt. Qua một làng, hai làng...Thọ mải miết đi, chốc chốc khẽ hỏi em:
- Em có mỏi chân không? Chịu khó vào tới Phượng Dực hãy nghỉ em ạ.
Chân Thọ bắt đầu thấy mỏi. Nhưng Thọ không thể ngừng lại được. Thọ cảm thấy chơ vơ quá. Minh đâu có ở đây để đỡ bước cho Thọ như buổi nào trên bờ đê khi biểu tình ở tỉnh về. Minh ở lại nơi xóm làng dưới bóng tre xanh rờn, bên vũng nước tù kia, làm sao mà Thọ còn có thể gặp lại được? Còn Văn, liệu Văn có thoát nổi vào thủ đô chưa? Giờ đến lượt Thọ, có thoát khỏi những con mắt cú vọ và những con mắt tàn bạo đầy thèm khát chăng? Nhưng Thọ không thể lùi lại được. Dù Thọ có muốn ngừng, thì vòng bánh xe rộng lớn kia sẽ nghiến tan nát ngay trong khoảng khắc.
Chú thích:
[1] thay vì: ‘‘Rồi một ngày đông năm Tí (1948), thôn xóm...’’ ( Đính chính của tác giả)