- 13 -
Giữa đồng, nơi làng Thụy giáp làng Châu có xây một cái quán chung quanh tròng nhiều cây gạo đã hai ba đời nay rồi. Đồng làng rộng rãi, những buổi trưa hè tháng tư, tháng năm, nắng như đốt mà về nhà ăn được miếng cơm rồi trở ra đồng gặt nốt thì hết ngày. Vậy nên dân làng đã xây quán trên một nấm đất rộng, lại trồng cây, để bạn gặt có chỗ tạm nghỉ trưa tránh nắng, ăn lót lòng, uống bát nước, kịp lúc xế bóng lại làm tới tối cho khỏi mất công mất việc. Nhưng nếu buổi ban ngày ‘‘Quán đồng’’ tiện lợi như vậy, thì đêm đến không ai dám qua lại? Những cây gạo cao ngất trời đầy tổ quạ, lại giữa chốn đồng không mông quạnh là đủ khiến rợn người rồi. Đối với bộ óc bình dị, ‘‘thần cây đa, ma cây gạo’’ đã được coi là lẽ đương nhiên, thì ‘‘quán đồng’’ hẳn phải là nơi trú ẩn của những hồn ma khi đêm tối. Đứng trên đê làng nhìn ra đồng, xa tít, quán ngói ba gian chỉ còn nhỏ xíu như cái miếu nhỏ thường thấy ở gốc đa hay gốc đề ; nhất là nhiều đêm lại chập chờn có ánh lửa ma chơi thì ai mà chẳng khiếp? Các ông già bà cả còn kể lại thiếu gì chuyện ma quái về quán này, nên chẳng ai bảo ai, cứ gần buổi chạng vạng là cấm có ai dám bén mảng vào trong quán nữa. ‘‘Quán đồng’’ lại còn là chỗ đồng mấy làng, làng Thụy, làng Bi, làng Châu tiếp giáp nhau, nên thật là cô quạnh. Trên những con đường khúc khuỷu đi tứ phía, trông thấy nhau mà xa lắc xa lơ, nên đồng làng lại là con đường qua lại của những quân cướp, nhất là hai làng Bi làng Châu vẫn có tiếng là đất dữ nhiều tay chơi. ‘‘Quán đồng’’ trở thành chỗ trạm nghỉ chân của họ mỗi khi mượn đường đi đánh các vùng ven sông. Họ không phiền hà làng Thụy vì tình lân cận, họ chỉ mượn đường; song nếu không may cho ai gặp họ trên đường ra quân, thì lệ luật của những vị ‘‘quan ban đêm’’ này không cho phép dung thứ. Nên chỉ ‘‘quán đồng’’ làng Thụy cứ đêm tối như thể là một nơi cấm địa.
Từ cái ngày cách mạng tháng tám, và nhất là từ cái ngày quân Pháp qua đê làng nổ súng bắn ụ, thì quán đồng làng Thụy hết còn khủng khiếp nữa. Sau ngày cách mạng có ai nói đến cướp? Và cái đêm chạy súng đạn của quân Pháp, dân các làng ven sông Hồng túa chạy vào khu đồng chiêm đã la liệt nghỉ ở quán đồng trong lúc ban đêm mưa rét. Những ngày ấy qua rồi thì quán đồng làng Thụy trở lại cô quạnh như trước, nhất là vào mùa rét mưa phùn gió bấc còn ai mò đến đó làm gì? Quán cứ chơ vơ đứng đó, vắng vẻ điêu tàn như làng Thụy vậy.
Tới mùa đông năm Tí, từ khi quân Pháp về đóng đồn ở làng, thì thỉnh thoảng đêm đêm quán đồng lại chập chờn có ánh lửa. Thời buổi loạn ly, thiếu gì cô hồn ma chơi? Nghĩ vậy nên chẳng ai buồn để ý.
Dì Mơ cũng như mọi người dân làng Thụy đâu có để ý đến. Nên vào một đêm tháng chạp năm Sửu, trời sương muối rét buốt thon thót, dì đã giật mình khi thấy bị đưa đến đấy.
Kể cũng chưa khuya, dì đương cắm cúi vá chiếc áo bông cũ, chợt thấy hai người lù lù vào nhà. Họ không hề gọi cổng, cứ xé rào lùi lũi vào tận trong sân từ lúc nào. Có ai xa lạ đâu? Dì nhận ra ngay thằng Lựu, thằng Di hiện nay là dân quân du kích. Chúng yêu cầu dì đi theo chúng vì có lệnh của ủy ban đòi.
- ‘‘Đòi thì đòi! Thử xem chúng làm gì nào? Cũng liều là hết!’’
Dì nghĩ vậy, và dì đứng lên đi theo chẳng cần đôi hồi. Cũng tưởng chúng dẫn đến một nhà nào trong xóm như ủy ban vẫn họp; nhưng không, chúng dẫn dì đi tuốt ra cánh đồng. Dì toan hỏi, song lại nín thinh. Và chúng dẫn dì ra tận quán đồng. Dì ngạc nhiên hết sức, và rùng mình. Bọn chúng làm gì nơi đây? Không lẽ để tra tấn hay giam giữ dì?
Trong quán lố nhố người ngồi trên bệ gạch. Ngọn đèn dầu khêu to đủ sáng. Dì nhận thấy ngoài những mặt quen trong Ủy ban xã, còn mấy người lạ mặt. Hình như họ đã bàn định, thảo luận từ lâu, chỉ còn chờ dì đến.
Viên chủ tịch hất hàm hỏi dì. Giọng hắn đanh thép, tàn nhẫn. Hỏi hết điều này đến điều khác. Dì không nhớ rõ, cứ nghĩ sao trả lời vậy. Lời khai thật thà chất phác của dì làm cho hắn thêm cáu kỉnh. Tới lúc thấy bí thư Tùng gay gắt kết tội, căn vặn hỏi dì xem Văn làm gì? Văn đi đâu? Tại sao chị em Thọ bỏ làng đi biệt tích? Dì mưu mô với bọn này để đưa tin cho địch tận Hà Nội như thế nào? Dì tức quá, nói lại đáo để. Dì giấu bặt việc Văn ra Hà Nội, nhất thiết nói là lên khu lãnh công tác; dì giấu bặt việc chị em Thọ đi đâu, nhất thiết nói là vào Đồng Quan trốn giặc; nào dì quen ai mà bảo là đưa tin cho địch?
Bí thư Tùng lại hạch tội dì đã liên quan mật thiết với gia đình bà giáo là thành phần địa chủ trưởng giả, và buộc tội dì chịu trách nhiệm về việc đĩ Bèo. Tại sao trước đây dì đã lo hỏi Bèo cho con dì, rồi dì lại mua chuộc Thọ? Để cho Bèo phải đi biệt tích?
Dì đã cãi, cãi rất nhiều; dì chẳng nể nang gì hết; dì kể lể cái khổ của dì bị nhà ông Chánh Bá trước đây đối xử thế nào, dì còn hỏi bí thư Tùng đã lui tới thù phụng ông Chánh Bá thì sao? Dì cứ cãi, cứ nói. Máu liều lĩnh của người đàn bà tới lúc cùng không còn đếm xỉa gì nữa hết.
Dì nói, rồi dì sửng sốt không biết tại sao đã nói được như thế; và dì mệt nhọc ngồi sệp xuống đất khi thấy ủy ban nhất thiết hẹn cho dì trong năm ngày phải vào Đồng Quan tìm cho được chị em Thọ về mà trao trả tài sản; nếu không, ủy ban sẽ tịch thu hết và buộc dì vào tội âm mưu giúp người trốn vào vùng địch.
Bọn họ đã rút đi, song cắt hai dân quân du kích giữ dì tại quán đồng, và ra lệnh chỉ gần sáng mới thả cho về.
Dì ngồi bó gối trong đêm tối ở góc quán. Quán không có cửa nên gió từ đồng nội hun hút thổi vào. Càng khuya, sương muối càng buốt, thấm ướt cả áo ngoài làm dì rét run cầm cập. Dì chán ngán cho số kiếp dì. Nào bị gia đình ông Chánh Bá đầy ải, hắt hủi; rồi thắt lưng buộc bụng chịu cực chịu nhục nuôi cu Minh; mới được một hai năm xã Minh khôn Iớn đỡ được phần nào thì loạn ly với cách mạng, rồi lại giặc giã đốt phá chém giết. Nào dì có làm chi nên tội cho cam? Mà cũng bị buộc vào tội này, tội nọ. Đời dì sao mà khổ thế? Thái bình cũng bị hà hiếp đầy ải; cách mạng thành công cũng chúi đầu chúi mũi mà làm, để rồi cũng bị đe loi; loạn ly thì thân dì như trứng để đầu đẳng. Dì nhìn chung quanh, quán tối đen như mực, cánh đồng cũng tối đen. Chẳng biết hai tên dân quân du kích có ở đấy canh dì hay không nữa? Ví thử chúng không có đấy thì dì cũng chẳng bỏ về trong đêm tối làm chi! Gió vẫn giần giật thổi. Sao mà cô quạnh đến thế! Dì chìm đắm trong bóng tối; mà đời dì cũng thăm thẳm trong đêm dài như vậy. Dì mê man như vô tri giác, gục bên tường ngôi quán chơ vơ, chẳng nghĩ gì đến sáng, mà cũng chẳng còn chờ gì ở ngày mai nữa...
Đến khi tiếng quạ chen nhau, xào xạc trên cành gạo, dì mới ngẩng đầu nhìn ra ngoài thì trời đã tờ mờ. Sương trắng xóa như khói lê thê kéo trên khắp cánh đồng, khiến không nhìn thấy chút gì ở xa được hết. Du kích cũng đi mất từ hồi nào không hay. Những giọt sương đọng trên cỏ rạc ven đường đồng, chân giẫm lên buốt thon thót. Đầu óc dì trống rỗng mà nặng nề. Như người hôn mê, dì cắm cúi trở về xóm làng; bằng linh tính dì băng qua ngả này, rẽ qua ngả nọ mà tới nhà lúc nào không hay. Đâu phải nhà của dì? Chỉ là nhà của chị em Thọ, dì coi giứp! Trong năm ngày nữa phải tìm Thọ về cho được, như lệnh của ủy ban xã.
Tim chị em Thọ về? Nói lạ! Dì cãi làm gì? Tìm ở đâu? Nghĩa là năm ngày nữa, muốn kết tội thế nào cũng mặc. Dù cho biết mười mươi chỗ Thọ ẩn náu, dì cũng không lòng nào gọi Thọ về làng; huống hồ là tuyệt vô âm tín của Thọ.
Ngọn đèn khi đêm dì vội đi, vẫn còn để cháy ở trên phản. Dầu gần cạn hết, nên bấc đã tàn đỏ. Gian nhà vắng lạnh; có người hay không, cũng vẫn vắng lạnh như hồi hôm. Dì Mơ rửa mặt qua loa, mà thấy tỉnh táo phần nào. Dì nhóm bếp đun ấm nước vối. Ngọn lửa nóng bập bùng cháy làm dịu lòng dì, và bắt dì suy nghĩ. Không khí ấm cúng của gian bếp không cho phép dì liều lĩnh nữa ; dì đâm ra băn khoăn, nghĩ bụng chờ để bàn với Minh.
Ấm nước vối mới reo chưa kịp sôi, thì Minh đã sang. Minh vào thẳng bếp, ngồi xuống cạnh dì, mờ bọc xôi gói trong mo cau lột mỏng trắng nõn.
- Đêm qua thấy anh Khước nói, con sợ quá. Cũng đành phải chờ đến sáng xem sao. Dì mới về hay về đã lâu? Thôi dì hãy xơi cơm nếp con thổi sẵn đây rồi. Thủng thẳng sẽ bàn tính vậy.
- Anh Khước bảo sao?
- Đêm qua khuya lắm, đến một, hai giờ sáng ấy, anh Khước có lẻn về đằng nhà nói cho con biết là ủy ban họp ở quán đồng, theo lệnh cán bộ phủ về triệu tập, để xử vụ dì thông đồng với những kẻ phản bội. Chúng họp từ lúc chạng vạng, và mãi sau mới cho dân quân du kích đi bắt đì. Bọn chúng cũng thảo luận chán về việc bắt dì và con; vì địch còn đóng đồn ở làng, có bắt chỉ thêm động mà cũng không ích gì. Mục đích chúng là tịch thu hết số thóc của cô Thọ dì mới thâu hoạch, nên đề nghị của bí thư Tùng không được thông qua. Khi dì bị dẫn ra quán đồng, anh Khước có đấy, song ngồi lẩn ở phía sau, dì không trông thấy. Họp xong là anh ấy lẻn về mách cho con biết ngay đấy. Nghĩ khổ thân cho anh Khước, thầm thì xong là lại lủi đi ngay, bảo rằng anh lo địch bắt gặp anh cũng có, mà lo bị ủy ban, nghĩa là bí thư Tùng, nghi ngờ cũng có.
Dì Mơ thần mặt, rồi lặng lẽ rót nước vối vừa sôi ra bát, vừa thổi vừa uống. Nước nóng làm ấm bụng, và dì bình tĩnh hơn.
- À, anh Khước còn nói ủy ban hạn cho dì năm ngày là phải tìm cho được chị em cô Thọ. Bây giờ làm thế nào?
Dì Mơ đặt bát nước lên thành bếp, nhìn Minh, rồi bảo:
- Thì dì cũng chờ con sang để bàn tính.
Minh gãi đầu, cau có:
- Dì tính, cô Thọ cô ấy bảo với dì con mình là cô ấy trốn vào thủ đô. Chẳng biết có chót lọt không, mà từ ngày ấy đến nay cả năm rồi, còn tìm làm sao?
Minh suy nghĩ một lát, rồi như vụt nhớ ra:
- Mới lại dì con mình vào Đồng Quan hay Trừ, Chẩy mà tìm ra được cô Thọ nữa, đã chắc gì cô ấy chịu về?
Dì Mơ bần thần, thở dài như nói một mình:
- Dù có gặp cô Thọ, đời nào tao dấu cô ấy! Phải tội chết. Về để cho bọn chúng bắt bớ ấy à? Ai mà bất nhân đi làm cái chuyện ấy cơ chứ! Thôi thì mặc giời, họ làm gì thì làm. Dì con mình chẳng ăn cướp ăn trộm của ai, chẳng ăn không ăn hỏng của ai, thì việc gì mà sợ? Dì già rồi, dì khổ chán rồi! Dì chả dám làm khổ ai đâu, còn để phúc lại cho con chứ. Thôi thì Minh liệu lấy mà trốn vào Vân Đình hay qua bên kia sông làm thuê làm mướn mà ăn. Dì thi phúc thi phận với trời đấy, Minh ạ.
Nghe dì Mơ chậm rải nói, bao nhiêu đau khổ uất ức hằng chịu đựng như tiết hết ra những lời nói hiền lành nhẫn nhục, Minh thấy nôn nao bực rọc, thương cho dì, mà lại tức giận quá. Đầu óc Minh rối như canh hẹ. Tức bực thật, nhưng tức bực ai? tức bực cái gì? Minh chẳng còn hiểu ra làm sao nữa? Cách mạng để làm gì? Minh chẳng thấy ai được sướng cả. Nói làm gì đến lão Chánh Bá với phán Thành nữa, nhưng hết thẩy cả làng nào có ai mở mày mở mặt hơn gì trước đâu? Hay vẫn lo méo mặt và sợ đủ thứ? Minh miên man thương cho dì Mơ, thì lại nghĩ đến Văn. Tự nhiên Minh dần dần thấy cái lời Văn nói trước đây sao mà u ẩn thế, thì nay Minh như đã cảm thông được. Minh buồn rầu lẩm bẩm:
- Giá mà có anh Văn ở đây, đi theo anh ấy phứt.
Dì Mơ nhìn Minh bằng cặp mắt hiền từ, đầy thương hại. Dì lo cho đứa con nuôi mà quên hẳn mối bận tâm dì chưa giải quyết cách nào hơn là liều gan chịu đựng. Dì đứng lên, bảo Minh:
- Thôi, đâu bỏ mặc đấy. Con cứ sửa soạn quần áo gối ghém; chợt có tin gì đi luôn cho xong.
Dì Mơ cứ liều ở nhà tính chờ cho mấy ngày qua; dì cũng chẳng buồn làm gì hết, thu dọn mọi đồ đạc nhà bà giáo, xếp đặt cẩn thận, rồi ủy ban muốn thu cứ việc đến mà thu.
Trong khi dì và Minh trông chờ từng ngày thì bỗng nhiên thấy quân trên đồn kéo về đông hơn nữa. Rồi một buổi trưa nghe tiếng trống ở đình gióng lên. Ai nấy ngơ ngác chưa hiểu đầu đuôi ra sao thì lính tây đã chia đi khắp xóm gọi dân làng ra tụ tập tại đình. Minh đương ngồi ăn cơm với dì Mơ phải vội vã lẻn ra ao nấp xuống nước, dưới đám bèo. Bọn lính còn sục vào nhiều nhà xem có người nào là thúc giục bắt ra hết đình làng. Không có thanh niên thì ông già bà cả vậy.
Dì Mơ, cũng như mọi người, ngồi sệp nơi sân đình để nghe hô hào và hiểu dụ. Dì giật mình khi thấy trong mấy người đứng trên thềm đình có cả phán Thành. Lính đã chia nhau gác các nơi góc sân và ở thềm đình. Đâu đó rồi phán Thành đứng ra trước tươi cười ra vẻ thân mật chào và hỏi thăm dân làng. Hắn nói nhiều, thật gãy gọn trơn tru. Nào tiếc cho dân làng Thụy hiền lànhg đương sống bình yên sung sướng, nền nếp thế, bỗng đâu cái bọn cách mạng thừa dịp cướp quyền; mà nào chúng có làm gì ích quốc lợi dân đâu? Nay nhờ có quân đội liên hiệp giúp cho xây dựng lại, nên dân làng cần hợp tác để lập lại nền nếp xưa. Dân làng im lặng ngoan ngoãn ngồi nghe. Những nét mặt sạm nắng, hốc hác vì nghèo đói kham khổ, vì lẩn trốn sợ hãi... còn biết gì mà hỏi?
Phán Thành lại nói, lại hô hào các bô lão ra gánh vác việc làng việc xóm, đã có quân đội đây bảo vệ, không việc gì mà sợ. Chán không thấy ai nói gì, phán Thành chỉ mấy người ngồi sẵn nơi hàng đầu để mời đứng ra lập lại ban hội đồng. Dì Mơ nhìn ra ngay là mấy người tay chân cũ của ông Chánh Bá, và thấy ai nấy vẩn lặng lẽ, chỉ còn biết nhao nhao trả lời là thuận khi phán Thành hỏi lại có bằng lòng không?
Mọi người giải tán ra về, thì linh tính như báo cho dì Mơ biết là sẽ có chuyện xẩy ra cho mình, nên ra khỏi sân đình, dì ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy lão thủ quỹ cựu đương đứng nói chuyện với Phán Thành mà tay còn trỏ về phía dì. Dì rùng mình, cắm đầu rảo bước lẩn vào đám đông dân làng. Đã khuất sau bờ giậu rồi, mà dì còn cắm cúi đi thật nhanh.
Về tới nhà, trống ngực dì chưa hết. Tại sao phán Thành dám trở về làng Thụy? Tại sao lão thủ quỹ lại trỏ dì cho hắn? Tất bọn họ đã có điều nghi ngờ? Tự nhiên dì thấy sợ. Linh tính như khắc khoải báo trước có điều không hay cho mẹ con dì. Minh nấp sau nhà, thấy dì về, vội vã lấm lét đóng cổng, và nhận thấy nét mặt hoảng hốt của dì, thì khẽ hỏi ngay:
- Có việc gì thế, hả dì?
Dì không đáp, đi vội vào trong nhà. Minh không dám hỏi nữa, chỉ lo lắng nhìn. Trên vừng trán đã rõ những vết nhăn kia, có biết bao nhiêu là lo âu hãi hùng. Tự nhiên, dì cảm thấy sợ phán Thành hơn cả bọn người ‘‘cách mạng’’ hẹn cho dì năm ngày là phải tìm cho ra chị em Thọ mà trao trả ruộng nương nhà cửa. Đằng nào cũng có thể đầy ải, giết chóc được dì; nhưng cứ nghĩ đến phán Thành hay bọn đầy tớ phán Thành nay bắt bớ, mai đầy đọa thì dì thấy nhục quá. Mà đối với những tâm hồn ngay thẳng thì nhiều khi sợ nhục hơn sợ chết. Dì bàng hoàng bảo Minh:
- Ông phán Thành lại về.
- Lão phán Thành về làng!
Minh sửng sốt nhắc lại. Nó vụt tưởng tượng ngay ra những cảnh đen tối giống như ngày nào. Lão phán Thành, vợ chồng lão Chánh Bá cựu... nó lắc đầu như cố xua đuổi các hình ảnh đáng ghét ấy.
- Hắn về làm gì? Vợ chồng lão Chánh Bá thì ngay khi thủ đô chưa tác chiến phán Thành khôn ngoan về đón tuốt ra Hà Nội còn đâu! Hồi đó dân làng cũng chẳng để ý gì đến. Chắc bây giờ hắn về định báo thù hẳn?
- Nào biết! Chỉ thấy ông ấy nói ra vẻ nhân nghĩa lắm, lại đưa người này người nọ ra lập lại ban hương hội.
Minh cau mày:
- Để rồi đòi lại số ruộng của nhà hắn, và đòi lại số thóc cấy thuế chứ gì?
- Mặc! Có điều tao thấy sờ sợ thế nào ấy. Vì khi ra về, không hiểu sao lão thủ quỹ lại chỉ trỏ tao và nói gì với ông ta ấy.
Dì tặc lưỡi, chán nản:
- Nào tao có làm gì đâu mà hằn với thù? Thôi thì cẩn tắc vô ưu, con hãy ẩn đi. Đêm đến đi mà ngủ nhờ chỗ khác, đừng ở nhà nữa!
Minh không nói gì thêm, vơ vẩn ngồi nhìn ra sân. Ừ mà phải, lánh mặt đi cũng phải. Nhưng đi đâu? Minh càng nghĩ càng bực. Nhà của dì con mình đấy? Ruộng đất đấy, dù cho là chỉ có một vài sào đi nữa! Vậy mà sao cứ phải lén lút lẩn tránh thế này? Ai cũng có thể đàn áp, hành hạ, bắt bớ được. Bây giờ lại còn lo bọn họ trả thù. Cứ nghĩ đến cảnh làng Thụy trở lại như xưa, vẫn nhà lão Chánh Bá ăn thủ chỉ, lại tuần đinh, tuần xóm, lại thuế má nheo nhóc... là Minh thấy sôi lên sùng sục. Không, chết thì thôi, Minh chẳng chịu sống lại như vậy nữa đâu!
Tính ra thế là đã bốn ngày rồi; dì Mơ cứ lì ở nhà chẳng chịu đi tìm kiếm chị em Thọ về, như ủy ban đã hạn ngày. Minh vừa nóng ruột, vừa lo. Ấy phán Thành và bọn lính thì nói thế, chứ đêm đến cán bộ phủ, rồi ủy ban, rồi dân quân du kích, ngay cả dân làng nữa vẫn đi lại mà nào lính có làm gì được. Minh không dám ở nhà, mà cũng không dám vào trong nhà bà giáo với dì Mơ. Minh đã thầm hẹn Khước có chuyện gì thì cho Minh hay để lo liệu. Minh đành qua nhà anh Tư Lù ngồi chơi, cố giấu mối lo đương xâu xé trong lòng để chờ đợi biến cố. Thử xem đêm nay, ‘‘ủy ban hành kháng’’ bắt dì Mơ rồi xét xử ra sao đã. Tư Lù đâu biết chuyện gì, cứ đem việc phán Thành về làng lập lại ban hương hội ra bàn bạc mãi với Minh. Minh ầm ừ cho qua chuyện, mà trong bụng tính từng giờ, từng phút, và lắng tai chờ nghe xem có thấy Khước tới gọi không.
Vào tháng chạp, trời vừa tối vừa lạnh. Từ hồi lính về làng đóng đồn, thì chó cũng chẳng còn được mấy con, nên khuya đến lại càng im ả.
Tư Lù và Minh bó gối ngồi trên ổ rơm mà nói chuyện thầm với nhau; thắp đèn làm gì cho thêm tốn? Bên ngoài, nghe như lại lất phất mưa, vì nước rỏ giọt từ tầu chuối này qua tầu khác. Tư Lù vừa ngáp vừa nói:
- Ở quách đây ngủ với tôi cho ấm! về đằng chú thì cũng đến ngủ chứ làm gì?
Minh chưa kịp đáp, bỗng nghe tiếng súng nổ. Một tiếng, rồi một tràng tiếp theo. Có tiếng quát tháo lẫn với một vài giọng chó sủa. Tư Lù tỉnh hẳn ngủ, nắm lấy tay Minh, run rẩy:
- Biến! Có biến, chú ạ.
Có tiếng chân người chạy ngoài ngõ xóm. Hai người vùng dậy. Minh khẽ bấm Tư Lù:
- Chúng mình phải tìm chỗ lẩn đi. Nhỡ họ sục vào nhà thì sao?
Tư Lù nắm tay Minh kéo ra ngoài. Minh bước theo. Trời tối như mực, Minh không còn thấy gì nữa hết, cho tới khi bị Tư Lù đẩy mạnh ngã chúi xuống mới biết là ngã vào đống rơm. Giời vẫn lất phất mưa buốt. Rơm cũng ướt. Tiếng Tư Lù thì thào:
- Chỗ này thì kín. Đống rơm vừa khuất vừa dễ nấp. Hễ thấy động chúng ta cứ việc rút ra phía sau là đi tuốt ra bãi sông rồi.
Nhưng vùng xóm Tư Lù thấy yên, không có gì khác. Nhìn lên bờ đê, xa thấy ánh đèn bin và thấp thoáng có người đi. Rồi đâu đó lại im lìm trong đêm tối.
Yên rồi, và đã khuya lắm, hai người mới dám trở vào nhà và chợp mắt được một chút. Vừa sáng, còn tinh sương, Minh vừa tính qua nhà Khước, đã nghe thấy tiếng người ngoài ngõ gọi:
- Anh Tư ơi! Có nhà không?
Tiếng gọi dõng dạc và quen quen. Minh hoảng hốt vội lẩn ra sau nhà, đứng nép lắng tai nghe.
Anh Tư Lù vừa cất tiếng thưa, thì lão thủ quỹ đã bước vào sân. Minh vội lẻn ra nấp sau đụn rơm. Tiếng lão thủ quỹ oang oang, có vẻ đắc sách:
- Thế nào, anh Tư đêm qua ngủ nhà, có đi đâu không?
Tiếng Tư Lù ngẩn ngơ đáp:
- Kìa ông thủ quỹ! đêm qua rét thế, mà trời đất này còn dám đi đâu. Cháu nằm chúi ở nhà đánh một giấc cho yên. Mà sao thấy có súng nổ, cháu sợ quá. Không biết có việc gì thế?
Tiếng lão thủ quỹ cười gằn.
- Ấy, chúng nó cứ giở khôn giở dại làm khổ cho làng mình. Có gì đâu, hôm qua chẳng quân đội vào xóm trong bao vây bắt mấy thằng giặc, chúng nó họp ở nhà thờ họ Vũ. Chúng quen như vẫn họp, tướng tối đến là quân đội không đi đâu nữa mà!
- Thế có bắt được ai không, hả ông?
- Có. À, mà này, lâu lắm chẳng gặp bà con làng xóm nửa. Anh xã Minh hồi này cũng đi đâu ấy nhỉ? Anh có gặp không?
Minh giật mình khi nghe thấy lão thủ quỹ hỏi đến. Minh xưa nay vẫn ghét hắn, vì hắn ra vào nhà ông Chánh Bá cựu. Cũng may là Tư Lừ ngập ngừng trả lời:
- Thằng Minh con nhà dì Mơ ấy à? Lâu lắm rồi, từ cái hồi cách mạng cách miếc, nào nó có đi lại đằng nhà cháu đâu. Hình như nó đi theo cô Thọ con nhà bà giáo từ mấy tháng nay rồi thì phải.
- Không có đâu! Xã Minh vẫn ở nhà đấy chứ!
- Ông tìm nó để cho làm rẽ chắc. Hay ông để cho nhà cháu làm nốt cũng thế.
Tiếng lão thủ quỹ cười như chế nhạo:
- Anh này thật thà như đếm! Cũng vì thế mà tôi thương anh mới nói với quan Phán đấy. Nếu không thì đêm qua cũng bắt luôn cả anh rồi.
Tư Lù sứng sốt:
- Chết! Nhà cháu có dám làm gì đâu! Từ cái hồi Nhật nó đánh, cháu còn sợ. Nay lại bắt nữa thì nhà cháu chết mất.
- Tôi biết mà. Bên xóm bãi, hôm qua mới bắt có mình thằng chủ tịch Tèo; còn bên xóm đồng... Thôi, tôi còn có việc, nếu anh thấy xã Minh thì bảo hắn lại đằng tôi, có việc này hay cho hắn lắm đấy!
Minh lén nhòm, thấy Tư Lù khúm núm chào và lão thủ quỹ hất hàm trả lời mà phát ghét. Nó chờ lão thủ quỹ đi xa lắm rồi mới dám từ chỗ núp chui ra.
Tư Lù vừa thổi con cúi lấy lửa, vừa nhăn nhó. Lửa đã bén, Tư Lù mới thở dài bảo Minh:
- Đêm qua có động là lính đồn vây bắt ủy ban, lại bắt thêm dân làng nữa. Tội nghiệp cho anh xã Tèo, bị bắt rồi.
Minh ngắt lời:
- Phúc đức mà anh không nói là có tôi ở đây. Tôi núp nghe được hết. Chắc bên xóm đồng bị bắt nhiều.
- Ừ thì tôi cũng nói trí trá thế, chứ lạ gì lão thủ quỹ. Hắn có thương tôi chẳng qua cũng vì cấy rẽ ruộng cho hắn ta bao giờ tôi cũng chịu phần thiệt. Mới lại từ cái hồi nhộn nhạo tôi cũng không có tham gia như các chú. Còn chú Khước nữa, khéo rồi cũng bị bắt mà thôi.
Tư Lù như chợt nhớ ra:
- Này mà hắn nhắn chú lại gặp hắn đấy!
- Tôi chẳng dại. Xưa nay tôi vẫn ghét hắn, làm gì mà hắn chẳng biết.
- Nhưng biết đâu ông phán Thành chẳng nghĩ lại mà muốn lo lắng cho chú!
Minh xì một tiếng:
- Ôi chào! Nào tôi có họ hàng gì? Đến dì tôi mà nhà họ còn đối xứ thế nữa là!
- Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng thế thì chú cũng phải liệu thế nào chứ?
Minh lặng thinh. Kể khó nghĩ thật. Đi đâu? Chắc gì các vùng quanh đây đã yên? Thấy nói con đường số một họ cũng đương phá ụ và lấp những quãng đường xẻ. Chán rồi, Minh ngập ngừng bảo Tư Lù:
- Tôi còn sốt ruột về dì tôi nữa. Nhưng bây giờ mà qua bên xóm đồng nhỡ họ còn ruồng bắt cũng khổ. Thôi, đành chờ nghe binh tình ra sao.
- Phải. Tôi tính chúng nó không bắt tôi, để tôi giúp cho. Bây giờ chú cứ ở đây đi, nếu động dụng lẻn ra phía sau, theo bụi chuối núp nơi đụn rơm rồi rút ra bãi sông. Được cái giậu nhà tôi kín, ở ngoài nhìn vào không rõ đâu. Tôi qua xóm đồng xem dì có cần dặn chú điều gì không là được rồi.
Minh dơm dớm nước mắt:
- Anh hỏi xem hồi đêm bên xóm đồng có ai bị bắt? Và hỏi dì tôi xem có nhắn gì không nhé!
Nói vậy nhưng Minh chợt nhớ ra đêm qua là vừa đúng năm ngày. Ủy ban đã bắt dì Mơ chưa? Lúc ủy ban bị vây bắt, có dì Mớ ở đấy không? Minh lo lắng nhìn Tư Lù như cầu khẩn:
- Xem nếu đi được, anh hỏi rồi cho tôi biết nhé! Thật là ơn anh đấy.
- Chuyện! Chú nói đến hay. Ơn với huệ gì! Được ngày nào hay ngày ấy, chửa biết chừng chết cả lúc nào. Nghĩ cái đời thằng dân cũng cực!
Tư Lù ra ngõ còn hạ cổng rào tre xuống đâu đó rồi mới đi. Minh lo lắng nhìn dõi theo, rồi ngồi thần lần nơi bếp. Vợ con Tư Lù đã lên ở trên nhà ông bà ngoại chúng, nên nhà vắng tanh. Minh bần thần nghĩ quanh quẩn, quên cả đói. Gói quần áo đem theo sẵn đây rồi; nhưng kể ra đi thì cũng ngại, vì một đồng một chữ không có. Được ít ngô, ít thóc, dễ mà đem theo được ư? Lúc này đâu phải là lúc đổ ra bán được!
Thắc mắc thì cứ thắc mắc vậy thôi, Minh chỉ còn biết ngồi chờ. Tư Lù đi không lâu lắm đã trở về.
Làng Thụy nhộn nhạo vì chuyện đêm qua. Lính đồn không biết được người nào mách va chỉ đường, đã chờ cho ủy ban hành kháng xã họp được một lát mới lẻn tới vây bắt. Thoạt đầu bắn một phát súng thị uy bắt ngồi yên, song vì nhộn nhạo có người tháo chạy mới bắn theo mấy tràng liên thanh như vậy. Họ bắt mấy người; còn nhờ đêm tối những cán bộ phủ, bí thư Tùng, chủ tịch, đều chạy được cả. Trong số bị bắt có Khước. Còn dì Mơ thì vừa mới bị dân quân du kích bắt tới ủy ban độ nửa giờ; dì đương phải khai về số thóc lúa của nhà Thọ thì lính đồn ập vào. Họ thấy dì bị ủy ban tra hỏi nên không bắt giữ mà thả cho về.
Tư Lù vội vã kể hết cho Minh nghe như vậy, và biết rõ ràng là vì dì Mơ nói cho nghe. Dì Mơ còn nhắn bảo Minh cứ thu xếp sẵn, tối nay dì sẽ sang bàn lại.
Minh thẫn thờ, chán chường khẽ nói như thầm bảo chính mình:
- Đói rồi; đi nấu cơm ăn vậy. Anh cho tôi ăn một bữa nhé?