← Quay lại trang sách

- 14 -

Minh đã ngồi yên trên chiếc xe chở khách. Từ Văn Điển về Hà Nội đâu có xa gì? Nên Minh càng thấy băn khoăn thấp thỏm. Minh đã thoát khỏi những bàn tay vô hình vấy máu từ bao ngày chờ dịp chụp bắt Minh. Bóng tre xanh êm ả kia, thật là hiền lành mà sao ngày nay lại ảm đạm, man rợ đầy kinh hoàng đến thế? Minh không sao hiểu được! Ao chuôm, ruộng vườn, từ thửa mạ đến luống ngô, từ bụi chuối um tùm đến cây cau cao vóng... hết thảy Minh quen lắm; Minh sinh trưởng, cần cù đổ mồ hôi ở đấy, vui đùa ở đấy, cho đến cả lòng rộn ràng yêu thương cũng ở đấy. Nay phải đành lòng lẻn bỏ trốn đi, vội vã đi cho mau, cho thật xa, như mong thoát khỏi một cạm bẫy đầy hằn thù, chết chóc, nên Minh bâng khuâng ngao ngán quá.

Minh lẻn đi từ hồi ba giờ sáng để có thể thoát được những tầm mắt dò xét của cán bộ quen mặt, và lẩn được những con mắt tàn bạo của bọn lính đồn. Minh mải miết băng các cánh đồng ruộng và lánh xa hết thảy mọi bờ tre xanh rải rác trên cánh đồng

chạy giữa sông Hồng và sông Đáy. Mặt trời lên cao thì Minh tới Văn Điển. Hiếm mà được ngày nắng ấm vào cuối năm như vậy. Bây giờ thì Minh không lo lính đồn, không lo cán bộ và dân quân du kích; Minh đã tới vùng mà Minh thấy nói là vùng tề của ông Bảo Đại. Nhưng Minh lại bắt đầu thấp thỏm, vì vẫn thấy những người lính đủ súng ống, vẫn nhìn thấy những chòi canh với túi cát, với dây thép gai. Minh bỡ ngỡ vì người qua lại buôn bán đông đảo, và cảm thấy mình lạc lõng quá.

Mua giấy về Hà Nội, Minh ngồi thu gọn ở góc xe hàng, hiền lành nhìn mọi người, và miên man nhớ lại mấy ngày qua. Những ngày phải sống chui rúc khổ sở không lúc nào dám ngủ yên. Hai dì con bàn định với nhau mãi, và thế là Minh nhất quyết trốn vào Hà Nội. Không hiểu dì Mơ đã làm thế nào mà có được bốn chục bạc mới cho Minh đi đường. Dì khóc mà bảo Minh cứ yên tâm đi; miễn là Minh sống thì dì có mệnh hệ nào đi nữa dì cũng đành lòng. Minh cũng khóc, khóc nhiều. Minh không hiểu sao lúc ấy Minh sinh ra mụ mị bần thần đến thế, chỉ còn biết nghe, và Minh đã đi. Bây giờ nghĩ lại, tự nhiên vẩn vơ Minh lại băn khoăn tại sao không nói dì cùng đi? tại sao để dì ở lại giữa biết bao nhiêu bất trắc? Hay là quay trở về?...

Tiếng còi của người ‘‘ét’’ làm Minh vụt thấy đã quá chậm. Tiếng động cơ xe nổ, bánh lăn trên con đường xấu, lắc từ bên này qua bên kia, bắt Minh phải lo hiện tại. Xe vừa nhao về một bên, chợt Minh nhìn thấy như có ai quen quen ở bên đường trong tốp người đương hì hục đào đất đắp ụ xây" bốt" mới.

Minh giật mình nhận ra Tèo và Khước; hai người lem luốc đất bùn, mặt hốc hác, đương chuyển đất dưới con mắt gườm gườm đe dọa của mấy người lính lăm lăm súng nơi tay. Minh vụt hiểu. Tèo và Khước đã là tù binh. Trước đây dân quân phá lộ, đắp ụ, ủy ban xã làng Thụy đã chẳng huy động bao nhiêu dân công vào phá đường số một ư? Thì bây giờ người dân tù binh lại lấp đường, xây ‘‘bốt =poste’’ gác!

Cái chiến tranh quái đản của người Việt chiến đấu với chính mình!

Nhưng làm sao mà Minh hiểu được? Minh không dám nhìn hai bóng người quen thuộc kia đương cong lưng dưới bao nhiêu đe dọa, mà chiếc xe vô tình bỏ lại xa dần. Lòng Minh se lại. Còn có gì để mến thương nữa đây?

Minh như người máy, theo hành khách xuống xe. Bây giờ biết làm gì? Cứ đánh liều đi; và từ miền ngoại ô, Minh đã đi thẳng tới phố Huế lúc nào không hay. Chợ Hôm nhộn nhịp những người, những hàng, hàng bày la liệt cả vỉa hè, hàng treo lủng lẳng dưới hiên nhà... Đã cuối năm rồi, còn mấy đã Tết mà sang năm Canh Dần. Cũng không hiểu sao Minh cứ đi, mà không ai hỏi giấy tờ? Và bây giờ thì Minh đã bị cuốn vào dòng người vô danh đương vật lộn tranh sống.

Minh thấy đói, nhưng còn lưỡng lự. Ít đồng bạc còn lại trong túi ném ra đây lúc nào sẽ mất hút ngay lúc ấy chứ vội gì! Minh thẫn thờ đi dọc theo bờ hè, quành ra đường bên, nhìn hết hàng này đến hàng khác. Có tiếng gọi:

- Kìa anh Minh? Dì đâu hả anh?

Minh giật bắn người. Ai nhận được ra Minh ở đây? Minh nhìn quanh quất, thì ngay trước mặt không đầy mấy bước đã thấy Thọ đứng lên, tíu tít vẫy:

- Anh ở Nam lên bao giờ? Sao không lại chơi đằng em thế?

Đột nhiên Minh mừng quá, quên hết lo âu, vội hỏi:

- Cô đi chợ đấy hả!

- Không, em bán hàng đấy chứ!

Thọ chỉ đôi quang gánh trước mặt. Thọ cười:

- Cũng gần hết. Thôi, mời anh về chơi đằng nhà đi.

- Cô chưa bán hết hàng. Hay là... lát nữa tôi quay lại? Tôi đi quanh quẩn xem chợ cho vui mắt một chút chẳng sao.

Thọ chỉ cười, và lanh lẹ nhắc đòn gánh lên vai, chào mấy bạn hàng ngồi bên, rồi bảo Minh:

- Chẳng còn bao nhiêu! Thôi về anh ạ; cũng gần trưa rồi, còn làm cơm nữa chứ!

Thọ kéo tay Minh đi thẳng về phía Hòa Mã rồi rẽ sang đường Lò Đúc. Tới quãng vắng, Thọ khẽ bảo Minh:

- May ở chợ đông người ; nhỡ họ thấy anh bỡ ngỡ, rõ là ở hậu phương ra, mà hỏi giấy thì sao?

Dứt lời, Thọ mỉm cười nhìn Minh:

- Mà bộ anh thế kia, chắc gì đã xin được giấy?

Minh ngượng ngập, vừa lo vừa tự cảm thấy ngờ nghệch thật.

- Cô bảo, chết hụt mấy lần rồi, còn gì nữa!

Chợt Minh thấy khó nghĩ. Không biết Thọ lấy chồng chưa? Về nhà Thọ có tiện không? Mà bây giờ biết đi đâu? Minh ngập ngừng khẽ nói:

- Cô ở gần đây? Nhưng để hỏi thăm cô và cậu Sơn cho mừng được yên sở cứ... rồi để cô đi chợ. Ai lại làm mất buổi hàng của cô.

Thọ biến sắc. Thọ cảm thấy như thể Minh nghi ngờ mình điều gì. Hay Minh vào đây có công tác nên không muốn gặp mình? Nàng nghẹn ngào nhìn Minh. Không, vẫn nét mặt sáng sủa chất phác ấy, chỉ gầy và đen đi phần nào chứ đâu mất vẻ hồn nhiên cũ? Nàng nói như phân trần:

- Gặp anh thật là mừng, dù có nghỉ cả buổi chợ cũng không sao huống hồ là bán gần hết hàng!

Ngước cặp mắt đen láy, Thọ chua chát nói như trách móc:

- Em mừng quá nên quên đi. Hay là anh có việc bận không tiện lại chơi đằng nhà?

Minh hoảng hốt. Không biết sao đôi mắt to đen láy như ranh mãnh ấy lại làm Minh bồi hồi như thưở nào; Minh càng luống cuống vì lời nói hờn giận của người xưa, nên không còn giấu giếm gì nữa.

- Chết! Tôi vừa trốn được ra đến đây. Hiện chưa biết đi đâu? Mà cũng chưa biết làm gì? Nhưng tôi... tôi...

Minh chợt ngừng bặt. Thọ vụt hiểu.

- Chỉ có hai chị em em thôi. Có ai đâu mà anh ngại?

Minh thở ra cười ròn rã:

- Từ đêm đến giờ nào đã ăn gì đâu! Cô cho tôi một bữa nhá?

Hai người cùng cười và rảo bước.

Thọ mướn được một căn nhà trong ngõ hẻm cuối đường Lò Đúc. Xóm cũng đông đúc, phần lớn là bán hàng rong, và làm công cho mấy cửa hàng trên phố. Thọ đặt quang gánh, vừa mở khóa, vừa bảo Minh:

- Anh vào chơi. Thôi thì có chỗ chui ra chui vào là được.

Tiếng là một căn, song giữa nhà có vách gỗ chia làm đôi.

Trong cùng có sân nhỏ, và che tấm tôn làm bếp. Thọ chỉ vại nước ở sân, tươi cười nói:

- Anh vào rửa mặt. Anh cứ nhanh nhẹn như hồi nào còn mẹ em anh vẫn tới giúp ấy, có gì đâu mà sợ phiền hà?

Minh rửa mặt; làn nước lạnh làm dịu lại mọi nỗi bâng khuâng. Kể khó nghĩ... Tao loạn, gặp được nhau thật quý ; nhưng rồi đây Minh đi đâu? Không lẽ ở lại đây?

Minh quay ra đã thấy Thọ bày đĩa bánh cuốn với chén nước mắm ở khay đặt trên tấm phản gỗ ; nàng mời Minh:

- Bây giờ em mới đi thổi cơm. Anh xơi tạm ít bánh, rồi ngồi nghỉ. Em Sơn cũng sắp về học rồi.

Minh chưa kịp nói sao, Thọ nhanh nhẹn cười thân mật:

- Anh cứ bảo bán hết hàng hãy về! May còn để anh ăn tạm đỡ đói. Nào, anh xơi thử xem bánh em tráng có khéo không?

- Vâng, ăn thì ăn. Song tôi muốn hỏi thăm từ ngày ấy...

Thọ gạt đi:

- Rồi lát nữa hãy hay. Để em đi thổi cơm đã.

Dứt lời, Thọ thoăn thoắt đem quang gánh vào góc nhà, xếp hết bát chén, đĩa, đũa... ở thúng đem ra sân sau ngồi rửa.

Miếng bánh mịn ướt trôi qua cuống họng làm Minh cảm thấy yên ấm, êm dịu. Chàng miên man nghĩ và tưởng tượng xem chị em Thọ sống ấm cúng như thế nào, và ngao ngán chưa biết sẽ làm gì trước ngày mai vô định.

Thọ đem chén nước lại, và nhấc chiếc khay hết bánh đi. Minh sứng sốt:

- Cô để tôi đem vào.

- Anh cứ để tự nhiên; loạn ly này mà còn khách sáo ư?

Tiếng gạo vo trong giá tre, tiếng nước giội ào ào... Minh nghe sao mà hiền lành và thân mật thế! Bất giác Minh thở dài. Minh có đòi hỏi gì khác hơn là được yên ổn làm ăn, miễn là người ta đừng có bốc lột, áp bức và đầy ải quá mà thôi! Vậy mà không được! Người ta đã bắt Minh tuần giờ, canh gác ; người ta bắt Minh nạp hết thuế này thuế nọ, chẳng còn đủ để mà ăn, thì bảo chịu đựng sao cho nổi? Những đã tưởng được thay đổi, ai ngờ vẫn đe loi, áp bức, vẫn nghèo cực đói khổ, lại thêm những tai bay vạ gió. Minh cảm thấy mình yếu hèn quá, bơ vơ quá! Và Minh thầm ao ước giá có phép lạ gì cho thoát được cảnh cực nhục này...

Minh thần mặt, vẩn vơ suy nghĩ chẳng biết đã bao lâu, thì Sơn bước vào. Thấy Minh, Sơn mừng reo lên:

- Anh Minh, anh lên bao giờ thế?

Mới cách có một năm, mà Sơn lớn phổng hẳn lên, và rắn rỏi rõ ra một thiếu niên học sinh.

- Cũng vừa mới lên; may gặp cô Thọ ngoài chợ nên mới biết nhà! May quá.

Sơn vừa để cặp sách vào chiếc bàn mộc kê ở góc nhà, đã tíu tít hỏi. Thọ gắt em:

- Hãy cởi áo, đi ăn cơm đã nào!

Và Thọ hạ giọng:

- Anh Minh vừa ở dưới quê trốn thoát lên đây. Làm gì mà hỏi oang oang lên thế, nhỡ ai để y thì làm thế nào? Em trống miệng lắm!

Sơn im bặt, vội vã thay áo, rửa mặt, và cùng chị sắp cơm lên phản. Thọ cẩn thận khép chặt cửa, mới quay vào mời:

- Chúng ta đi ăn cơm thôi! Anh Minh đi tự khuya tất đói rồi.

Mâm cơm thanh đạm, song đối với Minh là quá sang trọng, nếu nghĩ đến những lúc phải ẩn nấp có thức gì ăn thức nấy. Minh kể hết, kể hết những biến có ở quê nhà, như thể nói ra được chừng nào là hả được bao nhiêu u uất chừng ấy. Thọ cứ chống đũa nghe, và dơm dớm nước mắt. Nhiều lúc Minh phải ngừng lại, nhắc:

- Kìa, cô không ăn đi. Làm thế nào được? Vận hạn chung, chứ riêng gì ai?

Sơn cũng thẫn thờ. Minh như chợt nghĩ ra, vội hỏi:

- Cậu Sơn chóng lớn quá! Dễ mười ba, mười bốn rồi đấy nhỉ?

Và Minh hỏi thăm về chị em Thọ.

Ngày ấy cũng may cho Thọ vào đến Đồng Quan rồi ngược đường Từ Châu lên, nhập được một bọn cũng hồi cư vào Hà Nội. Quân Pháp hành quân hôm trước nên bữa sau thoát khỏi đi chót lọt. Tới Ngã Tư Sở nhờ một bà cùng đi đường có người nhận cho mà được giấy phép tạm thời vào Hà Nội nên mới tìm gặp được Văn. Vừa nghe nói đến Văn, Minh mừng quá, vội vã hỏi dồn:

- Cô gặp được anh Văn hả? Bây giờ anh ấy đâu? May quá nhỉ! Lát nữa cậu Sơn đưa tôi lại nhé?

Minh ngừng ngay lại, nói chữa, như biết lỡ lời, vì Thọ đã kể hết đâu?

- Tôi nói là chiều hôm nay khi nào đi học về đã. Nhưng làm sao cô biết được chỗ anh Văn ở mà tìm?

- Thì hôm anh ấy đi có dặn em mà lại. Em đã ghi cả tên phố và số nhà. Thật phúc đức mà chỗ nhà anh Văn chỉ bị phá phách, mất cửa ngõ và đồ đạc chứ không bị cháy hay đổ. Nếu cháy thì anh Văn cũng chẳng còn ở đó mà tìm. Năm ngoái còn nhiều nhà ở khu này chưa được sửa chửa, anh Văn bảo là mười phần gây dựng lại sáu bảy rồi đấy.

Văn đã thu xếp xin giấy tờ cho chị em Thọ. Nhà Văn là một ngôi nhà nhỏ có gác ở đường Chợ Đuổi. Những ngày đầu về Hà Nội còn vắng vẻ, heo hút quá, nhiều khi đã muốn bỏ lên khu trên đông hơn, song vì sợ Thọ ra không tìm được nên Văn đành nán ở. Khi Thọ đến thì khu này cũng đã khá đông đúc vui vẻ rồi.

Minh chăm chú nghe, rồi chợt hỏi:

- Đằng anh Văn có ai không hả cô?

- Không, anh ở một mình trên gác. Dưới nhà anh cho thuê.

Nói xong, đột nhiên má Thọ ửng đỏ, nhưng Minh đâu có nhận thấy.

- Anh có bảo chúng em ở đấy. Rồi anh bắt Sơn đi học. Năm nay em nó học đệ lục rồi!

Minh ngơ ngẩn nghe. Minh đâu biết đệ thất, đệ lục là gì? Thọ làm như không, kể tiếp:

- Anh Văn dạy học tư, nên việc học của Sơn anh lo cho chu tất.

- Thế sao cô không ở bên ấy nữa!

Thọ cười. Tại sao? Thọ khó nói quá.

- Thì anh tính, cũng phải lo làm ăn sinh sống chứ cứ ngồi ăn báo anh Văn ư?

Chợt Thọ như nhớ ra là Minh hiện thời chưa biết ở đâu, nên nói chữa:

- Em nói đùa vậy thôi, chứ thư thả sẽ nói cho anh rõ.

Thọ dọn dẹp mâm bát, bảo Minh:

- Anh đi từ khuya chắc mệt. Thôi, anh nằm nghỉ, em thu xếp hàng bán ngày mai. Chiều nay Sơn đi học về rồi cùng sang chơi bên anh Văn.

Sơn đã đi học chiều. Minh thẫn thờ nhìn ra ngõ hẹp. Ánh nắng vàng chiếu xiên lên bức tường hồi cao trước mặt. Minh buồn rầu trạnh nhớ đến xóm làng, và thương cho dì Mơ. Lúc này đây chắc dì khổ lắm, khổ vì lo lắng cho Minh. Tự nhiên không biết sao nước mắt cứ trào ra, Minh buồn tủi quá. Nghe tiếng Minh sịt mũi. Thọ ngó lên, khẽ gọi:

- Anh Minh ơi, xuống em nhờ một tí!

Minh vội lau mắt, đi vào sân trong. Thọ ngồi xay bột trên chiếc ghế gỗ dài. Trông mắt Minh còn đỏ hoe, Thọ tần ngần thương hại, an ủi:

- Việc gì mà anh buồn. Lúc mới ra đây, em cũng thế. Khóc mãi, rồi nghĩ lại thì khóc nào ích gì đâu?

Minh nín thinh nhìn nước bột gạo trắng xóa rỉ theo đường rãnh quanh cối đá, chảy xuống chậu hứng dưới đất ; dòng nước sánh đặc như sữa cứ theo tay Thọ quay đều mà chảy luôn không ngừng. Minh chép miệng:

- Cô phải vất vả nhỉ?

- Quen đi, mà vui nữa anh ạ. Dù sao thì cũng phải tranh đấu mà sống, và trông cho em Sơn thành người chứ!

- Cô nói đúng, chắc gì cô về làng Thụy nữa?

Thọ ngước mắt nhìn Minh như cố tìm hiểu ý Minh, và chậm rải trả lời:

- Ai bảo anh thế? Em có thích sống ở Hà Nội đâu!

- À, mà khi nãy ăn cơm cô chưa nói hết chuyện. Thôi để tôi xay đỡ cô đã.

- Vâng, mới lại em còn phải phi sẵn hành mỡ và pha nước chấm, mai kịp đi bán sớm; lát nữa còn đưa anh sang chơi bên anh Văn.

Minh vừa ngồi vào chỗ Thọ đứng lên, đã hỏi:

- Ai dậy cô làm bánh cuốn thế?

Thọ cười:

- Chuyện! Bụng đói thì chân phải bò, chứ ai dậy! Nói đùa anh vậy thôi, chứ kể ra cũng chỉ là ngẫu nhiên cả.

Thọ không cười nữa, đôi mắt vụt trở nên đăm chiêu, giọng nói êm nhẹ như xa xăm:

- Em đã nói là anh Văn bảo ở đấy. Anh Văn chu tất lắm, lo cho chúng em đầy đủ mọi thứ. Ở đấy có đến hai tháng, em ở nhà lo cơm nước; em Sơn đi học. Còn anh Văn, anh vừa dậy học, vừa viết báo, mà cứ thấy anh đi luôn nhiều khi không ăn cơm nhà. Em cũng nghĩ mãi; suy đi tính lại em có nói với anh Văn là em tính buôn bán để sinh sống. Anh cười mà báo: ‘‘- Bộ cô tưởng tôi không kiếm đủ tiền ăn cho ba anh em mình hả? Cô cứ yên trí đừng ngại gì tiền nong.’’ Nhưng em không nghe, em nói mãi rằng ở thế cũng bất tiện, nếu có thương em thì anh cứ cấp vốn cho, và đi lại trông nom em Sơn học hành thành người. Vì vậy mà anh kiếm thuê cho em căn nhà ở đây thật yên ổn, và đưa tiền em làm vốn buôn bán.

Minh ngạc nhiên nhìn Thọ. Trên vừng trán cao ấy như thấy rõ cái liều lĩnh thưở nào.

- Từ xưa cô ở nhà có buôn bán gì? Cô gan thật!

- Cũng là bất đắc dĩ, anh ạ. Chả là mỗi khi qua bên chợ Hôm mua thức ăn, em có hỏi mấy cô bán hàng sau khi đã mua quen, rồi cứ về chợ Mơ buôn lại. Thật ra cũng chỉ thêm cặp, hàng tháng anh Văn vẫn giúp thêm. Lâu dần ở đây thấy bà Tư bên cạnh tráng bánh cuốn mà phong lưu em cố hỏi. Bà ấy tốt lắm, nên chẳng giấu nghề mà bày cách cho làm, Mới lại mỗi người bán một khu cũng chẳng thiệt hại gì. Em đổi sang tráng bánh cuốn từ ba tháng nay thì tiềm tiệm đủ, mà anh Văn nhất định tháng tháng giúp thêm. Kể cũng ngại ngùng, nhưng anh ấy bảo: ‘‘- Cô đến khó tính! Tôi để tiền làm gì?’’ Em có nói là anh không lo việc nhà cửa của anh ấy ư? Thì anh cứ cười ngất mà bảo: ‘‘- Đất nước như thế này mà cô bảo tôi lấy vợ hả?’’. Em vẩn đành cầm, và giữ đấy.

Thọ ngừng lại; nàng vừa thái xong bát hành hoa. Minh vẫn chăm chú nghe, và đều tay xay cối bột. Chỗ gạo ngâm vớt ra rá đã đổ dần vào cối tới hết.

Thọ không thấy Minh nói gì, lại tiếp:

- Thật tình ra, em không muốn ở đằng nhà anh Văn có phải là sợ tốn kém cho anh ấy hay sợ tai tiếng gì đâu? Mà vì em cảm thấy rằng anh Văn còn lo lắng nhiều việc, cần hoạt động nhiều, không nên làm rộn anh ấy.

Thọ đứng lên, rửa tay sạch sẽ, rồi mới trở lại quấy chậu bột, cầm chiếc đũa cả vớt lên, trông làn bột chảy xuống mà nói:

- Gần xong rồi. Anh nghỉ tay em làm nốt.

Minh thẫn thờ đứng lên nhìn Thọ làm, không biết nói gì nữa. Thọ cũng vậy, như bận với bao ý nghĩ rồn rập trong óc mà cắm cúi làm như không biết có Minh đứng đấy. Giây lâu, Minh thở dài, nới:

- Như thế cô cũng tạm yên. Lát nữa đây, gặp anh Văn chưa biết tôi sẽ nói được gì với anh ấy? Thật là khổ! Sểnh nhà ra thất nghiệp; muốn kiếm cho ra chỗ làm thuê làm mướn độ nhật cũng phải quen mới có chứ. Chẳng biết anh Văn có giúp được không?

Thọ ngẩng lên nhìn tận mặt Minh, thản nhiên đáp:

- Thế nào anh Văn chẳng hết sức giúp. Còn nếu không tiện tạm ở đằng anh Văn, thì về đây chứ sao?

Minh nín lặng, chưa biết nói thế nào, thì Thọ đã chua chát cười:

- Em nói thật đấy! Loạn ly thế này không cưu mang đùm bọc nhau được ư? Còn tai tiếng... ở đây, em sẽ nói anh là anh ruột ở dưới Nam tìm được lên, ai biết? Mới lại, tai tiếng, thì đã tai tiếng ở tận làng kia rồi, phải không anh? Miễn là không làm điều gì xấu thì thôi!

Minh không nói gì nữa. Bao nhiêu hình ảnh cũ hồi nào quên hết nay vụt trở lại. Thọ không còn là cô Thọ ung dung nhàn tản sống nữa; nhưng ngược lại, Minh thấy ngần ngại quá... Đồng ruộng bao la kia mới là quê hương Minh ; ở đây, Minh tự cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, và bất lực.

Ánh nắng đã nhạt; trời ngả về chiều. Tiếng xe và tiếng người ngoài đường vẫn vang tới ngõ hẻm thành một tiếng động ồn ào hỗn tạp lạ với tai Minh. Minh nóng ruột chờ Sơn về. Có lẽ gặp Văn, Minh sẽ định lại được hướng đi cho đời mình chăng? Bây giờ chắc hẳn Văn không còn sợ sệt giấu giếm gì Minh nữa.

Sơn về thì Thọ đã xong việc. Thọ hối hả giục:

- Nào chúng ta lại anh Văn đi, rồi về hãy ăn cơm.

Như sợ Minh không hiểu, Thọ giảng giải:

- Chả là thường thường dậy học về, anh ấy nghỉ ngơi chốc lát rồi lại đi ngay. Nếu ăn cơm xong mới sang sợ không gặp đâu.

Trời nhá nhem. Đèn ngoài đường đã bật sáng. Minh ngơ ngác vì quen với đường đất, quen với bóng tối và vắng vẻ kia. Sơn đi bên cạnh, vui vẻ bảo Minh:

- Lại thăm anh Văn, rồi anh về bên này ở với em cho vui. Em còn hỏi anh nhiều chuyện dưới làng.

Minh bật cười:

- Chú còn phải học nữa chứ. Có chuyện gì đã kể hết từ sáng còn đâu!

Văn còn ở nhà thật. Văn đương nằm trên ghế ngựa, mặc nguyên quần áo vì mới đi về, thấy ba người vừa lên khỏi cầu thang thì vùng nhỏm ngay dậy.

- Tôi biết mà! thế nào rồi chú cũng phải ra đây! Nhưng còn dì?

Văn đương cười nói, bỗng vụt trở lại trầm lặng.

- Chắc hẳn dì không chịu đi. Dì vẫn bình an đấy chứ?

Ba người đã ngồi xuống ghế. Văn vẫn đứng nhìn Minh từ đầu đến chân:

- Chú tới đây hồi nào thế?

- Em đến từ hồi gần trưa. May mà được gặp cô Thọ bán hàng...

Văn cười:

- Ý hẳn mấy người đã tha hồ hỏi chuyện nhau rồi! Bây giờ thì thế này... Lại tất cả đằng cô Thọ ăn cơm cho vui, rồi chú Minh về ngủ đây với tôi. Đêm nay phải hỏi chuyện chú nhiều lắm ; nhất là mai chủ nhật tôi nghỉ, lại càng thư thả.

Rồi không để cho ai kịp trả lời, Văn nói tiếp:

- Nào đi luôn thôi! Cô Thọ chẳng mời tôi cũng cứ ăn!

Văn đẩy mấy người ra cầu thang, rồi tắt đèn, khép cửa, theo sau.

Ra tới đường. Văn rỉ tai Sơn, rồi đi lên nắm cánh tay Minh bảo:

- Chú ra vừa hay quá. Có nhiều việc cần đến chú.

Rồi quay sang phía Thọ:

- Cô gan thật nhé! Minh ra từ trưa mà chẳng qua bảo cho tôi biết mấy.

Văn nói cười luôn miệng, hết hỏi Minh lại hỏi Thọ những chuyện không đâu, nên tới nhà Thọ lúc nào không hay.

Thọ vừa mở cửa, bật đèn, thì Văn bảo:

- Chắc sợ tôi đi vắng nên kéo sang ngay, chưa kịp thổi cơm chứ gì? Càng hay, cùng làm cho vui.

Thọ không hiểu sao Văn lại vui thế, trái với ngày thường vẫn trầm ngâm. Ba người kéo xuống sân, xúm vào vo gạo, nhặt rau tíu tít. Chợt Thọ hỏi:

- Quái, thằng Sơn đâu ấy nhỉ?

- À, anh quên cái này mới bảo Sơn đi lấy.

Minh bỡ ngỡ, ngượng ngập nhìn Văn và Thọ nhanh nhẹn làm cơm. Văn vẫn chưa hề hỏi Minh câu nào về việc làng Thụy cả, mà nói qua chuyện này chuyện khác ở Hà Nội, về việc Sơn học hành, về việc Thọ buôn bán. Văn vui lắm, hay hình như là vui lắm. Thọ không còn lạ gì tính Văn nữa. Lúc trầm ngâm, hay lúc quá vui vẻ lại chính là những lúc Văn có điều gì bận tâm nhất. Còn Minh, Minh chỉ biết nghe.

Ánh đèn điện ở khu Nam yếu ớt nên đỏ hoe, song Minh thấy sáng lắm. Ánh sáng làm cho con người ta dễ vui hơn, và đỡ sợ hãi nữa.

Cơm vừa dọn lên phản thì Sơn cũng về tới. Ba người đã ngồi vào mâm, Thọ giục:

- Sơn ơi, rửa mặt mau ra ăn cơm chứ, các anh chờ.

Rồi nàng cười, má ửng hồng không biết là vì vừa ở bếp nóng ra hay là vì mừng rỡ;

- Anh Văn ác lắm cơ, không bảo sớm, nên chẳng có gì ăn. Các anh sơi tạm một bữa.

Sơn đã bưng một đĩa ra, Vặn cười:

- Tôi đã nhờ Sơn tiếp tế đây rồi, cô khỏi lo.

Thọ nhìn đĩa thịt quay Sơn đặt vào mâm, khẽ lắc đầu:

- Anh Văn này thật lạ. Việc gì anh cũng suy tính sắp đặt cả.

Văn mỉm cười:

- Đời con người ta há chẳng là một bài toán ư? Việc gì là không có sắp đặt? Mình không tự sắp đặt thì cũng bị kẻ khác sắp cho, thế chẳng là khổ hơn ư?

Văn ngừng một chút, bảo Minh:

- Bây giờ chú mới ra Hà Nội còn bở ngở; chỉ ít hôm sẽ quen ngay. Tôi vẫn nhớ mãi ngày nào trước khi trốn về đây, ba anh em mình ngồi ở đầu hè nói chuyện gần thâu đêm. Nhưng thôi hãy ăn cơm đã, mọi việc tính sau.

Minh lại kể những việc xảy ra ở vùng Thụy từ ngày Văn đi; càng nói, lòng Minh càng se lại, tưởng chừng như vừa mới qua một hai bữa đây thôi. Minh còn mơ màng tưởng thấy rặng tre xanh xơ xác, những đêm tăm tối mưa rét, và dì Mơ đương cắm cúi trên cánh đồng. Dì còn được yên thân đổ mồ hôi mong lấy nổi hột gạo ăn không? Rồi lại bóng Khước với Tèo còng lưng chuyển đất đắp ‘‘bốt gác’’ ở ven đường... vừa mới sáng hôm nay! Minh không thể còn hiểu nổi được cuộc đời mình ra sao nữa.

Văn và Minh trở lại căn gác đường Chợ Đuổi cũng đã mười giờ đêm. Minh thấy mệt mỏi, nhưng đầy lòng thắc mắc, không sao chờ đợi được, nên thấy Văn thay xong quần áo là hỏi ngay:

- Anh Văn ơi, vì không thể yên thân ở làng em phải liều chạy ra đây. Nhưng bây giờ thật khó nghĩ. Biết bao giờ mới yên mà trở về quê? Anh có cách gì kiếm công ăn việc làm cho em sống qua ngày không?

Văn chăm chú nhìn Minh. Nét mặt sáng sủa, quá chất phác kia tuy mới ngoài hai mươi tuổi nhưng đượm màu khói lửa nên không còn hồn nhiên như thuở nào. Chàng thương hại, ôn tồn bảo:

- Hãy cứ yên trí ở đây, tôi xin giấy tờ xong đã rồi liệu. Nghĩ đến sẽ làm gì đây? hơn là lo không có cơm ăn. Đấy, cô Thọ còn kiếm đủ hai chị em ăn, nữa là sức chú!

Nói vậy, mà tự thâm tâm có lẽ Văn còn thấy bâng khuâng lo lắng hơn cả Minh nữa.