Chương 8 NHỮNG ĐỔI THAY
Tôi chỉ còn biết giã biệt Utah để quay về Căn cứ Hurlburt ở Florida. Dây xích xe của tôi bị kéo căng trong suốt cuộc hành trình vất vả, đến nỗi mọi bánh răng trên đĩa xích sau đều bị mài mòn, khiến tôi gần như lâm vào tình trạng hết sức khó khăn trong cái nóng cháy da ở Texas. Khi đến được Mississippi, lốp xe sau đã mòn trụi, và tôi cũng chỉ có thể lờ nó đi chứ không biết làm gì hơn. Tôi phải dùng số tiền ít ỏi còn lại của mình để đổ xăng, rồi vừa cầu nguyện vừa đi.
Vài giờ sau khi về tới doanh trại, tôi đến báo cáo với văn phòng chuyên làm thủ tục xuất ngũ. Khi tôi vừa gặp một chàng lính trẻ tuổi - một tân binh có phần hơi bốc đồng và lúng túng - anh ta bảo tôi phải đến trình diện ngay với ngài trưởng bộ phận. Tuyệt thật, tôi nghĩ bụng, giờ thì chuyện gì nữa đây? Tôi kiệt sức, và tôi nghĩ mình sẵn sàng nói hết tất cả những gì đang nghĩ với bất kỳ người nào mà tôi sắp gặp. Tôi lao ra ngoài hành lang, cảm thấy mình thật sự bị phản bội. Sau bốn năm, không một nỗ lực nào của tôi được đền đáp. Việc gia nhập không quân để trở thành một lính cứu hỏa, cuối cùng cũng chỉ là một trò hề. Tôi đã phải làm việc quần quật hệt như nhiều năm trước đây, nhưng lần này, công việc bắt buộc tôi đi từ những vùng đầm lầy ở Florida đến cả sa mạc ở Ai Cập. Nhưng để được gì? Tôi không quan tâm lắm đến quyền lợi của mình, nhưng một lần, chỉ một lần thôi, tôi ước sao mình được may mắn.
Càng cảm thấy người nóng bừng bừng, tôi càng ý thức mình phải cố dẹp bỏ lòng tự trọng sang một bên. Đúng thế, tôi là một đầu bếp, nhưng là một đầu bếp với những bước tiến vượt bậc và đã được nhìn tận mắt những Kim Tự Tháp vĩ đại. Tôi đã có cơ hội được giao một công việc mà ở đó, năng lực của tôi được thừa nhận, cho phép tôi - một học sinh trung học bỏ học nửa chừng - tiếp tục theo học bậc đại học. Tôi có hai người bạn thân, và trong bốn năm qua, không quân đã cho tôi một mái nhà. Với tất cả những điều đó, tôi còn phàn nàn điều gì nữa đây? Thế nên khi không thể chớp lấy cơ hội để trở thành một thành viên của đội bay, điều đó cũng có gì nghiêm trọng lắm đâu. Điều thật sự có ý nghĩa với tôi chính là tôi đã làm hết sức mình. Tôi hài lòng vì mình đã không bao giờ chùn bước. Tôi đã gặp nhiều thử thách nhưng chưa một lần từ bỏ. Khi người tiếp tân đưa tôi vào văn phòng của vị đại tá, tôi trở về với con người của chính mình. Tôi đứng thẳng người, nhanh chóng thực hiện nghi thức chào với vị đại tá:
- Thưa đại tá, trung sĩ Pelzer có mặt!
Một quý ông da đen cao lớn đứng lên từ phía sau chiếc bàn làm việc màu xám bằng kim loại. Vị đại tá vừa mỉm cười vừa lướt nhìn bộ quân phục được là ủi thẳng thớm của tôi.
- Cậu ngồi đi. - Viên đại tá ngừng một chút rồi nói tiếp. - Hình như chúng ta có việc phải giải quyết phải không?
- Sao ạ, thưa đại tá?
- Cậu vẫn muốn trở thành thành viên của đội bay chứ?
Tôi không chắc ông ấy đang hỏi mình chuyện gì.
- À, tôi muốn chứ… Ý tôi là, tôi rất muốn thế, nhưng…chuyện đó…không còn…
- Vấn đề mấu chốt là, - ông ấy chen ngang, - là trong khi xử lý đệ trình của cậu, không quân đã có sự nhầm lẫn. Chính tôi đã gây nên sai lầm đó. - Vị đại tá khẳng khái tuyên bố. - Vì thế, tôi có một phương án để giải quyết trường hợp của cậu. Lực lượng không quân sẽ chấp thuận mở rộng danh sách đăng ký. Cậu có thể tận dụng cơ hội này để đăng ký lại nguyện vọng của mình. Nếu được chấp nhận, cậu sẽ tái nhập ngũ. Nếu không, cậu có thể làm thủ tục và xuất ngũ bình thường. Nhưng cậu phải hiểu rằng, nhận được cơ hội này không có nghĩa là cậu đã chắc chắn có một vị trí trong đội bay đâu nhé. Nhưng, ông ấy nói với một nụ cười ranh mãnh, - cậu sẽ có thể theo dõi quy trình giải quyết hồ sơ của cậu. Cậu sẽ phải vượt qua nhiều thử thách gay go, và tôi không đảm bảo bất kỳ điều gì cả. Tuy nhiên, cậu nên biết đây chính là cơ hội cho cậu đấy.
Tôi đã nghĩ mình không còn gì, nhưng giờ thì tôi đã có một cơ hội. Tôi nhìn viên đại tá:
- Tôi sẽ tận dụng cơ hội này!
Tôi hăm hở chạy đi báo cho cấp trên về sự may mắn mà tôi vừa nhận được. Không chút chần chừ, họ thay đổi lịch làm việc của tôi để tôi có thể xem lại tất cả những giấy tờ cần thiết mà giờ đây tôi phải làm lại từ đầu. Vài tuần sau đó, quả thực tôi đã phải đi khắp doanh trại để thu thập các mẫu đơn từ theo quy định, nộp chúng vào từng phòng ban thích hợp để chờ kiểm duyệt. Sau đó tôi còn phải thu thập các biểu mẫu phụ, các biểu mẫu này cũng cần phải được xác minh kỹ càng, và thế là quy trình trước đó được lặp lại để đến cuối cùng, tôi trở lại văn phòng của vị đại tá với bộ giấy tờ hoàn chỉnh nhất.
- Có tin từ Trung sĩ Blue, người chịu trách nhiệm giải quyết đề xuất đặc biệt của cậu. Cậu ấy cho biết sẽ sớm có một số vị trí trống. - Lần này ông ấy cười rất thoải mái. - Tôi sẽ chịu trách nhiệm giám sát chất lượng. Tôi sẽ làm công tác kiểm định chất lượng hồ sơ của cậu. Mong cho mọi chuyện suôn sẻ. Cậu hãy cố gắng hết mình nhé. Cậu cứ theo dõi, và trong vòng một tuần Trung sĩ Blue sẽ gọi cho cậu.
- Cảm ơn… đại tá.
Vị đại tá đáp:
- Như tôi đã nói, lực lượng không quân đã mắc sai sót. Tôi đã gây nên sai lầm đáng tiếc đó.
Nhiều tuần lễ trôi qua, vẫn không có bất kỳ tin tức gì. Tôi thật sự rất muốn gọi cho vị trung sĩ, nhưng lại e ngại nếu tôi làm phiền ông ấy thì xem như cơ hội của tôi cũng tan biến. Thế là tôi quyết định không để đầu óc mình thảnh thơi để khỏi phải nghĩ nhiều đến chuyện đó bằng cách cặm cụi làm bất kỳ việc gì có thể. Một tuần lễ nữa trôi qua, tôi chịu thua và đành gọi cho trung sĩ Blue.
- Tôi đang rất mong điện thoại của cậu đây. Trung sĩ Blue mở lời một cách thờ ơ. - Chúng ta gặp chút vấn đề… - Tôi nghẹt thở, chờ đợi đất trời đổ sập xuống chân mình. - Cậu sẽ không tin điều này đâu, nhưng dường như hồ sơ của cậu lại rơi vào lớp tiếp liệu mặt đất. - Khi anh ta dừng lại, tôi tự hỏi, mình phải làm gì đây? Sau tất cả những gì đã trải qua, tôi sẽ không té ngã và đầu hàng. - Dù sao đi nữa, như tôi đã nói, chúng ta đã gặp chút vấn đề. Trung sĩ Blue tiếp tục.
- Anh có thể lặp lại được không? - Tôi hỏi, muốn nhắm vào cụm từ được anh ta nhấn mạnh đã gặp.
- Tôi nói đơn giản thế này nhé: những người chịu trách nhiệm theo dõi hồ sơ của cậu đã khắc phục những sai sót mà họ phạm phải trước đó, và tôi đã nhận được hồ sơ của cậu đúng thời hạn. Nhưng bây giờ, - anh ta nói thêm, - chúng ta lại có một vấn đề khác nữa. - Bụng dạ tôi cồn cào, cảm giác nôn nao đến khó chịu. Trung sĩ Blue hắng giọng rồi nói tiếp. - Điều đó…điều đó có nghĩa là tôi không thể chấp thuận đề nghị của cậu được.
Tôi nhanh chóng gợi ý:
- Tôi sẽ chấp nhận bất cứ vị trí nào anh có. Bất cứ vị trí nào! Thậm chí là làm việc ở Minot! - Tôi mạnh miệng, dù biết rằng Căn cứ không quân Minot nằm ở một vùng xa xôi của North Dakota và khét tiếng với khí hậu quanh năm luôn khắc nghiệt như mùa đông.
- Không thể làm được gì cả. - Viên trung sĩ đáp lời.
Trong đầu tôi ngầm tính toán. Vậy là tôi sẽ không còn cơ hội nào để đăng ký nữa. Tôi đã hết thời gian tại ngũ. Không còn sự lựa chọn nào khác. Đột nhiên, tôi nghĩ ra một phương án.
- Vậy chứ anh còn vị trí nào trống?
- Thì, việc tốt nhất tôi có thể làm là… - Tôi có thể cảm nhận được sự phấn khích đang bị đè nén ở Trung sĩ Blue. Tôi bắt đầu nổi gai óc - … Doanh trại này nằm ngoài địa phận California, về phía tây của Sierra Nevadas.
- Là căn cứ Beale! - Tôi la lớn.
- Vùng đất của Xe trượt tuyết. Chúc mừng cậu. Khi cậu có được chứng nhận của khóa huấn luyện, cậu sẽ trở thành chuyên viên tiếp liệu trên không cho chiếc SR-71 - chiếc máy bay nổi tiếng với tên gọi Xe trượt tuyết. Mấy hôm nay tôi vẫn đang đợi điện thoại của cậu đấy.
Tôi xúc động cảm ơn Trung sĩ Blue rối rít. Tôi gác điện thoại rồi vỗ tay đắc thắng. Khi bình tĩnh trở lại, tôi bắt đầu cầu nguyện và cảm ơn Thượng đế.
Mười tháng sau, mùa hè năm 1984, một chiếc Blackbird - SR-71 bay ở một vị trí cố định cách sau máy bay tiếp liệu KC-135(1) Q khoảng ba mét và cách dưới khoảng mười hai mét, chờ tôi - một thành viên phi đội vừa được cấp chứng nhận - thực hiện nhiệm vụ. Nhìn xuyên qua tấm kính trong suốt - lớp kính không chỉ bảo vệ tôi từ độ cao bảy ngàn năm trăm mét mà còn cho tôi một tầm nhìn bất tận về vạn vật trong bán kính hàng trăm dặm từ trên không - tôi hít thở thật sâu để lấy tinh thần. Ngay lúc đó tôi chỉ muốn nhảy bổ ra ngoài lớp kính và chạm vào chiếc Blackbird, khi cả hai chiếc máy bay cùng nhắm hướng nam với tốc độ khoảng năm trăm dặm một giờ theo một rãnh tiếp nhiên liệu được chế tạo đặc biệt, bên dưới là mặt nước sông Salmon trong xanh của bang Idaho. Điều có ý nghĩa đối với tôi lúc này không phải là cảnh quan thiên đường tôi được tận mắt chứng kiến hay việc tôi đã may mắn trở thành thành viên của biệt đội bay, mà điều quan trọng ở chỗ, đây chính là chuyến bay đầu tiên tôi độc lập thực hiện nhiệm vụ. Tôi đã thực hiện được ước mơ thời thơ ấu của mình. Tôi đã không còn bị giam cầm trong một thế giới đen tối đầy những đau khổ, vô vọng chỉ mong sao mình có thể “bay xa” khỏi những hiểm nguy. Sau nhiều năm tháng gian khổ, cuộc đời tôi đã chuyển sang một trang mới tươi sáng hơn. Lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu cảm nhận được giá trị của bản thân mình.
Khi còn bé, tôi vẫn luôn có một cảm giác mãnh liệt rằng một ngày nào đó khi có cơ hội, tôi sẽ làm được điều gì đó. Và giờ đây, cuộc đời tôi đã đi vào quỹ đạo. Tôi không còn khoác lên người vỏ bọc tự ti nữa. Tôi đã trở thành một con người thật sự. Tôi có thể thôi cảm giác căng thẳng khi lúc nào cũng đề phòng, tôi có thể thư giãn và sống cuộc sống của mình.
- Aspen 31, Bandit 27, - tôi tiếp âm chiếc SR-71 đang chờ đợi, sử dụng tín hiệu cuộc gọi nhận biết của nó để tiếp tục, - đã liên lạc thành công! - Này, anh bạn! - Viên phi công trong khoang lái nói oang oang. - Hãy làm cho Kelly Johnson tự hào đấy nhé!
- Rõ! - Tôi mỉm cười. Với tôi, không còn điều gì có thể tuyệt vời hơn khoảnh khắc ấy.
Giờ đây tôi đã là thành viên của đội bay. Mỗi ngày với tôi là một cuộc hành trình. Mỗi lần tôi kéo dây khóa bộ đồ bay của mình, tôi lại thấy như mình chính là vị anh hùng mà tôi vẫn thường nghĩ đến từ thời ấu thơ, là vị Siêu nhân, chuẩn bị bay vào không trung để cứu thế giới khỏi thảm họa diệt vong. Bộ quân phục màu xanh hiệu Nomex chính là chiếc áo choàng màu đỏ, đưa tôi đến những nơi tôi từng ước mơ được đặt chân đến khi còn là tù nhân trong trận chiến của mẹ. Tôi tự hào vì giờ đây mình được gia nhập vào một tổ chức có một không hai, luôn ý thức cao về danh dự và tình đồng đội. Càng làm công việc của một chuyên gia vận hành cần bơm xăng, tôi càng yêu quý công việc của mình và luôn tự hào về điều đó. Giờ đây, tôi đã là thành viên của một đại gia đình.
Công việc mới buộc tôi phải có tinh thần trách nhiệm cao hơn. Bên cạnh việc bay hai, ba lần một tuần, vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, đội chúng tôi sẽ phải dành ra một ngày trước đó để lên kế hoạch tỉ mỉ cho các phân đoạn - từ phân đoạn tiền cất cánh của máy bay cho đến khi tắt hẳn động cơ sau khi tiếp đất. Tôi nhanh chóng nhận thức được tầm quan trọng của công việc này. Nếu có một diễn biến đặc biệt nào đó về chính trị hay quân sự tại bất cứ nơi nào trên thế giới, Blackbird sẽ được triển khai để thu thập những hình ảnh sống động của điểm nóng đó tại thời điểm sự việc đang diễn ra và nếu có yêu cầu, những thông tin đó sẽ được chuyển đến tổng thống trong vòng hai mươi bốn giờ. Q KC-135 Stratotanker là chiếc máy bay tiếp loại nhiên liệu quý giá có tên JP-7 cho máy bay Blackbird, giúp SR-71(2) thực hiện tốt nhiệm vụ. Một điều tuyệt vời là túi bay của tôi luôn trong tình trạng sẵn sàng và tôi có thể được triệu tập để thực hiện nhiệm vụ vào những thời điểm đã được báo trước.
Vì tôi không bao giờ ngủ trước mỗi chuyến bay đêm, nên có lần sau khi thực hiện xong nhiệm vụ, tôi kiệt sức gần như ngã quỵ bên thành hồ bơi trong khu căn hộ liên hợp, nhưng tôi vẫn mỉm cười hài lòng. Tôi nằm xoài người trên thảm cỏ, ngước nhìn bầu trời thăm thẳm đầy sao, nơi ấy chỉ vài giờ trước đó, những ngôi sao kia ở gần tôi đến nỗi tôi có thể hứng lấy chúng vào lòng bàn tay của mình.
Tôi đã sống một cuộc đời tuyệt đẹp. Tôi có căn hộ của riêng mình, ngôi nhà của tôi, nơi không ai có thể hất tôi ra đường hay làm cho tôi cảm thấy mình là người thừa thãi. Tôi có thể đi ngủ sớm theo ý thích mà không phải băn khoăn như khi còn ở khu nhà tập thể của lính không quân. Tôi giữ cho căn hộ nhỏ xinh của mình luôn sạch bóng, tinh tươm. Về tài chính, tôi xoay xở tạm đủ, và những gì tôi chi tiêu bằng tiền lương của mình cũng khiến tôi thấy hài lòng. Tôi tự hào khi thấy căn nhà đầu tiên của mình được trang bị đầy đủ tiện nghi, và càng tự hào hơn khi đó chính là thành quả của những năm tháng tôi sống tiết kiệm. Cuộc sống của tôi còn có hai người bạn thân mà tôi đã gặp khi còn là một đứa con nuôi, Dave Howard và J. D. Thom. Họ vẫn sống ở Bay Area, và tôi vẫn thường lái xe về đó để bù khú với họ vào bất cứ ngày cuối tuần nào có thể. Tôi cũng giữ liên lạc mật thiết với Alice và Harold bằng cách gọi điện thoại cho họ vài lần một tuần. Tôi cảm thấy cuộc sống của mình đầy đủ hơn bất cứ ai.
Dù đã có cảm giác thoải mái về bản thân, nhưng tôi vẫn thấy day dứt vì một điều gì đó. Trong thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi của tôi ở nhà, mỗi khi đi xuống hồ bơi, tôi vẫn không thể hoàn toàn thư giãn và thoải mái như những người hàng xóm - họ phơi nắng, uống bia, bơi lội, hoặc ăn mừng vì vừa trải qua một tuần làm việc vất vả. Còn tôi chỉ được biết đến như một “Cậu bé bay”: một gã xanh xao, gầy nhẳng trong chiếc quần soóc và chiếc áo sơ-mi ngắn tay; một con mọt sách chỉ biết gặm nhấm hàng đống sách viết về kỹ thuật bay. Không giống như phần lớn những người tập trung quanh hồ bơi, tôi không phải một người đàn ông ngọt ngào, bảnh bao, cũng không phải một gã hầm hố với hình xăm chi chít trên người. Tôi không hề uống rượu cho đến khi tôi mãn khóa, không hút thuốc lá phả khói phì phèo, không sử dụng thuốc giảm đau mỗi ngày, cũng không luôn miệng nguyền rủa ai đó hay điều gì đó khiến tôi cảm thấy phiền lòng. Tôi cũng không phải xin viện trợ của chính phủ liên bang. Ấy vậy mà tôi vẫn không cảm thấy thoải mái khi ở giữa "họ".
Cũng chính ở hồ bơi, lần đầu tiên tôi gặp Patsy. Mặc dù đi cùng với một nhóm bạn hoang đàng, nhưng cô ấy lại có một vẻ gì đấy rất khác biệt. Cô ấy không ầm ĩ, cũng không hành xử ngớ ngẩn hay ngông cuồng như những người khác. Tôi cảm thấy lúng túng mỗi khi ánh mắt chúng tôi tình cờ chạm nhau trong lúc tôi đang nghiền ngẫm mấy quyển sách, và khi bắt gặp ánh mắt cô ấy nhìn về phía tôi, lòng tôi lại vui rộn ràng. Sau vài ngày, mỗi khi tình cờ gặp nhau, chúng tôi đã có thể chào nhau ngắn gọn. Một chiều thứ Sáu nọ, tôi tình cờ nói với Patsy rằng mình sẽ đi đến Bay Area. Vừa nghe xong, mắt cô ấy sáng lên:
- San Francisco ư? Em có thể đi cùng không?
Tôi do dự. Trước giờ chưa có người phụ nữ nào có ý định ở bên tôi.
- À... - Tôi lắp bắp. - Anh không đi đến thành phố đâu, nhưng...
- Nếu anh đồng ý là anh đã giúp em rất nhiều đấy. Những gã kia đang khiến em phát điên. - Patsy chỉ vào đám người đang vùng vẫy, la hét inh ỏi trong hồ bơi. Em không thích họ. Thật đấy. - Cô nhẹ nhàng nói thêm.
- Được rồi. - Cuối cùng tôi trả lời. - Vậy thì chúng ta sẽ cùng đi.
Ngày hôm sau, tôi chở Patsy đến thăm gia đình Turnbough. Tôi không thể tin rằng trò chuyện với cô ấy lại dễ dàng như vậy. Mọi nỗi e ngại của tôi bỗng chốc tan biến hết. Cô ấy thậm chí còn tỏ ra thích thú trước sự hài hước của tôi, bật cười thoải mái với hầu hết những điều tôi nói. Trong khi trò chuyện với Patsy, tôi mới nhận ra trước giờ mình đã cô đơn như thế nào. Ngoài những cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, hầu như tôi không hề biết rằng cô ấy đã quan tâm đến tôi nhiều như thế nào.
- Thế anh làm gì? - Sau một hồi trầm ngâm, Patsy hỏi.
- Anh là một con kanguru đực (boomer) - Tôi trả lời không suy nghĩ.
- Sao cơ?
- Ồ, anh xin lỗi. - Tôi phân trần rồi giải thích thêm. - Anh là một chuyên viên tiếp liệu... Anh làm công việc tiếp nhiên liệu trên không cho các máy bay chiến đấu trong không quân.
- À, ra thế, em hiểu rồi. - Patsy lịch sự gật đầu, nhưng ánh mắt của cô ấy cho tôi biết cô ấy vẫn chưa hiểu được điều tôi nói. - Vậy thì anh làm gì với bộ đồ toàn màu xanh từ đầu đến chân thế kia?
- Đó là đồ bay của anh.
- À… chỉ là, - cô ấy nói, - à, chúng em cứ cố đoán xem anh là ai. Anh biết đấy, anh có đi đâu ra ngoài đâu. Từ em muốn nhấn mạnh ở đây là “ra ngoài”: anh không biết tiệc tùng là gì. Em chưa thấy ai đọc và viết nhiều như anh. - Khi Patsy tiếp tục nói, tôi bắt đầu hình dung trán mình hằn rõ từ “lập dị”. - Lúc nào cũng vậy, anh đến rồi đi, chỉ một mình. Lần duy nhất em thấy anh có người đi cùng là khi anh mặc bộ đồ màu xanh này, cùng đi với các bạn của anh cũng mặc bộ đồ màu xanh tương tự. Chỉ là…, à, chúng em đã nghĩ anh là… anh biết đấy.
Tôi lắc đầu, tỏ ý không hiểu.
- Em đang nói cái gì thế?
- Ồi, khỉ thật! - Patsy che miệng lại. - Em không có ý... chỉ là, vài người trong số bọn em, không phải em, đã rất khó khăn khi tìm hiểu về anh.
Tôi sửng sốt khi biết rằng nếu tôi không tiệc tùng, hay nếu tôi chỉ quanh quẩn một mình suốt ngày thì tôi sẽ bị xem là một người không bình thường.
- Những người đi với anh mà em thấy là đồng đội của anh.
Tôi thấy Patsy có vẻ bối rối. Cô ấy không cố tình làm tổn thương cảm xúc của tôi. Tôi chỉ có thể thừa nhận rằng trong thế giới của cô ấy, tôi hoàn toàn là một kẻ xa lạ.
Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau suốt vài dặm đường, cho đến khi tôi phá tan bầu không khí căng thẳng bằng cách cố gắng nói vài chuyện phiếm.
Vài giờ sau, khi Alice nhìn thấy tôi với Patsy, mắt bà sáng lên. Alice ôm lấy tôi và nói khẽ:
- Cảm ơn Chúa vì cuối cùng con cũng chịu hẹn hò. Ta rất lo lắng cho con đấy. - Vẫn giữ chặt tay tôi, bà quay về phía Patsy. - Thế hai đứa đã quen nhau bao lâu rồi?
Patsy hơi lùi lại phía sau:
- À, chúng cháu chỉ vừa mới gặp nhau thôi ạ.
Tôi bỗng thấy mình không khác gì một tên ngốc. Tôi đưa một người phụ nữ mà tôi chỉ mới vừa quen biết về nhà cha mẹ mình, và thậm chí đó còn không phải là một cuộc hẹn hò nữa. Alice tỏ ra rất vui vẻ, bà cứ quay qua quay lại giữa Patsy và tôi để nói chuyện. Mỗi khi quay về phía tôi, bà lại nhìn tôi cười tinh quái và nheo mắt với tôi. Tôi cảm thấy mình như một đứa con trai mới lớn đầy ngượng nghịu, vừa cố làm vừa lòng mẹ vừa phải làm mọi cách để giúp Patsy không cảm thấy tẻ nhạt. Tôi chỉ có thể cầu nguyện sao cho Alice không cao hứng và nói cho Patsy biết điều gì đó trong quá khứ của tôi. Sau vài phút tán gẫu, tôi xin phép đi gặp Harold. Tôi mới gặp Harold vài tháng trước, vậy mà giờ đây trông ông già hơn cả mấy tuổi. Harold có vẻ yếu ớt, và ông phải cố lắm mới nói chuyện được với tôi. Ông nhìn xa xăm, cố giấu đôi bàn tay đang run rẩy. Sau vài phút, không thể kìm nén cảm xúc của mình thêm được nữa, tôi nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay ông. Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau. Ký ức về những đau đớn mà người cha đẻ của tôi đã phải chịu đựng lại hiện về trong tôi rõ mồn một.
Khi Patsy và tôi ra về, trong lúc ôm chào tạm biệt Alice, tôi khẽ hỏi:
- Chuyện gì xảy ra với cha vậy ạ?
Mắt bà dán xuống nền nhà.
- Ồ, không sao đâu. Harold chỉ bị cảm thôi mà. Thời gian gần đây ông ấy hay làm việc quá sức lắm. Ông ấy có hẹn với bác sĩ vào tuần tới đấy. Nghe này, - bà lại nói, - con đừng băn khoăn gì cả, hai đứa phải vui lên. Và ta nói cho con biết một điều nữa nhé. Alice nhìn cả Patsy và tôi. - Cả hai con rất xứng đôi đấy.
- Không phải như mẹ nghĩ đâu ạ. - Tôi khẽ nói. Chúng con chỉ mới gặp nhau cách đây có mấy ngày thôi, được chưa ạ?
- Rồi, - mẹ lại nói, - nếu con hỏi, ta sẽ nói rằng ta có một cảm giác rất tốt về hai đứa đấy.
- Em phải bỏ qua cho mẹ của anh nhé. - Tôi nói với Patsy khi chúng tôi đã lái xe đi xa. - Anh nghĩ mẹ chỉ muốn gán ghép cho chúng ta mà thôi. - Tôi không muốn Patsy có ấn tượng không tốt. - Ngoài ra, - tôi nói thêm bằng giọng Idit(3) cổ, - anh nghĩ mẹ đã xem phim Người kéo đàn trên nóc nhà (Fiddler on the Roof(4)) quá nhiều nên mới như vậy. - Tôi đang liên tưởng đến nhân vật đóng vai người làm mai kiên trì trong bộ phim, nhưng tôi có thể thấy Patsy không hứng thú với câu đùa đó.
- Họ có phải là cha mẹ ruột của anh không? Patsy hỏi.
- À, thế này, - tôi lên tiếng thật nhanh. Nhưng sau một thoáng im lặng, tôi mới thốt nên lời. - Họ đã nuôi dưỡng anh. Họ là cha mẹ nuôi của anh. Mẹ ruột của anh… bà ấy nghiện rượu và thường đánh đập anh. Đôi khi… - Tôi khựng lại, hy vọng không làm cho Patsy e ngại mà rời xa tôi. Tôi không chủ ý kể cho cô ấy nghe về quá khứ của mình. Tôi ghì chặt tay lái, lòng dâng lên nỗi sợ Patsy sẽ bất thình lình mở cửa xe và nhảy ra ngoài. Tôi chưa từng tiết lộ với bất kỳ ai về tuổi thơ của mình chứ đừng nói đến chuyện đề cập đến những trò bệnh hoạn của mẹ như thế này.
Bấy lâu nay tôi vẫn chấp nhận một sự thật rằng quá khứ của tôi có lẽ sẽ khiến tôi không thể gần gũi được một ai. Thậm chí vào năm hai mươi ba tuổi, với tất cả những gì tôi may mắn đạt được bằng chính sức lực của mình sau khi đã chống chọi quyết liệt với cuộc sống khắc nghiệt, tôi vẫn còn rất tự ti về bản thân. Tôi sợ phụ nữ như sợ chết. Tôi thấy mình chẳng là gì khi nhìn họ dù chỉ một giây, rồi việc phải một mình nói chuyện với họ nữa chứ. Đó là lý do tôi luôn cảm thấy bị áp đảo, lúng túng; vậy mà giờ đây tôi lại thích thú trước sự quan tâm mà Patsy dành cho mình.
Tôi chợt nhận ra mình đang lan man suy nghĩ về việc mình đã trở thành một đứa con nuôi như thế nào. Ít ra, tôi đủ thông minh để biết mình nên lờ đi chuyện đó. Vì quá khứ của tôi đã ngập ngụa trong quá nhiều dối gian và man trá, tôi coi trọng sự chân thành hơn bất cứ thứ gì khác. Tôi tin rằng, nếu tôi có một mối quan hệ với ai đó, thì điều quan trọng là tôi phải tỏ ra càng chân thật càng tốt, nhưng cùng lúc đó, tôi cũng biết phải che đậy một phần nào đó câu chuyện của mình để bảo vệ người kia khỏi bất cứ tổn thương hay cảm giác bối rối nào khi ở bên cạnh tôi. Tôi biết mình đã làm đúng và như vậy, giờ đây tôi lại có một lời nói dối chân thật. Có lúc tôi đã sống như vậy trong quân ngũ, đặc biệt trong thời gian của đợt đánh giá tâm lý kéo dài mà tôi phải thực hiện để trở thành một thành viên của đội bay. Chỉ là tôi sẽ làm cho một sự thật nào đó chệch đi nếu điều đó có thể giúp tôi giữ kín được bí mật của mình. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng điều đó sẽ không mang lại kết quả ngược cho tôi hay bất cứ ai khác vào một ngày nào đó. Điều tôi mong muốn nhất là không gây bất cứ tổn thương nào cho bất kỳ ai.
- Em hiểu điều đó mà… Em là đứa con ghẻ trong chính gia đình của mình. - Patsy thú nhận.
Rồi cô ấy tiếp tục giải thích rằng cô ấy đã bị đối xử phân biệt khi còn bé, lạc lõng giữa những anh chị em ruột của mình, gặp khó khăn khi tìm cách hòa hợp với người mẹ độc đoán, và khi trở thành một thiếu nữ, cô cảm thấy cách tốt nhất để thoát khỏi cảnh sống đó là bỏ đi xa.
- Em vướng vào một vài gã đàn ông. Chúng em đã làm việc vất vả để trang trải cho cuộc sống, tiệc tùng tụ tập liên tục, như anh thấy đấy. - Khi Patsy bộc bạch như vậy, tôi không chỉ có thể cảm thông với cảm giác bị xa lánh của cô ấy, mà còn có thể hiểu được lý do tại sao cô ấy có thể sống sót và tại sao cô ấy có thể đi cùng đám người ầm ĩ kia. Tôi có cảm giác rằng, cũng như tôi, Patsy đang tìm kiếm một sự chấp nhận từ thế giới xung quanh cô ấy. - Nhưng, cô ấy thở dài, - khi cha em mất, mẹ phải bán nhà và chuyển tới sống trong một căn hộ. Em phải quay về để giúp đỡ bà ấy vì không ai khác chịu giúp mẹ cả. Khỉ thật, em phải nằm ngủ trên trường kỷ. Bà ấy làm em phát điên là thế, vậy mà người duy nhất chăm sóc bà ấy lại là em cơ đấy.
Mặc dù đồng cảm được phần nào sự oán giận trong lòng Patsy, tôi biết rằng cô ấy vẫn chưa nói hết sự thật.
- Anh rất tiếc. - Tôi nói. - Anh thật sự rất tiếc. Không ai đáng bị đối xử tệ cả. - Tôi ngừng lại một lát. - Cha ruột của anh cũng mất rồi…
Tôi chưa kịp dứt câu, Patsy đã chen vào:
- Khỉ thật! Em vẫn nghĩ đời là thế, những chuyện chó chết vẫn cứ diễn ra hàng ngày…
Tôi phì cười. Tôi chưa từng thấy kiểu nói năng như thế bao giờ cả. Nhưng qua cách nói chuyện của Patsy, tôi hiểu được hàm ý sâu xa là cô ấy sẽ phớt lờ bất cứ khó khăn nào mà cô ấy gặp phải trong đời.
Suốt đoạn đường về nhà, Patsy và tôi không ngừng pha trò. Cả đời mình, tôi chưa từng ở bên cạnh một người phụ nữ trong một khoảng thời gian dài như vậy. Tôi không muốn khoảng thời gian ấy chấm dứt. Vào cuối buổi tối hôm ấy, tôi tự hào khoe căn hộ của mình với Patsy. Patsy là người đầu tiên bước chân vào thế giới của tôi. Chúng tôi ngồi xuống trường kỷ, nhấm nháp một chút rượu vang và nghe nhạc jazz nhẹ nhàng. Khuya, tôi băn khoăn không biết nên chào tạm biệt để đi ngủ hay tiếp tục trò chuyện, bởi tôi vẫn còn rất muốn tâm sự cùng Patsy thật nhiều. Đột nhiên, Patsy chồm người về phía trước. Tôi thoáng ngại ngần khi cô ấy vòng tay ôm cổ tôi, rồi hôn tôi. Không ai trong chúng tôi biết trước những chuyện đang xảy ra vào lúc ấy. Chúng tôi đều không thể tin được rằng cả hai đều đã phải lòng nhau.
Những tuần sau đó diễn ra như một cơn lốc. Như tất cả những người bình thường khác, tôi đã có bạn gái. Tôi đã có mọi thứ. Tôi say mê công việc của mình, và lần đầu tiên tôi đã có một người muốn ở bên tôi, một người quan tâm đến tôi. Cảm giác được trở về nhà sau một chuyến bay mệt nhoài để ở bên Patsy đối với tôi còn hơn cả niềm vui nữa. Tôi vô cùng xúc động khi Patsy nấu cho tôi bữa tối, hay để vào túi đựng thức ăn trưa của tôi một lời nhắn yêu thương mà tôi phát hiện ra khi đã ngồi trên máy bay. Tôi thích được chăm sóc như vậy. Tôi cảm thấy cuộc sống của mình thật trọn vẹn.
Mỗi lần tôi phải bay đi nước ngoài trong vài tuần liên tiếp, Patsy tình nguyện đến trông coi nhà cửa cho tôi, tưới cây và cho chú rùa yêu tên Chuck của tôi ăn. Tôi hơi e ngại bởi tôi rất cẩn trọng và có cảm giác mọi thứ đang diễn ra quá nhanh. Tôi biết mình đã có một thỏa hiệp ngầm nào đấy với cô ấy, nhưng tôi khó mà kiểm soát được bản thân mình. Tôi đã luôn sống trong cô đơn. Chưa từng có ai quan tâm đến tôi, nói chi đến việc họ nhận ra sự thu hút của tôi và dành thời gian của họ cho tôi. Tôi đưa cho Patsy một chiếc chìa khóa dự phòng, với điều kiện cô ấy chỉ cần trông coi căn hộ giúp tôi mà thôi.
Một lần nọ, sau chuyến đi dài ngày, tôi trở về nhà và gặp Patsy đang đứng ở cửa. Khi mang đồ vào, tôi để ý thấy nơi để đồ của tôi đã bị choán bớt chỗ vì quần áo của cô ấy và kệ trong nhà tắm thì đầy ắp đồ trang điểm của Patsy. Khi tôi đứng ở cửa phòng ngủ, Patsy lao tới, ôm chầm lấy tôi mà khóc.
- Chuyện không phải như anh nghĩ đâu! Em không có ý định làm như thế, nhưng mẹ em đã làm em phát điên lên! Mẹ con em đã cãi nhau rất lớn. Em quá mệt mỏi vì bị bà ấy khống chế rồi. Anh biết điều đó là thế nào mà. Hơn nữa, dù sao thì em cũng đã dành phần lớn thời gian của mình ở đây rồi. Em nhớ anh rất nhiều. Anh không giống như những người khác. Chúng ta đang trông đợi điều gì đây hở anh? Anh biết tình cảm của em dành cho anh mà. Có đúng không? - Cô ấy nức nở.
Từ trước đến giờ, Patsy chưa bao giờ tỏ ra xúc động đến thế. Tôi muốn để cô ấy ngồi xuống và giải thích cho cô ấy một cách nhẹ nhàng, hợp lý rằng chúng tôi giờ đây xem như đã sống chung với nhau rồi. Đó không còn là một cuộc hẹn đi xem phim, một bữa tối lãng mạn hay một chuyện tình say đắm nữa. Trong lúc ở nước ngoài, tôi dặn lòng mình là hãy hạn chế tình cảm của mình với Patsy. Nhưng khi ôm cô ấy trong tay, tôi lại thấy việc mình đã lo quá xa cho những điều còn chưa xảy đến trong cuộc đời thật là thừa thãi. Nhìn vào đôi mắt đẫm nước của Patsy, tôi nhận ra mình cũng nhớ cô ấy biết nhường nào. Khi cơn xúc động qua đi, Patsy hôn lên cổ, lên mặt tôi và nói:
- Đôi khi em thấy cuộc sống này khó khăn quá. Em mệt mỏi vì bị người khác hạ nhục, bị họ sai bảo phải làm cái này, cái kia. Và dù em có làm gì đi nữa, thì cũng không bao giờ đủ cả.
Việc Patsy bị người khác đối xử như thế nào cũng khiến tôi bận tâm. Lần đầu tiên tôi gặp mẹ của Patsy, bà Dottie Mae, bà đã tỏ ra là người phụ nữ tuyệt vời, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được bà ấy theo dõi nhất cử nhất động và chỉnh sửa từng việc làm nhỏ nhặt nhất của Patsy sát sao như thế nào. Khi tôi hỏi Patsy tại sao mẹ cô ấy lại đối xử với cô ấy như vậy, Patsy phẩy tay:
- Đấy là cách mẹ trông nom em đấy. Mẹ sợ rằng em sẽ bỏ đi và lại gây rắc rối. Lúc trước em hành xử có phần hơi ngông cuồng anh ạ.
Một lần nọ, trước một chuyến bay đi nước ngoài của tôi, Patsy chạy ào vào nhà tôi và kể với tôi rằng mẹ và các anh chị của cô ấy lại nhiếc mắng cô ấy thế nào. Tôi chưa kịp an ủi cô ấy, thì từng người một trong gia đình Patsy đã xộc vào nhà, không gõ cửa, hét rống vào mặt Patsy rồi lại quay sang mắng mỏ nhau. Thậm chí tôi còn thấy một người đang mặc sức tọng vào miệng bất cứ thứ gì anh ta tìm thấy trong tủ lạnh nhà tôi và một người khác thì đang lục lọi khắp các ngăn bàn trong phòng ngủ của tôi. Chỉ sau khi đã tống khứ hết thảy bọn người đó ra ngoài, trừ Patsy, tôi mới nhận ra cơn cuồng nộ của gia đình cô ấy mới quen thuộc với mình làm sao.
Tôi biết Patsy đã sống khổ sở thế nào trong căn hộ hai phòng ngủ tù túng của mẹ cô ấy. Vì mẹ của Patsy đã chiếm lấy một phòng, phòng còn lại dành cho anh trai của cô ấy và bạn gái của anh ta, nên Patsy phải ngủ trên chiếc trường kỷ trong phòng khách. Anh trai của cô ấy chỉ biết bỏ thời gian chơi trượt nước, đi đây đó bằng chiếc xe tải quý hóa mà anh ta đã mua được sau khi thắng một vụ kiện tụng gì đó, hoặc chỉ biết tiệc tùng bù khú mà thôi. Biết mẹ buồn phiền, Patsy thấy mình là người duy nhất phải trông nom nhà cửa, nấu nướng và làm vô số công việc lặt vặt cho mẹ.
- Giờ thì anh đã hiểu tại sao em ra ngoài và tiệc tùng rồi đấy. - Patsy giải thích.
- Nhưng tại sao em không tìm một việc làm, để dành một ít tiền, và dọn ra ngoài ở? - Tôi hỏi ngược lại cô ấy.
- Công việc ư? Việc làm nào cơ? Em đã thử vài lần rồi. Và tại sao lại phải phiền phức vậy chứ? Công việc tốt nhất em có thể làm là phục vụ bàn. Nhưng ai muốn làm công việc đó chứ? Hơn nữa… em có một chỗ dựa…cũng chẳng tốt đẹp gì. Mẹ cho em tiền mỗi khi em cần. - Patsy nhún vai, như thể điều đó chẳng có gì to lớn lắm.
Lúc đó, tôi không thể tin vào tai mình. Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện không làm việc để nuôi sống bản thân. Tôi đã trải qua một thời gian khó khăn để chấp nhận cách hành xử của gia đình Patsy và cách họ đối xử với cô ấy, nhưng khi nghĩ về gia đình của chính mình, tôi biết oán trách ai đây? Ít ra thì tôi cũng biết được một điều, như có lần Patsy đã nói với tôi, "Em biết thỉnh thoảng chúng ta cũng to tiếng với nhau, nhưng nếu có ai khác gây chuyện với anh hoặc em, đương nhiên chúng ta sẽ kết hợp và đá người đó đi ngay. Giờ thì anh biết rồi đấy, đó là lý do tại sao chúng ta yêu nhau đến vậy”. Tôi nghĩ có lẽ gia đình của Patsy không phải lúc nào cũng có cách hành xử bất thường như vậy, và như thế, có lẽ tôi đã đặt ra những tiêu chuẩn quá cao.
Khi tôi ôm lấy cơ thể đang run lên của Patsy, cô ấy thì thầm:
- Nếu anh để em chuyển đến ở cùng anh, mẹ sẽ để yên cho em, bà ấy phải như vậy thôi. Và sau đó em sẽ được hạnh phúc. Anh sẽ thấy. Chúng ta sẽ thật hạnh phúc.
Tôi cũng mong muốn được ở cạnh Patsy. Tôi biết cô ấy xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn. Tôi còn nghĩ, có lẽ quá khứ của cả hai sẽ giúp chúng tôi đồng cảm với nhau và có cơ hội trở thành một cặp đôi hạnh phúc. Nếu được ở bên nhau, chúng tôi sẽ có đủ sức để vượt qua bất kỳ cơn giông bão nào của cuộc đời. Ngoài ra, tôi tự nhủ không ai có thể chăm sóc tôi tốt hơn Patsy.
- Được rồi, - tôi nói, giọng như vỡ òa, - em cứ làm như vậy đi. Cứ dọn đến đây, chúng ta sẽ sống cùng nhau.
Trong cơn xúc động, Patsy ôm chầm lấy tôi khiến tôi như muốn nghẹt thở.
- Cảm ơn anh, cảm ơn anh, cảm ơn anh! Cuối cùng thì em đã có một mái nhà! - Mắt Patsy rưng rưng. Cô ấy nghẹn ngào một lúc rồi mới vỡ òa. - Em yêu anh, David. Em đã yêu anh từ rất lâu. Em thật sự yêu anh. Anh là người duy nhất, là người duy nhất em thương yêu.
Người tôi đờ ra. Tôi không thể làm gì khác, chỉ biết đứng đấy tiếp tục ôm chặt lấy cô ấy. Thời gian cứ thế gõ nhịp, và tôi vẫn không thể mở miệng nói được lời nào. Ngay lúc này đây, có một người phụ nữ đang ở trong vòng tay tôi; giờ cô ấy đã là một phần đời quan trọng của tôi, cô ấy đã mở lòng với tôi và tôi thì…
Tôi không thể nói được gì cả. Và vì thế tôi cảm thấy khinh thường bản thân mình quá đỗi. Làm sao tôi có thể để một người con gái vào ở trong nhà của mình mà lại không hề yêu cô ấy? Tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng sau tất cả những gì Patsy đã làm cho tôi và tất cả những gì cô ấy đã trải qua, cô ấy xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Được rồi, - Patsy sụt sịt lau nước mắt, - em hiểu, em hiểu, em rất hiểu. Nhưng một ngày nào đó anh sẽ yêu em, em tin như vậy. Một ngày nào đó anh sẽ yêu em thôi mà.
Sáng tinh mơ hôm sau, tôi vẫn nằm trằn trọc trong khi Patsy thì đang nằm ngái ngủ cạnh bên. Tôi không ngủ được một phần do sự thay đổi múi giờ vì tôi vừa từ Anh trở về. Nhưng tôi biết lý do thật sự khiến tôi mất ngủ chính là cảm giác tội lỗi đang gặm nhấm lương tâm tôi. Giờ đây tôi sống chung với một người, và khi tự vấn lòng mình, tôi không biết rằng liệu sau này mình có thể có những cảm xúc mạnh mẽ đối với Patsy giống như cảm xúc của cô ấy đã dành cho tôi hay không. Sao tôi lại có thể hờ hững trong khi Patsy lại đầy ắp xúc cảm thế kia? Phải chăng đó là do sau nhiều năm gồng mình chống chọi với cuộc sống để sống sót, tôi đã không thể phá vỡ khuôn mẫu của mình? Hay vì tôi không muốn thế? Càng cố gắng bao nhiêu, tôi càng không thể tìm cho mình lời giải đáp. Tôi chỉ biết rằng tôi đã tự đưa mình vướng vào một chuyện mà bản thân tôi còn chưa hiểu hết. Giờ đây, tất cả những gì tôi có thể làm là tuân theo những cam kết của mình mà thôi.
Buổi chiều hôm sau, tôi điện thoại cho Alice. Sau khi kể cho bà nghe chuyến đi nước ngoài của mình, tôi chợt nhận ra mình đang mỗi lúc một lo lắng.
- Mẹ, - tôi lắp bắp, - Patsy và con, à... chúng con quyết định, chúng con đang sống chung với nhau rồi ạ. Như vậy có vấn đề gì không mẹ?
Tôi nghe thấy mẹ hít một hơi thật sâu.
- À, mẹ đoán cả hai đứa đều đã suy nghĩ kỹ về chuyện này rồi.
- Ồ, vâng, - tôi ngắt lời mẹ, - chúng con… à, chúng con đã nói chuyện với nhau rất nhiều ạ.
- Và cô ấy cũng có tình cảm như con đối với cô ấy chứ?
Tôi cảm thấy bối rối.
- Vâng, - tôi trả lời khó khăn, - Patsy, cô ấy… cô ấy đối xử với con rất tốt… và cô ấy cũng đã trải qua nhiều khổ cực trong quá khứ. - Tôi định thần lại. Tôi đang cố gắng nói bất cứ điều gì mình có thể nghĩ ra để làm câu chuyện trở nên nhẹ nhàng hơn. - Con xin lỗi mẹ, con biết mẹ không đồng ý đâu. Chỉ là con, con rất kính trọng mẹ và cha. Con không muốn sống giả dối. - Tôi dừng lại, chờ đợi Alice trách mắng mình. Tôi thậm chí còn không nghe tiếng bà thở. Mẹ, mẹ ơi, mẹ còn đó không?
- Ừ, mẹ đây. Chỉ là… - Bà dừng lại, và khi đó, chẳng hiểu sao tôi thấy ghét bản thân mình kinh khủng. Tôi chỉ biết chờ đợi một cơn giận dữ trút xuống đầu mình mà thôi. - Chỉ là, à… mẹ đã đưa Harold đến gặp bác sĩ rồi.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi đề tài về Patsy và tôi được mẹ cho qua.
- À, - tôi xen vào, - cảm cúm phải không ạ? Và cha phải ở nhà nghỉ ngơi một thời gian đúng không ạ?
- David, - Alice nói, - Harold bị bệnh ung thư. Ông ấy được sắp xếp để tham gia trị liệu, nhưng… bác sĩ cho rằng đã quá trễ rồi. Ông ấy sẽ phải chiến đấu với căn bệnh, vì vậy bây giờ chúng ta chỉ có thể cầu nguyện cho ông ấy mà thôi. Ta rất vui vì chuyện của hai con, nhưng giờ thì chuyện này chỉ nên để ta và con biết thôi nhé.
Tôi gác điện thoại, quay sang Patsy và nói cho cô ấy nghe tin vừa rồi. Điều tôi đã không nói với cô ấy là cảm giác xấu hổ của mình. Tối hôm ấy, tôi tự trách mình đã quá ích kỷ. Những chuyến bay, những chuyến đi vòng quanh thế giới, căn hộ của tôi, người bạn gái sống chung của tôi - tôi, tôi, lúc nào cũng tôi. Buổi sáng tiếp theo, sau khi đi làm về, tôi ngồi xuống bên cạnh Patsy.
- Anh đã nghĩ kỹ rồi, anh dự định sẽ về nhà với cha mẹ anh vào những ngày cuối tuần.
- Em hiểu chứ. Anh hãy nhớ, cha em cũng mất rồi mà. - Patsy nói. Tôi gật đầu đồng ý. - Nghe này, em có ý này hay lắm, em có thể đi cùng anh! Em có thể giúp Alice, và như thế này, chúng ta lại được ở bên nhau.
Câu trả lời của tôi không như Patsy mong đợi.
- Nhưng vậy thì em sẽ ít được gặp anh lắm, còn chuyện của chúng ta thì sao? - Cô ấy khóc.
- Lúc cha anh mất, ông thậm chí còn không thể nói lời từ biệt với anh. Không ai ở bên cạnh ông cả. - Tôi dừng lại, hồi tưởng lại hình ảnh cha tôi nằm một mình trong căn phòng ấy, trên người đắp tấm vải bệnh viện trắng toát. - Ngày đầu tiên anh đến nhà Turnbough làm con nuôi, không ai… và… ý anh là không ai đón nhận một đứa như anh. Chúng ta sẽ có thời gian dành cho nhau, nhưng bây giờ thì điều anh phải làm là một việc khác… là một việc anh nên làm.
Patsy gật đầu.
- Em hiểu rồi.
Cô ấy rướn người định ôm lấy tôi, nhưng ngay lúc đó, tôi đứng dậy và bỏ đi.
Khi không phải bay đi nước ngoài, tôi dành gần như tất cả những ngày cuối tuần rảnh rỗi để ở bên cạnh gia đình Turnbough, có khi tôi còn đến đó ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ vào trưa thứ Sáu, trên người vẫn còn nguyên bộ đồng phục bay đẫm mồ hôi. Vào những lúc Harold không phải ngủ nhiều do tác dụng của thuốc, hai chúng tôi thường ra ngoài mái hiên ngồi trò chuyện. Lúc tôi còn là một chàng thanh niên mới lớn, Harold rất ít khi trò chuyện cùng tôi, nhưng giờ đây Harold lại kể cho tôi nghe những câu chuyện trong thời gian ông phục vụ quân ngũ trong thế chiến thứ hai với vai trò là tài xế cho các sĩ quan, cả chuyện khi trở về từ châu Âu, ông và những cựu chiến binh khác đã khóc như thế nào vào khoảnh khắc họ trông thấy bức tượng Nữ thần Tự do. Trong khi một số đồng đội của ông ở lại New York để ăn mừng chiến thắng, thì Harold đã đón chuyến tàu đầu tiên trở về Missouri. Thời gian này ông phải thức dậy thật sớm vào mỗi sáng và mang hộp đồ nghề thợ mộc đi hết nhà này đến nhà khác để kiếm việc làm. Đối với tôi, vấn đề không phải là ông đã nói với tôi những gì, mà là chúng tôi đã ở bên nhau lâu như thế nào. Trong những lần như thế, khi làn gió nhẹ thổi qua tấm rèm ngoài mái hiên, thì Harold và tôi đã làm được một điều mà người cha đẻ của tôi và tôi không có cơ hội làm được: thân thiết với nhau như cha với con trai.
Sau vài tháng, tôi nhận thấy tình trạng sức khỏe của Harold xấu dần đi. Những lần Patsy đi cùng, cô ấy phải giấu đi sự ngỡ ngàng trước sắc diện của Harold. Tôi thường để cô ấy ở với Alice, còn tôi ngồi bên cạnh Harold bất kể ông đang thiếp đi hay khi đang tỉnh giấc. Tất cả chúng tôi đều biết căn bệnh ung thư quái ác đã di căn sang nhiều bộ phận khác trên cơ thể Harold nên các phương pháp hóa trị đều không thể giúp ích được gì cả. Harold vẫn cầm cự bằng sức một sức mạnh kỳ lạ, nhưng rồi sức lực, sự phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trên cơ thể và thị lực của ông bắt đầu giảm sút nhanh chóng, đến nỗi ông không thể tự lái xe hay mày mò công việc với đống đồ gỗ nữa. Đó là khi ông biết cái chết đã gần kề.
- Ta sẽ xây một căn nhà cho Alice, con biết đấy, căn nhà ở Nevada… - Harold đã nói như vậy vào một chiều thứ Bảy nọ. - Nhưng chắc phải chờ đến lúc nghỉ hưu mới được.
Tôi gật đầu tỏ ý ủng hộ ông.
- Vâng ạ.
- Bây giờ thì không có thời gian. - Ông dừng lại, xoa xoa đôi bàn tay chai sần của mình. - Còn con… con muốn điều gì nào?
- Gì cơ ạ? - Tôi bối rối thốt lên. Bao nhiêu năm tôi biết Harold, ông ấy chưa bao giờ hỏi tôi một câu thăm dò kiểu như vậy. - À… - tôi lắp bắp. - Con… con thích được bay. Con luôn mơ về một căn nhà cạnh bờ sông. Kể từ khi cha ruột của con mất đi, con cứ mong sao cha và con có thể cùng nhau xây nên căn nhà đó.
- Không! - Giọng ông run run, tay siết chặt lấy tay tôi. - Điều gì con thực sự mong muốn ấy?
Chúng tôi nhìn vào mắt nhau, như cha tôi và tôi đã từng làm trước lúc ông mất. Tôi ghé sát vào tai ông ấy.
- Dù cho con ở đâu, hay con có thứ gì, hay con đang làm gì, con chỉ mong mình được hạnh phúc mà thôi.
- Được rồi, - Harold nói. Ông lại siết chặt tay tôi hơn. - Thế thì con đã tìm thấy hạnh phúc rồi đấy. Con đã làm nên một sự khác biệt. Hãy làm việc thật tốt, hãy nỗ lực, và hành động từ bây giờ con nhé.
Đột nhiên ông buông lỏng tay, đầu gục xuống. Trong thoáng chốc, tôi hoảng sợ. Khi Alice và Patsy chạy ra đến hàng hiên, Harold tỉnh lại, ngẩng đầu lên, mỉm cười rồi lại thiếp đi. Kể từ lần đó, tôi không còn cơ hội để nói chuyện với ông thêm lần nào nữa.
Vài ngày sau đó, Alice gọi điện thoại, giọng chực khóc nói rằng Harold đang hấp hối. Patsy và tôi vội nhảy lên chiếc Toyota Celica của tôi, len lỏi giữa làn xe cộ trong giờ cao điểm của Bay Area rồi thắng gấp trước ngôi nhà cũ thân thương của mình. Vừa bước qua cửa chính, nhìn vẻ mặt của mọi người, tôi biết mình đã quá trễ. Alice bước đến chỗ tôi và chỉ nói đơn giản:
- David, ta rất tiếc… ông ấy vừa trút hơi thở cuối cùng.
Tại lễ tang, tôi nhận được một lá cờ Mỹ, rồi tôi bước đến để trao nó lại cho Alice. Đứng trước mẹ nuôi, tôi phát biểu:
- Trong tất cả những người con biết, Harold chính là người đã có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với cuộc đời của con…
Trong suốt bài phát biểu tưởng niệm, tôi đã cố gắng tỏ ra mạnh mẽ, nhưng tôi đã hoàn toàn mất kiểm soát sau khi chiếc quan tài bằng gỗ sồi nhạt màu được hạ huyệt. Trong khi người người lần lượt quay ra xe trở về nhà, tôi vẫn một mình đứng đó, lòng giận dữ vô cùng. Cả người tôi run lên khi ngước nhìn bầu trời với những áng mây màu xanh sẫm. Tại sao? Tại sao lại là Harold? Ông là người đã sống cả đời với phương châm “có làm thì mới có ăn”, là một người sắp nghỉ hưu, để rồi mất hết tất cả như thế thôi ư? Trong khi những người khác như mẹ tôi, một con người lạnh lẽo, lòng đầy thù hận, một người căm ghét tất cả mọi người và mọi thứ, người chỉ thích phá hủy bất cứ thứ gì gần gũi với mình thì vẫn tiếp tục sống mà không phải làm gì động đến tay chân. Thật không thể hiểu được. Harold không uống rượu, không lăng mạ sỉ nhục người khác, thậm chí còn chưa một lần nói lớn tiếng nữa. Ông ấy đã sống một cuộc đời trong sạch; ông ấy cưu mang những đứa trẻ mà những gia đình khác từ bỏ. Vậy thì tại sao chứ?
Tôi đau đớn quỳ sụp xuống trước mộ Harold. Con rể của Alice là Del, người tôi rất kính trọng, đã đến ôm lấy tôi cho đến khi cơn giận trong tôi nguôi ngoai.
Vài tuần sau ngày Harold mất, tôi vẫn giữ thói quen gọi điện thoại thường xuyên cho Alice mỗi tuần. Mỗi cuối tuần, bất cứ khi nào có thể, tôi đều lái xe về thăm bà. Tôi cảm thấy rất buồn cho Alice và luôn muốn được ở bên cạnh để an ủi bà. Thỉnh thoảng chúng tôi cùng nhau đi mua sắm. Những lúc có dịp ăn tối cùng nhau, tôi lại khiến bà cười vang bằng cách kể cho bà nghe những chuyện điên rồ của tôi khi tôi còn sống trong vòng tay bảo bọc của bà. Tuy nhiên, việc tôi ở cạnh bà không những giúp tôi có thể chia sẻ buồn vui với bà khi bà cô đơn mà dường như đó còn là cách để tôi trốn tránh những vấn đề cá nhân của tôi.
- Trông con có vẻ mệt mỏi đấy. - Alice vừa nói vừa xoa đầu tôi trong một lần tôi ghé thăm bà. - Con đang bị sụt cân đấy à?
- Là vì công việc thôi ạ. Chắc là do người con bị mất nước thôi. - Tôi nói dối.
- Chuyện giữa con và Patsy sao rồi? - Alice hỏi.
- Tốt ạ. - Tôi gật đầu. - Tốt lắm ạ.
- Con sống với một người…chưa đến một năm mà mọi thứ lại tốt à? Ta không tin vậy đâu nhé. - Bà nói.
Biết Alice vẫn còn đau buồn sau cái chết của chồng, nên tôi không muốn nói với bà rằng trong thời gian ấy, tôi đã phát hiện mình và Patsy khác biệt nhau quá nhiều. Ngay cả sau mười một tháng chung sống, tôi vẫn không thể dành cho Patsy thứ tình cảm mà cô ấy đã dành cho tôi. Đến giờ tôi vẫn không thể hiểu tại sao tôi lại khép kín cảm xúc của mình như thế. Dù tôi nghĩ mình nên đặt lòng tin vào Patsy, nhưng chẳng hiểu sao một phần nào đó trong tôi không làm được vậy. Tôi nhận ra mình rất dễ bực dọc với Patsy, ngay cả với những điều nhỏ nhặt nhất. Nhưng mỗi lần tôi đi công tác nước ngoài trong vài tuần, tôi lại mong muốn được ở bên Patsy. Và thế là tôi tự hỏi, tôi có nhớ cô ấy vì một tình cảm thật sự không.
Bất cứ khi nào tôi trở về nhà sau những chuyến công vụ dài ngày, hai ngày đầu tiên đều rất tuyệt. Chúng tôi đi ăn tối, uống vài ly bia ở quán rượu cô ấy yêu thích hoặc đi xem bộ phim mới nhất. Nhưng ngay sau đó, niềm vui thú lắng xuống, tâm trạng vỡ mộng lại trỗi lên. Khi tôi đi xa, Patsy luôn khẳng định là đã tìm được một việc làm. Nhưng khi tôi trở về, Patsy lại báo là “bỗng nhiên mất việc” và không được trả một đồng nào mà không có lý do nào cụ thể. Tôi chưa từng tìm hiểu xem thật sự đã có chuyện gì xảy ra. Nhiều lần tôi đề nghị giúp Patsy bằng cách tìm đến những người chủ đã thiếu tiền lương của cô ấy, nhưng Patsy cứ nói rằng cô ấy không nhớ họ là ai, nếu không thì cũng là họ đã bỏ trốn rồi. Một lần nọ, tôi kiên quyết tìm bằng được nơi cô ấy đã làm việc, thế là Patsy òa khóc và chúng tôi đã cãi nhau.
Tình trạng ấy cứ lặp lại thường xuyên. Patsy ngạc nhiên mỗi khi tôi gợi lại những chuyện mà cô ấy đã nói và đã quên chỉ sau một thời gian ngắn. Rõ ràng đó chỉ là những lời nói dối, nhưng tôi không thể hiểu nổi cô ấy tỉ mỉ dựng lên những chuyện như thế để làm gì. Tôi không thể tự mình đối diện với Patsy. Một phần vì tôi vẫn thiết tha muốn tin cô ấy. Tận trong sâu thẳm, tôi biết Patsy là một người tuyệt vời. Nhưng mỗi khi tôi cố gắng để tin tưởng cô ấy, một tình huống kỳ quái nào đấy lại xảy đến giữa chúng tôi.
Đôi khi, chúng tôi còn tranh cãi với nhau chỉ vì tôi không chịu ra ngoài nhiều. Tôi hiểu rằng Patsy thích ra ngoài và tham dự tiệc tùng, nhưng, cũng như tôi đã giải thích với cô ấy, tôi không thích hợp với cuộc sống về đêm. Thỉnh thoảng chúng tôi chỉ chấm dứt tranh cãi khi Patsy lao ra khỏi nhà, chỉ quay về khi đã say mèm vài giờ sau đó. Về đến nhà, cô ấy loạng choạng vào nhà tắm nôn thốc nôn tháo. Khi tôi cố gắng dìu Patsy nằm xuống giường thì cô ấy lại lè nhè khóc than nào là không ai yêu thương mình, nào là ai cũng muốn lợi dụng cô ấy. Nhiều lần trước khi ngã lăn ra mê man vì men rượu và kiệt sức, Patsy đã giữ chặt lấy tay tôi, nức nở:
- Đừng rời xa em, làm ơn. Đừng bỏ em. Mọi người đều đã bỏ mặc em….Anh đừng bỏ em. Đừng bỏ em. Làm ơn…
Những lúc ấy, vì lo lắng nên tôi luôn thức trông chừng Patsy cho đến khi cô ấy thiếp đi mới thôi. Có khi cô ấy lè nhè khóc lóc đến gần sáng, vì thế tôi cũng phải thức trắng đêm. Sáng ra, tôi chỉ có thể tắm qua loa, mặc bộ đồng phục bay vào và lái xe nhanh đến chỗ làm để kịp báo cáo cho chuyến bay, lòng thầm cầu nguyện sao cho ngày hôm đó mình đừng mất tập trung mà phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng nào đó trong quá trình làm nhiệm vụ. T
hỉnh thoảng khi đi làm về đến nhà, dù lúc đó trời mới quá trưa hay xế chiều, tôi đều thấy Patsy ngồi đâu đó trong nhà, bối rối trong bộ dạng như vừa mới bước ra khỏi giường ngủ. Điều gì đã khiến cô ấy phải uống đến độ mất khả năng kiểm soát bản thân như vậy? Chắc hẳn phải có một điều gì đó đang hành hạ cô ấy. Tôi biết, mình cũng góp một phần vào điều đó. Mọi chuyện ngày càng trầm trọng. Có lúc tôi cảm thấy nản lòng khi Patsy cứ cố bịa đặt mọi chuyện như thật. Mỗi lần phát hiện cô ấy nói dối, tôi lại thu mình lại, để mặc cô ấy vài ngày. Tôi rất muốn tin câu cửa miệng của cô ấy “Điều đó sẽ không xảy ra lần nữa đâu”, nhưng nhìn những gì cô ấy làm, tôi cảm thấy dường như không còn chút hy vọng.
Việc tìm hiểu thực hư chỉ càng làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn. Mối quan tâm duy nhất của tôi là phải làm sao để chấm dứt vòng luẩn quẩn ấy, vì thật sự tôi rất muốn xoa dịu nỗi đau cho Patsy. Từng chứng kiến cảnh cha mẹ bị hủy hoại ngay trước mắt mình, nên tôi không thể để điều đó lặp lại với bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, dù Patsy có buồn phiền chuyện gì đi chăng nữa, cô ấy cũng luôn muốn lẩn tránh khi lúc nào cũng trả lời tôi: “Ồ, không có gì đâu anh” hay “Em đã cãi nhau với mẹ ấy mà” hoặc “Em gặp lại một người bạn cũ” hay là “Có người chọc ghẹo em thôi mà. Không có chuyện gì đâu, ổn cả mà”.
Sau nhiều tháng thấy không có gì biến chuyển, một buổi sáng nọ, tôi nổi nóng với Patsy:
- Đủ rồi! Chuyện này không ổn rồi! Chúng ta sống với nhau… khi em về nhà trong tình trạng say mèm, anh phải chăm sóc em, đó là việc của anh. Có lúc, anh cảm thấy như em nghĩ đó là bổn phận của anh vậy. Anh biết anh cũng có uống vài ly bia, nhưng anh biết điểm dừng của anh, anh không mất kiểm soát bản thân mình. Em nghĩ sao về những lần anh không thể chợp mắt dù chỉ là vài phút trước khi bay chỉ vì phải chăm sóc cho em? Em có biết nếu không quân phát hiện ra anh bị mất ngủ trước mỗi