- 15 -
Trời nóng quá, nhất là nhà cửa cứ san sát, một vài gốc cây ở vỉa hè đâu có che nổi nắng, nóng? Hơi từ đường nhựa, từ các mái ngói, từ các mặt tường vẫn âm ỉ tiết ra trong không khí tuy mặt trời đã lặn từ lâu.
Quen với đồng ruộng bao la khoáng đãng, quen với những lối xóm dâm mát dưới bóng tre xanh dờn, nên Minh cảm thấy Hà Nội sao mà chật chội, bức bối thế! Thấm thoát bao nhiêu tháng rồi? Minh đã qua ngày Tết, đã để hết cả mùa xuân mà bặt vô âm tín từ nơi xóm làng. Nghe lời Văn khuyên bảo, Minh cố gắng học việc, nên bây giờ Minh đã được xem là một thợ phụ nơi xưởng máy có công xá hẳn hoi. Văn còn khuyến khích Minh buổi tối cố gắng học thêm. Ban đầu, Minh khổ lắm, vì cái lề lối làm việc ở tỉnh thành đầy phiền toái, buồn tẻ và gò bó. Hồi ở làng Thụy, kể làm ruộng khó nhọc thật, chẳng nề gì mưa nắng, sớm tối, nhưng Minh vẫn thấy ung dung thư thái lắm. Xóm làng Thụy, và cho đến cả tổng Thụy nữa, Minh chỉ thấy như thể một căn nhà rộng lớn, Minh phởn phơ, thân mật tung tăng sống. Ngày nay, Minh tưởng chừng thiếu mất một phần nào trong lối sống hàng ngày, và tự cảm như bản thân đã phải thui chột đi rồi.
Văn nhiều lần an ủi Minh, và chăm lo đến Minh từng phút. Có lần Minh rớt nước mắt bảo Văn:
- Anh thương em nhiều quá. Anh đừng bận tâm làm gì! Em quen dần, anh ạ. Chỉ sợ là em ngu dốt quá không học nổi một nghề, để thêm lo cho anh. Thôi, hay để xem đâu cần phu phen em làm tạm, đủ sống qua ngày là được.
Văn nhất định không nghe, bắt Minh tới xưởng máy Văn quen biết để học, và giữ Minh ở với mình. Ngày hai buổi, Minh qua bên Thọ ăn cơm, vì Văn thất thường đâu có giờ giấc ở nhà?
Bao nhiêu tháng qua, Minh nhẩm lại. Chóng quá! Kể ra bây giờ với số lương thợ phụ, Minh đủ nuôi miệng rồi! Minh cũng không phải cô độc, vì có Văn, có Thọ và Sơn đấy! Nhưng vẫn bâng khuâng làm sao! Dì Mơ ở quê nhà, giờ đây sống chết? Ruộng vườn nhà cửa có bị đốt phá nhiều nữa chăng?... Và rồi đời Minh sẽ tới đâu? Đột nhiên, Minh thấy kinh hoàng nghĩ đến vô định của ngày mai. Trước đây, Minh chỉ bâng khuâng mơ hồ về tương lai, nhưng nay Minh đã cảm thấy rõ ràng trống rỗng. Văn càng chỉ dẫn giúp Minh học hỏi, Minh càng thức cảm cuộc đời mờ tối của người dân như Minh. Nhật báo hàng ngày đã buộc Minh phải theo dõi các tin tức, biến chuyển; và như giọt nước thấm dần, khiến cho Minh không còn tin tưởng vào đâu, mà nhất nhất mỗi cái mỗi hoài nghi... Không phải riêng gì Minh! Cả đến Thọ cũng như mắc chung cái bệnh hoài nghi ấy. Hai người hàng ngày gặp nhau, nên càng thân mến, và vô tình đã trở thành đôi bạn thiết.
Minh tắm xong thấy khoan khoái dễ chịu. Dễ chịu nữa, vì chiều nay là chiều thứ bảy, mai Minh không phải làm. Minh ngồi gần cửa sổ của căn gác hẹp, nhìn xuống đường. Bóng người đi lại dưới ánh đèn đỏ kệch trông đến là u uất. Tiếng động của xe chạy, và tiếng ồn ào của con đường Huế đông đảo từ xa vọng lại càng cho Minh cảm giác là đời sống nơi đô thị quá ô trọc. Minh ngồi thừ người, miên man nghĩ vẩn vơ, đèn không buồn bật sáng. Tiếng giầy Văn đi lên, Minh cũng không nghe. Đến khi Văn hỏi:
- Minh ơi! Ngủ rồi ư?
Minh mới giật mình, vội trả lời:
- Không, em ngồi chơi đây.
Văn bật cười:
- Sao để tối mò như vậy?
- Em quên mất. Mới lại ở nhà quê, ngồi tối quen đi.
Ánh đèn bật sáng, Văn nhìn nét mặt Minh còn thần lần, thì vụt hiểu. Văn ái ngại:
- Minh lại nhớ quê rồi. Anh đã nói, Minh chẳng nghe.
- Cũng không hẳn là nhớ đâu, anh ạ. Nhưng, anh đã ăn cơm chưa?
- Ăn rồi. Và tối nay không có việc gì, được ở nhà nghỉ, tha hồ nói chuyện.
Văn vừa cười, vừa nói, thay quần áo, rồi Văn nhắc ghế lại bên cửa sổ, và bảo Minh:
- Thế mà chú có lý! Tắt đèn ngồi nói chuyện lại thú.
Ánh đèn bên kia đường chiếu lên qua cửa sổ thành một khoảng sáng yếu ớt trong căn phòng tối, Văn nhìn Minh đầy ái ngại. Nhưng vệt sáng yếu ớt chiếu qua mặt Văn, nào Minh thấy được, Văn cảm thấy phải nói, nói hết những ý nghĩ của mình; không thể dẫn Minh đến ngã ba đường rồi bỏ mặc.
- Ngồi nói chuyện thế này, lại nhớ hồi nào còn ở làng Thụy. Hồi đó chắc chú thắc mắc về tôi lắm phải không?
- Vâng, có thế. Nhưng anh đi rồi thì em bắt đầu hiểu được phần nào.
- Nhưng bây giờ chắc chú lại thấy tôi khó hiểu... Tôi tưởng có thể nói nốt những điều tôi muốn nói với chú.
Ánh sáng phớt qua nét mặt nghiêng nghiêng làm nổi rõ nét ưu tư trên khuôn mặt hơi khắc khổ của Văn.
- Tôi biết là chú đang buồn. Buồn vì nhớ đến dưới quê, và nhất là nhớ đến dì... Nhưng cũng buồn vì hoang mang không biết rồi đây sẽ làm gì? Và sẽ ra sao? Bây giờ dù cho yên hàn ngay, chú trở về dưới quê, tôi dám chắc chú cũng vẫn sẽ hoang mang. Kể ra phần nào cũng là lỗi tại tôi... Chú còn nhớ cái đêm ba chúng mình ngồi ở đầu hè nói chuyện trước khi tôi trốn về thủ đô? Tôi đã nói hết thắc mắc của tôi khi đó. Thì bây giờ phần nào chú đã lây cái thắc mắc ấy rồi. Và nếu nghĩ lại cái ngày cách mạng nào đó, cũng như bây giờ hàng ngày chú đọc báo, tất chú đã nhiều lần phải hoài nghi hờn giận như tôi hồi nào, mà nghĩ: ‘‘Giải phóng! Giải phóng cho ai? Giải phóng cái gì? Thế nào là giải phóng ?’’ Nghĩa là chú đương tìm hiểu.
Văn ngừng lại, chăm chú nhìn Minh, và sung sướng thấy Minh như đồng ý.
- Vì vậy tôi đã mừng mà thấy Minh ra đây. Không phải là tôi muốn tăng cường số người hoài nghi hoang mang, để mong có nhiều người lây cái bệnh mình đương mắc! Vì hoài nghi, không tin tưởng một cái gì hết, rồi cho đó là một thích thú thì thật là đáng tội. Nhưng chúng ta được phép hoài nghi để đi tìm một con đường chứ! Có phải những người như bọn cán bộ phủ, bí thư Tùng, sẽ đem lại sung sướng cho dân quê không? Có phải những bọn người hống hách thụ hưởng, quá ư xa hoa mà chú thấy trước mắt đây mới giải phóng nổi chúng ta không?
Văn cười, tiếng cười mỉa mai, chua chát.
- Không, chú ạ. Bọn chúng sống với dân quê thật đấy, nhưng cũng chỉ như lũ người vùi đầu vào lợi lộc luôn luôn mong thụ hưởng kia, làm sao hiểu biết nổi người dân chúng ta muốn gì đâu? Có bảo nói cho chúng ta hiểu được cái điều chúng ta muốn hiểu đâu?
Có lẽ bây giờ chú chưa hiểu tôi, cũng như hồi hai, ba năm trước đây chú đã chưa hiểu tôi. Nhưng không sao, tưởng cần phải nói, rồi chú sẽ hiểu dần. Tôi nghĩ là còn lâu, chú ạ! Chiến tranh còn lâu! Ai kháng chiến đây? Những người ở hậu phương hả? Không, không có đâu! Kháng chiến là những người đương bền bỉ chịu đựng, đương âm thầm bền bỉ xây dựng kia. Chính phải là những người như chú, như anh em mình! Họ mơ hồ hết! Không biết gì đến người dân, mà cứ đòi xây dựng cho nhân dân ư? Sống trong xa hoa sa đọa kia mà đòi gần và hiểu được dân ư? Nói lạ! Mà những kẻ xuẩn ngốc đòi diệt hết một lớp người này rồi nặn một lớp người khác, lại có thể thành công nổi ư? Không, rồi một lúc kia cơn mê ngủ sẽ phải tàn.
Tôi nghĩ chú cứ bền chí học lấy nghề mà sinh sống đã. Để rồi còn trở về làng Thụy, còn trở về đồng ruộng, chứ sống mãi ở đây làm gì? Chỉ có những người như chú sau này về đồng ruộng thì lúc đó sẽ nói đến chuyện giải phóng thật sự đấy. Lúc ấy chú sẽ không còn thấy hai cái thế giới cách biệt đầy hằn thù, nghi ngờ, như cái năm tản cư hồi nọ.
Văn vùng đứng lên, đi đi lại lại.
- Cho nên tôi nghĩ và tôi đã nói là tôi phục dì Mơ lắm. Phải bền bỉ chịu đựng đã. Chúng ta còn đau khổ; chiến tranh còn lâu!
Văn như vụt tỉnh, vùng cười lớn:
- Chú nghe tôi nói, chắc chỉ bực mình thêm. Nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu nhau, không sao đâu. À, bây giờ con đường Hà Nội đi Nam xe ô tô hàng đã chạy tới Guột rồi đây. Chắc nay mai thế nào cũng có tin ở quê nhà. Khi nào tạm thời đi về được, sẽ biết tin của dì. Để mai, tôi đi hỏi lại. Bây giờ khuya rồi, chú đi ngủ đi, tôi chấm bài một lát.
Rồi như không cần biết Minh có hiểu hết những điều mình nói hay không, Văn bật đèn sáng, ngồi vào bàn viết kê ở góc buồng. Văn ngoái cổ lại, nhìn Minh và cười thân mật:
- Chúng ta muốn gì? Và làm gì bây giờ đây? Rồi anh em mình còn bàn bạc lại. Thôi, chú ngủ trước nhé.
Minh yên lặng nhìn Văn cắm cúi dưới ánh đèn, trên xấp bài, không cần biết nóng nực oi ả.
Sáng hôm sau, Văn đi là Minh cũng đi. Minh sang ngõ Lò Đúc. Thọ đã đi bán hàng, Minh ở chơi với Sơn cho đỡ buồn, vì Minh đã chán lê gót trên các vỉa hè Hà Nội. Khi người ta không đủ đồng tiền mà cứ ngắm mãi mọi thứ hàng, và nhìn mãi những con người sung túc thản nhiên thụ hưởng đến mực trâng tráo, thì không thể còn là một cái thú được nữa. Minh dần dần được biết nhiều con người bực bội như Minh, phải vất vả tranh đấu mưu sinh, và cố gắng tìm học, tìm hiểu, và trông chờ một sự gì mới lạ. Cho nên những ngày nghỉ Minh muốn luôn luôn gần Sơn; Minh muốn biết đời sống nơi trường học, và thích thú được nghe Sơn nói đến nghịch ngợm, và những hy vọng mong muốn của lớp thanh niên đang vươn lên trong cảnh khó khăn thiếu thốn.
Cơm trưa xong, Minh không về căn gác quen thuộc, vì dư biết Văn cũng chẳng có về. Minh tự nhiên xem như thể công việc của mình, ngồi vào ghế xay bột thế cho Thọ thu dọn và sửa soạn phiên chợ ngày mai. Sơn đã lại nhà bạn hồi nào ; chỉ còn hai người lúi húi làm việc. Tay Minh xoay tròn tai cối đều đều như máy, mắt Minh nhìn những hạt gạo lần lần trũng xuống và rơi vào lỗ cối, nhưng óc Minh miên man nghĩ tận đâu đâu. Minh lại bắt nghĩ đến những lời Văn nói hồi hôm. Quả thật có nhiều điều Minh chưa hiểu rõ ý Văn, nhưng không biết sao cứ nghe Văn nói, tự nhiên Minh cảm thấy vơi được bao nhiêu thắc mắc, và tưởng chừng như lần lần đã có được một định kiến. Minh không thấy thèm muốn hay thích thú nếp sống vật lộn và giả tạo ở thành thị; nhưng ngó lại đằng sau, Minh cũng tự thấy cuộc đời quá ư bình thản và tăm tối của dân quê dưới bóng tre xanh là u uất quá, không thể nào mà Minh khứng chịu được nữa. Làn nước bột sánh và trắng như sữa tự rãnh cối chảy xuống chậu không ngừng ; Minh đắm đuối nhìn như thấy cả một làn sinh khí mới dâng lên...
Tiếng Thọ làm Minh chợt tinh:
- Anh Minh, anh nghĩ gì thế?
Minh nhắc lại cho Thọ nghe những điều Văn đã nói mà Minh nhớ được. Thọ chậm rải đáp:
- Anh Văn vẫn ham dạy học lắm! Anh bảo là phải trông ở lớp người mới này ; phải tranh thủ lấy họ mà xây dựng; dạy học có phải là cứ lấy một mớ sách nhồi nhét cho họ là xong đâu! Kể cũng lạ, nếu anh Văn muốn, làm gì mà anh chẳng có được một địa vị sang trọng giầu có.
- Thế bây giờ cô nghĩ thế nào?
- Nghĩ gì? Em chẳng nghĩ gì hết. Cứ cố buôn bán trông cho em Sơn ăn học thành người, rồi được trở về dưới quê. Em không muốn làm rộn anh Văn là vì vậy; anh ấy còn nhiều việc phải làm hơn mình chứ!
- Tôi thì khác. Tôi còn thắc mắc không hiểu sao anh Văn lại cố bắt tôi học nghề thợ máy này, lại khuyên tôi tối tối học thêm, mà bảo tôi rồi sẽ trở về đồng ruộng chớ sống mãi ở tỉnh thành làm gì?
- Anh nghĩ thế nào? Anh không muốn về dưới quê làm ruộng nữa à? Em thì trái lại, yên hàn là em trở về, thấy cần phải trở về là khác.
- Về chứ! Có điều là trở về quê làm ruộng thì chưa biết cần gì mà phải học nghề? Cần sinh sống tạm bợ thì làm công việc qua quít đủ ăn không được ư?
Có tiếng cười ròn rã, và tiếng Văn vui vẻ:
- Bao giờ chẳng là sống tạm bợ? Nhưng tạm bợ hay không thì cũng phải học lấy cách sống, để sống cho ra sống chứ?
Thọ và Minh cùng quay lại. Văn đã đứng tựa cửa lối xuống sân, mỉm cười nhìn hai người.
- Kìa, anh đến hồi nào thế!
- Hai cô chú coi nhà, người ta lên vào đứng nghe có cả giờ đồng hồ mà không hay biết! Ngày xưa thì anh đọc sách, em quay tơ; còn bây giờ thì người ta xay bột và người ta thái hành, mà cũng quên cả trông nhà!
Dứt lời, Văn lại khanh khách cười, làm Thọ và Minh cùng đỏ mặt. Minh cãi chữa thẹn:
- Em đương thảo luận về cách sống đấy chứ!
- Nói đùa cho vui đấy! Tôi vừa tới, thấy cửa ngỏ, khẽ lẻn vào trêu hai người, chỉ nghe lỏm được lời chú nói.
Thọ chưa hết đỏ mặt, cười gượng:
- Mặc! Đã cất lẻn vào, phải phạt anh xay bột thế cho anh Minh!
- Ối chao! Phạt gì chứ phạt thế không lo! Cô tưởng tôi không làm được ư? Chú Minh, chú đứng lên, nghỉ tay xem tôi xay đây này.
Văn vừa nói vừa khẽ đẩy Minh ra khỏi chiếc ghế dài, rồi nhanh nhẹn ngồi xuống. Minh nhìn Văn làm, buột miệng khen:
- Anh Văn xay nhẹn nhỉ!
- Cũng phải học mãi đấy chứ, chú ạ! Cái hồi tản cư về dưới làng, chú chẳng thấy tôi qua bên nhà học dì mà cũng biết đâm xay giần sàng đấy ư?
Văn ngừng lại, nghiêm chỉnh nhìn Minh, và nói tiếp:
- Dù cho sống tạm bợ qua ngày, bất kỳ lúc nào ta cũng cần phải học để biết. Tôi không còn lạ nếp sống của anh em dưới quê nữa. Chú thì chú lại cần biết nếp sống của anh em thợ thuyền ở tỉnh ; chú còn cần học thêm, để biết rộng thêm chút nữa.
Văn nói xong lại cắm cúi đều tay xay bột, những hạt gạo ngâm rời rạc từ từ lọt xuống hốc cối và biến thành làn bột trắng tinh đặc sánh, chảy không ngừng.
- Cũng chỉ vì không biết, nên không hiểu nhau mà đâm ra nghi ngờ khinh thị, rồi phân biệt, thù hiềm. Tại sao cứ dồn một lớp người vào thành thị rồi cắt đứt nếp sống với nếp sống của toàn dân? Tại sao không giúp cho sự hiểu biết, thông cảm với nhau về sự phân công, và san bớt những cách biệt về nếp sống? Tôi nghĩ vậy mà tôi khuyên chú học nghề, mà tôi còn khuyên chú học thêm buổi tối. Nghĩ vậy mà tôi khuyên chú một ngày kia phải trở về dưới quê. Cả cô Thọ nữa! Rồi tôi, rồi em Sơn, và lớp người như Sơn lớn lên sẽ khác. Những kẻ như vợ chồng ông Phán Thành, như các ông các bà hách dịch coi người bằng nữa con mắt, các công nương công tử đàng điếm, kệch cỡm, nhớn nhơ ngoài kia sẽ phải đổi khác! Họ tưởng sống mãi như vậy được hả? Họ tưởng họ trở lại lối sống ích kỷ như hồi trước chiến tranh được hả?
Văn ngừng nói, và cười lanh lảnh ; tiếng cười chua chát ngạo mạn.
- Thế nào cô Thọ! Bây giờ cô còn thấy sống ở quê nhà là buồn chán nữa không?
Thọ cười:
- Vẫn thấy buồn chán lắm, anh ạ! Nhưng đến khi em trở về, và nhiều người khác trở về, tất nhiên sẽ thay đổi chứ! Vì sẽ làm cho phải đổi khác đi cơ mà!
Cối bột cũng vừa hết. Văn đứng lên phủi quần áo, quay sang phía Minh, bảo:
- Tại chú đấy! Làm tôi quên mất một tin này, định bụng về sớm cho chú hay.
Minh trố mắt nhìn.
- Chú lên đây được đến một năm rồi đấy nhỉ? Tối hôm qua chẳng nói với chú là xe hàng đi Nam đã tới Guột được rồi ư? Sáng nay tôi thăm dò nhờ người đưa tin về cho dì. Từ đường số một, băng đồng về làng ta chỉ bốn, năm cây số chứ mấy?
Mắt Minh sáng lên:
- Liệu có nhắn được không hả anh?
- Có. Được anh học trò thân tín quê ở Đại Hoàng ; Guột giẽ qua tay mặt ấy mà... Nhà hắn mới có người đi về. Chuyến sau sẽ nhắn được ; chỉ trong vòng tuần lễ nữa thôi.
Minh ngẫm nghĩ một chút, rồi quả quyết:
- Hay để em về.
- Chưa được đâu. Tuy rằng có ‘‘lính bốt’’, và đã lập ban hội tề, nhưng yên là yên bề mặt!
Văn cau mặt, bực tức:
- Vì nào có giải quyết được gì đâu mà bảo yên? Chú mà về chắc gì họ để cho yên thân? Chú tin ở ai? ơ bọn bí thư Tùng à? Ổ bọn lính" bốt" à? Hãy để tôi thu xếp, nhắn tin đã.
Minh tiu nghỉu nét mặt. Văn thương hại, khẽ vỗ vai:
- Về làm gì vội! Chưa đến lượt anh em chúng ta đâu!