Chương 10 NGUỒN GỐC CỦA MỌI CHUYỆN
Mùa hè năm 1987, vài tuần trước ngày thôi nôi của Stephen, tôi xin nghỉ phép và đưa gia đình nhỏ của mình đi chơi xa lần đầu tiên. Điểm đến của chúng tôi là Thành phố Salt Lake, Utah. Vì Patsy cứ than phiền rằng cô ấy như đang bị cầm tù trong ngôi nhà của chúng tôi, và ngạc nhiên làm sao, cô nói mình có mối quan hệ rất tốt với bà ngoại, nên chúng tôi đã quyết định thực hiện chuyến đi này. Tôi đã cố gắng giải thích thật cặn kẽ cho Patsy hiểu rằng bà ngoại có thể là người tỏ ra rất thoải mái qua điện thoại, nhưng ngoài đời bà lại rất thích kiểm soát người khác và khá cay độc, nhưng Patsy không quan tâm. Cô ấy cho rằng tôi bị hoang tưởng. Khi đến nơi, tôi biết bà sẽ khiến Patsy và tôi phát điên, nhưng vì chúng tôi đã cưới nhau và có Stephen, nên bà đã đối xử với tôi hoàn toàn khác trước. Trên điện thoại, bà tỏ ra thích thú khi lắng nghe tất cả những thông tin mới nhất về Stephen. Dù vậy, sâu thẳm trong lòng mình, tôi vẫn vô cùng e ngại vì cái dư âm của lần tôi ghé thăm bà gần nhất.
Còn một bí mật chỉ có tôi biết, đó là tôi có một lý do khác để đến Thành phố Salt Lake. Trong nhiều năm qua, tôi đã luôn thắc mắc, và giờ đây tôi thấy mình đã sẵn sàng. Từng ngày nhìn ngắm Stephen lớn lên, tôi không thể hình dung nổi làm sao mà một con người, chứ đừng nói đến một người mẹ, lại có thể nghĩ ra những phương cách tàn bạo đến vậy để hành hạ và nhục mạ đứa con của chính mình. Dù đã nhiều lần thề sẽ đoạn tuyệt với quá khứ của mình, nhưng giờ đây, với tư cách là một người cha, tôi thấy mình nợ Stephen một câu trả lời.
Vào một buổi sáng tiết trời ấm áp nọ, tôi để Patsy và Stephen ở lại nhà bà và lái chiếc Toyota đến nhà mẹ rồi đậu cách nhà bà ấy vài căn. Trước khi ra khỏi xe, tôi ngừng lại một chút để trấn tĩnh. Tôi liếc nhìn đồng hồ, thấy lòng hơi nôn nao. Tôi vuốt lại tóc. Lần này là lần thứ một trăm trong buổi sáng hôm đó, tôi tự hỏi liệu tôi có thực sự muốn làm chuyện này không. Một phần trong tôi cảm thấy rằng đây là nhiệm vụ bất khả thi. Tôi biết mẹ sẽ không bao giờ ra mở cửa và nói cho tôi nghe lý do vì sao bà lại làm tất cả những điều bà đã làm với tôi. Sau vô số những đau khổ mà mẹ bắt tôi phải chịu đựng, cùng với rất nhiều rượu mà bà đã nốc vào trong suốt những năm qua, hẳn bà chẳng còn nhớ gì về chuyện ấy nữa. Nhưng tôi nghĩ nếu tôi có thể bước ra khỏi căn nhà đó với một chút thông tin, dù chỉ một chút thôi, thì có lẽ cũng đã đủ để tôi cảm thấy mình được tẩy sạch những vết nhơ trong quá khứ. Tôi từng nghĩ nếu tôi có thể bước vào nhà mẹ mà không phải cúi đầu trước bà ấy, nếu tôi chứng tỏ cho bà ấy thấy rằng tôi không phải là một người định kiến, tôi là người sống tự lập, tôi có trách nhiệm… thì lúc ra về, sâu thẳm trong tim mình tôi biết rằng tôi sẽ không còn bị nhìn nhận là một đứa trẻ bị xem như một thứ đồ vật nữa. Nhưng sau nhiều năm nghi ngờ bản thân mình, tôi bắt đầu cảm thấy mình không cần phải chứng minh bản thân với mẹ nữa. Trong tất cả những thử thách dành cho tôi, có thể việc gặp lại mẹ chính là thử thách cuối cùng.
Càng tiến gần về phía nhà mẹ, tôi càng nhận thấy thảm cỏ quanh nhà mới xơ xác và thiếu sức sống làm sao. Còn mấy bụi cây gần đấy thì mọc um tùm và trông như bị bỏ hoang. Giữa những ngôi nhà được chăm sóc cẩn thận trên cùng con phố, ngôi nhà ảm đạm, xuống cấp của mẹ trông nổi bật hẳn lên. Ấy vậy mà nhiều năm trước, nhà của bà ấy là ngôi nhà đẹp nhất phố. - Tôi tự nhủ.
Sau khi gõ cửa, tôi chợt ngửi thấy mùi thức ăn ôi thiu bốc lên kinh khủng. Lúc cánh cửa mở ra, tôi gần như muốn ngã quỵ vì cái mùi nồng nặc ấy. Tôi chưa kịp quay đi thì mẹ xuất hiện với nụ cười bí hiểm.
- Ái chà chà, đúng lúc đấy. Vào đi.
Tôi thoáng bối rối. Nhìn cái cách của mẹ, tôi nghĩ bà đang hành động như thể việc tôi đến gặp bà là một việc xảy ra hàng ngày vậy. Tôi chưa kịp mở miệng chào hỏi, mẹ đã quay lưng đi về phía mấy bậc thang nhỏ. Tôi vừa đi theo bà vài bước, cái mùi hôi khủng khiếp nọ bắt đầu tràn ngập các giác quan của tôi. Tay bịt miệng, tôi đoán rằng mùi hôi đó hẳn phải bốc ra từ chỗ những bậc thang, chúng đã mòn đến mức chẳng còn lại gì ngoài lớp gỗ trơ trụi. Bên trên là một lớp dày phủ kín mà tôi cho rằng đó là lông chó mèo. Mấy bức tường loang lổ những vệt màu vàng nâu sậm kỳ quái, có vẻ như đó là vết tích của việc mẹ thường xuyên hút thuốc trong nhà.
Sau khi đứa em út của tôi là Kevin - giờ đây đã khoảng mười sáu tuổi - tự hào khoe phòng ngủ của nó với tôi, tôi quay về phòng khách và ngồi xuống bên cạnh mẹ. Kevin cứ lảng vảng gần chỗ tôi, trông nó khá hồi hộp khi thấy tôi và mẹ nói chuyện có vẻ căng thẳng. Sau một vài lần thử bắt chuyện, miệng tôi khô đi. Thỉnh thoảng khi mẹ nói một câu gì đó, tôi lại gật đầu. Một bầu không khí căng thẳng và lạnh lẽo bắt đầu tràn ngập căn phòng. Vì một lý do kỳ quặc nào đó, tôi không hề thấy chút sợ hãi hay bị đe dọa nào. Nếu tôi có làm gì, thì đó là tôi không thể không nhìn mẹ chằm chằm. Kể từ đám tang của cha bảy năm về trước, mẹ đã không chỉ tăng cân rất nhiều, mà gương mặt bà giờ đây trông như một tảng thịt núc ních, nhăn nheo và dai nhách. Những vệt đỏ thẫm trên gương mặt bà nhắc tôi nhớ lại hình ảnh của cha, khi tôi tìm thấy ông tại một quán bar phía bên kia đường của một trạm xe buýt ở San Francisco, trong một chuyến thăm trước khi tôi gia nhập không quân. Những ngón tay của mẹ sưng vù lên, và cứ vài giây chúng lại co giật một lần. Tôi bồn chồn cựa quậy trên ghế, cố gắng nghĩ ra điều gì đó để nói. Nhưng vẻ ngoài của mẹ đã nói lên tất cả. Những năm tháng đầy thù hận của bà đã khiến bà trở thành một con người tan vỡ và cô độc. Bất cứ ưu thế nào mà mẹ từng vung vẩy trước người khác như một thanh gươm, cho phép bà làm tổn thương bất cứ ai vào bất cứ lúc nào bà muốn, giờ đã hoàn toàn biến mất.
Mỗi lúc một thấy chán ngán, Kevin ra khỏi phòng, xuống cầu thang và chuồn khỏi nhà. Trước khi cửa ra vào đóng lại, mẹ chợt ngẩng đầu lên. Bà đảo mắt nhìn quanh như thể đang kiểm tra xem có đúng là trong nhà không còn ai khác nữa không. Bà lầm bầm:
- Mẹ muốn con biết rằng, đó là một tai nạn.
Đây là lần đầu tiên kể từ cái ngày tháng Ba năm ấy, cách đây mười bốn năm về trước, trước khi tôi được giải thoát, tôi mới ngồi một mình với bà như thế này. Điều này khiến tôi cảm thấy mình yếu ớt một cách kỳ lạ. Tôi không thể tin được rằng tôi thật sự đang ngồi cách một người đã từng cố giết tôi có hơn một mét. Câu nói của mẹ lướt ngang qua tâm trí tôi.
- Gì kia? - Tôi hỏi lại. - Tai nạn á?
Mẹ ngồi nhỏm dậy, như thể bà đã hết kiên nhẫn với tôi. Bà lên giọng:
- Mẹ muốn con biết rằng đó là một tai nạn!
Bà gật đầu ra vẻ tôi nên hiểu cái thông điệp đã được mã hóa ấy của bà. Tôi chỉ còn biết gật đầu đáp lại. Tiếp sau đó là một sự im lặng quái đản. Tôi nhướn mày, cố gắng ra hiệu để mẹ giải thích thêm, nhưng bà chỉ nhếch mép cười. Đột nhiên có cái gì đó vỡ òa trong tôi. Vào một mùa hè cách đây nhiều năm trước, khi mà tôi vẫn còn là một đứa bé, trong cơn thịnh nộ, mẹ đã giật lấy con dao và dọa giết tôi. Lúc đó, khi biết rõ bà đang say và nhìn thấy cánh tay bà vụt lia lịa, tôi mới biết những gì bà nói hoàn toàn không phải để dọa. Giờ đây, khi ngồi trước mặt mẹ, tôi có thể hình dung lại nỗi kinh hoàng trong mắt bà khi bà để con dao tuột khỏi tay trước khi đâm thẳng vào tôi. Nhớ lại lúc đó, chẳng hiểu sao tôi vẫn nghĩ rằng mẹ chưa bao giờ có ý định giết tôi. Tôi đã luôn cảm thấy rằng đó chỉ là một trong những “trò chơi” đã đi quá xa của bà.
Tôi cố trấn tĩnh và chồm người tới trước.
- Phải. - Tôi nói. - Một tai nạn! Con biết mà, con luôn biết là mẹ không có ý… giết con.
Khi tôi nói những lời đó, tôi có thể hình dung rõ cảnh một đứa trẻ nằm bất tỉnh trên sàn bếp loang lổ máu, máu cứ chảy tràn ra từ ngực, trong khi mẹ nó đứng kế bên, chùi tay như thể chẳng có gì xảy ra. Lúc ấy tôi đã tin rằng cú đâm sẽ khiến mẹ sốc và bừng tỉnh để thoát khỏi cơn điên loạn đầy thù hận của bà. Vết thương của tôi sẽ biến người mẹ quỷ dữ thành một người mẹ đầy yêu thương theo như lời cầu nguyện của tôi. Chỉ khi đó thì “gia đình” mới được hàn gắn lại, giống như một cái kết trong chuyện cổ tích vậy.
Giờ đây, ngồi cùng mẹ trong phòng khách tồi tàn của bà, tôi tự hỏi vì sao tôi vẫn luôn cảm thấy đau buồn vì bà. Mỗi khi nghĩ về mẹ, tôi lại thấy mình luôn cố gắng chứng tỏ với bà rằng tôi không phải là một đứa trẻ quái vật hư hỏng đáng bị kỷ luật, những điều mà mẹ đã khoan vào đầu tôi trong suốt nhiều năm trời, mà tôi là một người xứng đáng với những giá trị riêng của mình. Vì quá tự ti, ngay cả trong trại trẻ mồ côi, tôi vẫn luôn cố gắng tìm hiểu xem tôi có thể làm gì để chứng minh bản thân mình với mẹ, cố gắng đạt được một điều gì đó thật phi thường để những vết nhơ thời thơ ấu của tôi được tẩy sạch. Khi thành người lớn, tôi nhận thức một cách đầy đủ rằng tôi là một người hài lòng với cuộc sống của chính mình và sống không phụ thuộc vào ai. Tôi không chỉ thay đổi từ một đứa bé sống không khác gì một con vật để trở thành một người trưởng thành có ích, có gia đình, một thành viên của không quân, mà tôi còn là cha của một đứa con trai tuyệt vời, đứa con tôi đã tắm táp cho nó bằng tình yêu thương thực sự không toan tính. Tôi biết mình vẫn còn một chặng đường dài cần phải vượt qua, nhất là trong khía cạnh niềm tin nơi bản thân và con người. Những nỗi xấu hổ từ quá khứ vẫn khiến tôi hoài nghi bản thân. Đặc biệt là mỗi khi phải đứng trước mặt mẹ, một phần trong tôi cảm thấy rằng mình là nguồn gốc của những hành vi sai trái, là một kẻ thất bại xấu xa. Chỉ một dấu hiệu nhỏ của mẹ cho thấy bà chấp nhận tôi thôi cũng đủ khiến tôi tự tin hơn với giá trị bản thân mình rất nhiều.
Dù vậy, khi ngả người tựa vào ghế, tôi nhận ra rằng mình đã không sai. Tôi không phải là nguyên nhân khiến mẹ làm những điều đó với tôi. Tôi không ép buộc, chứ đừng nói đến việc khiêu khích bà đâm tôi. Và giờ đây, mười sáu năm sau ngày xảy ra cái tai nạn ấy, mẹ vẫn không hề xin lỗi tôi vì việc đó, hay vì bất cứ hành động ngược đãi nào khác mà bà đã bắt tôi phải chịu đựng trong suốt những năm tháng kinh hoàng ấy. Thế mà giờ đây, mẹ nói cứ như thể bà chỉ là nạn nhân của mọi chuyện vậy.
Vậy là rượu chè và những con say túy lúy không hề xóa hết ký ức của mẹ - bà biết chính xác mình đã làm những gì. Nếu việc mẹ khơi lại chuyện đó không phải là cách để bà tìm kiếm sự tha thứ thì tôi cũng chẳng thấy bà tỏ ra hối hận về những gì mình đã làm. Nếu đúng như thế, liệu mẹ có thực sự phải hứng chịu một sự trừng phạt nào đó hay không? Liệu câu nói của bà có đang bộc lộ một chút tình yêu nào chăng? Liệu bà có quan tâm không? Giá mà tôi có thể bóc trần những lớp vỏ của sự thù hận trong con người bà…
Hết sức chân thành, tôi nhẹ nhàng dò hỏi:
- Điều gì đã xảy ra vậy?
Nhưng mẹ chưa kịp trả lời, tôi đã liên tiếp hỏi dồn:
- Tại sao lại là con? Ý con là, con đã làm gì để khiến mẹ ghét con đến thế?
- À thì… - Mẹ hắng giọng trước khi ngẩng lên trả lời tôi. - Con phải hiểu, ‘Nó’ rất hư, David ạ.
Lời giải thích dửng dưng của bà như treo lơ lửng giữa không trung. Tôi lắc đầu như thể không nghe thấy bà nói gì. Tôi cố ý muốn mẹ lặp lại lời bà vừa nói để bà biết chính xác mình vừa nói gì. Với một vẻ căng thẳng gượng gạo, mẹ lặp lại lời biện minh của mình, nhấn mạnh hơn chữ “Nó” và “David”, như thể chúng là hai thực thể khác nhau. Tôi sửng sốt đến độ không thể nói được gì. Những lời ngụy biện tiếp theo của mẹ càng khiến tôi thêm bối rối.
- David, “Nó” luôn ăn trộm thức ăn. “Nó” đáng bị phạt. Những đứa khác đã làm phần công việc nhà được giao, và Mẹ sẽ cho “Nó” ăn khi “Nó” đã làm xong phần việc của mình … nhưng… “Nó” luôn giở trò ăn trộm thức ăn.
Mẹ gật đầu ra hiệu với tôi, như thể tôi nên đồng ý với bà.
- Khi con nghĩ thấu đáo, thì điều đó thực sự không khó hiểu lắm đâu, David.
Trong suốt nhiều năm, tôi luôn tin rằng nếu tôi đứng trước mặt mẹ với tư cách là một người đã trưởng thành, thì cuối cùng bà sẽ phải hiểu được mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Tôi chưa bao giờ có ý định trả thù. Một phần trong tôi còn cảm thấy hơi nao lòng khi nghĩ đến lúc mẹ nhận thức được mức độ nghiêm trọng của những hành động của mình, bà sẽ lên cơn đau tim. Vậy mà ngay lúc này đây, mẹ đang cẩn thận giải thích một cách duy lý những hành động của mình, bảo vệ mình bằng từng từ một, và việc đối xử với “Nó” của bà ấy có vẻ như không gì khác ngoài việc một người mẹ đang phạt đứa con không vâng lời; việc trù dập “Nó” không chỉ chính đáng, mà còn cần thiết nữa.
- Nhưng tại sao lại là con? Con có thực sự hư hỏng đến thế không? Con đã làm sai điều gì nghiêm trọng lắm sao?
- Ôi, làm ơn đi. - Mẹ nói. - Có thể mày không nhớ, nhưng mày đã luôn gây rắc rối trong mọi chuyện. Mày không bao giờ chịu nín cái tiếng ăng ẳng của mình lại. Từ đầu kia căn nhà tao luôn có thể nghe tiếng mày la thét, nhiều hơn Ron và Stan. Mày có thể không nhớ, nhưng mày từng là một đứa rất lắm trò.
Những gì mẹ nói khiến tôi nhớ lại hồi tôi bốn tuổi, tôi đã sợ mở miệng nói như thế nào. Khi chơi đùa với hai người anh của tôi trong phòng, nếu tôi trở nên quá phấn khích, Ron sẽ bịt miệng tôi lại để giọng của tôi không vang lớn lên. Nếu để mẹ nghe thấy tiếng tôi hét, tôi sẽ phải trả giá. Tôi sẽ đứng cúi gằm mặt trước mẹ, im lặng và chờ mẹ cho phép mới được mở miệng nói. Ngay cả khi muốn vào nhà vệ sinh, tôi cũng không được phép mở miệng.
Có những lúc tôi chưa kịp mở miệng xin phép bà, bà đã búng tay tanh tách thay cho một lời cảnh báo, giống như tôi là một con vật nuôi trong nhà cần phải được huấn luyện vậy. Có khi chịu hết nổi, tôi chụm hai đầu gối vào nhau, cả người cứ thót qua thót lại rồi tè luôn ra quần; điều này càng khiến bà thêm điên tiết.
Liệu ban đầu đó có phải là cách để mẹ kỷ luật tôi không? Có thể tôi đã quá nghịch đến mức bà không thể chịu nổi nữa. Mẹ có thể dễ dàng chọn Ron hoặc Stan; điều đó không thực sự quan trọng. Có thể mẹ chỉ chăm chăm hành hạ tôi vì một điều đơn giản, chẳng hạn như cái âm thanh the thé như chọc tức trong giọng nói của tôi mà thôi.
Tất cả những gì tôi có thể làm là nghĩ đến Stephen. Lúc ấy, hình ảnh đứa trẻ nằm sóng soài trong vũng máu trên sàn bếp năm nào bỗng trở thành đứa con trai của tôi. Nhìn thấy phản ứng của tôi, hai mắt mẹ ánh lên sự hài lòng. Một lần nữa tôi đã lại để cho bà chà đạp lên cảm xúc của mình.
Tay ép chặt dưới hai chân, tôi chỉ muốn nhảy chồm lên và thét vào gương mặt đáng kinh tởm của mẹ: “Bà thật là đồ bệnh hoạn, độc ác! Tôi chỉ là một món đồ chơi của bà! Một tên nô lệ làm theo mệnh lệnh của bà! Bà đã hạ nhục tôi, tước đi tên gọi của tôi, và tra tấn tôi đến gần chết, bởi vì… bởi vì giọng của tôi lớn quá ư?”.
Tôi thở khò khè nặng nhọc và tiếp tục ghìm cơn giận lại bên trong. Tôi tiếp tục thổn thức với chính mình.
“Bà có thấy rằng tôi có thể làm gì với bà, vào ngay giây phút này hay không? Tôi có thể siết chặt hai bàn tay mình quanh cái cổ sưng phù của bà và rút hết sự sống ra khỏi cơ thể bà. Hay tôi có thể khiến bà phải chịu đau đớn một cách từ từ, từ từ thôi. Tôi sẽ không giết bà ngay, mà sẽ tước đi những thứ thiết yếu nhất đối với sự tồn tại của bà. Tôi có thể làm điều đó. Tôi thực sự có thể làm điều đó.”
Tôi sẽ bắt cóc mẹ, đưa bà tới một cái khách sạn tồi tàn nào đó, nhốt bà vào trong một căn phòng, và lấy đi của bà tất cả những thứ bảo đảm cho một cuộc sống bình thường - thức ăn, nước uống, ánh sáng, hơi ấm, giấc ngủ, sự liên lạc với những người khác; tôi sẽ biến cuộc đời của bà ấy thành địa ngục. Sau đó, tôi có thể nói với cảnh sát rằng… Tôi đã mất kiểm soát… vì một cú chấn thương tâm lý sau khi bị đối xử quá tàn tệ hồi còn nhỏ. Dù chỉ một lần thôi, tôi có thể vứt bỏ mọi thứ và… trở thành một người giống như bà ta.
Tôi thấy lạnh sống lưng. Lạy Chúa! Tôi tự cảnh cáo mình. Cổ tay tôi bắt đầu run rẩy, tôi tự hỏi, mình điên rồi sao? Hay những suy nghĩ của tôi là hoàn toàn bình thường sau những gì tôi đã trải qua? Bỗng nhiên tôi hiểu ra: đó là một sợi xích, một sợi xích kết nối tôi và mẹ - một con người dù vì bất cứ lý do gì đã trở nên bị ám ảnh với quá nhiều sự phẫn nộ, mà qua thời gian cảm xúc nhất thời đã trở thành một khối u, tự truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác… Rồi tôi nghĩ đến đứa con trai của mình. Tôi có trở thành người mà tôi khinh thường nhất?
Tôi nhắm mắt lại, xóa sạch cái ý nghĩ trả thù và gạt bỏ tất cả cảm xúc thù hận mà tôi dành cho mẹ. Tôi không thể tin nổi mình lại phẫn nộ đến thế. Hít một hơi thật dài và sâu, tôi cố gắng tỉnh táo lại trước khi ngẩng mặt lên và nhìn thẳng vào mắt mẹ. Vì sự thanh thản của chính tôi, tôi tự nói với mình: “Tôi sẽ không bao giờ giống như bà”.
Với tôi, trông mẹ giờ đây mới khác lạ làm sao. Hồi còn bé, tôi thấy bà như một nàng công chúa, bà khiến tôi liên tưởng đến nàng Bạch Tuyết. Tôi nhớ nụ cười rạng rỡ, giọng nói hiền từ và mùi hương trên mái tóc của mẹ khi bà ôm lấy tôi trong vòng tay vào thời kỳ trước khi tôi đi học. Tôi đã nhìn thấy vầng hào quang tỏa ra từ mẹ khi bà cười, khi Ron, Stan và tôi tranh nhau để được bà để mắt đến. Thế mà giờ đây, mẹ đang ngồi co ro, vòng bụng của bà phì nộn trên cái ghế hẹp. Quá khứ đã đuổi kịp bà, cũng giống như cha nhiều năm về trước. Những ngày này, cuộc đời bà chỉ bao gồm những thứ mà bà nhìn thấy trên ti vi. Hình thức điều khiển của bà giờ đây là một miếng nhựa dùng để chuyển kênh đến thế giới của bà. Cái ánh sáng từng giữ cho tâm hồn bà được chiếu rọi giờ đây đã tàn lụi. Mẹ đã trở thành tù nhân của chính mình. Bất cứ tai họa nào mà tôi mong sẽ xảy đến cho bà cách đây ít phút cũng không thể sánh được với cái nhà tù do chính bà tạo ra.
Mẹ đổi giọng, khiến tôi choàng tỉnh.
- Con có thể không nghĩ như thế khi nhìn ta, nhưng ta và con có rất nhiều điểm giống nhau đấy.
Tôi lắc đầu:
- Bà nói gì kia?
Mẹ dường như phải cố gắng lắm để kiểm soát tiếng thở khò khè của mình:
- Mày nghĩ là cuộc đời này quá dễ dàng, mà chuyện đó thì… - bà gắt gỏng, - trước khi tao có thai Ron, tao đã bị sẩy thai.
Bà đột ngột dừng lại, như để những lời nói của bà ngấm sâu hơn. Vì không biết bà đang nói thật lòng mình hay lại đang cố gắng tạo ra một tấn bi kịch khác, tôi chẳng biết phải phản ứng thế nào nữa. Đột nhiên gương mặt bà tím đen lại:
- Mày nghĩ cả thế giới này xoay quanh mày! David, David, David! Tất cả những gì tao nghe thấy trong suốt nhiều năm là David thế này, David thế nọ, “Hãy cho thằng bé ăn đi”, “Đừng phạt thằng bé”, mỗi ngày, kể từ ngày mày sinh ra đời! - Cơn giận mỗi lúc một bốc cao, mẹ chỉ tay vào mặt tôi. - Và để tao nói cho mày biết điều này: chính đám giáo viên đó, đám giáo viên ở trường, đã chõ mũi vào chuyện riêng của tao! Đó không phải là việc của lũ khốn kiếp ấy! Chuyện nhà ai nấy lo! Nhưng nói cho mày biết, tao đã dạy cho đám giáo viên lông bông của mày, mà cụ thể là cái con Moss ấy, một bài học. Tao đã khiến cho con mụ ấy bị đuổi khỏi trường. Mụ ta đã biến khỏi nơi đó quá nhanh, nhanh đến mức mày sẽ nghĩ việc đó khiến cho đầu mày xoay mòng mòng ấy chứ.
- Mày không nhớ đâu, - mẹ lại tiếp, - nhưng khi mày sáu tuổi, hay có thể là bảy, một ngày nọ, mày chơi quẹt diêm và… mày đã tự làm bỏng tay mình. Tao đã dặn mày cả nghìn lần rồi mà mày có chịu nghe đâu. Và thế là một ngày nọ, mày xuất hiện ở trường với vài vết bỏng trên tay. Và con mụ Moss, cô giáo của mày, đã cả gan buộc tội tao là… coi nào, hai ta đều biết chuyện gì đã xảy ra, có phải không nào?
“Khá rõ,” - tôi tự nói với mình. Trí nhớ của mẹ đã lệch đi hai năm. Khi đó tôi tám tuổi, và mẹ đã đốt tay tôi trên bếp lò. Ngày hôm sau khi đưa tôi đến trường, bà nói rằng “thằng nhóc” đã nghịch với diêm. Thậm chí ngay cả trước đó, mọi người đều biết sự thật về hoàn cảnh của tôi. Nhưng chẳng hiểu sao mẹ lại tin rằng bà ấy không chỉ có thể che giấu được bí mật của mình, mà còn có thể đánh bại được bất cứ ai dám thách thức quyền hạn của bà.
- Và còn cái lão hiệu trưởng chết tiệt của chúng mày nữa chứ, cái lão Pete Hanson ấy, lão gọi tao mỗi ngày! Đến mức mà mỗi lần chuông điện thoại reo lên thì tao có thể biết ngay đó là ai. Tao phát khiếp việc phải nhấc máy lên. Lúc nào cũng vậy, không chuyện này thì chuyện khác. Nào là thằng con trai của bà đã làm thế này thế kia. Thằng bé đã đánh nhau, giật tóc đứa khác, ăn trộm thức ăn, quần áo, hay bất cứ thứ gì nó có thể chạm tay vào. Mỗi ngày. Thế đấy, việc này ngày càng tồi tệ, đến nỗi đã khiến cho một người bắt đầu chìm đắm vào rượu chè. Không phải tao là người làm cho đời mày tồi tệ đâu, mà chính là đám giáo viên khốn kiếp đó! Lúc nào cũng tọc mạch, lúc nào cũng chõ mũi vào việc của người khác. Chính là bọn chúng! - Mẹ phát biểu hùng hồn như thể cả cuộc đời của bà phụ thuộc vào câu nói này.
- Mày nghĩ mày là người duy nhất gặp rắc rối ư? - Mẹ tiếp. - Mày không biết đâu. Việc một tay nuôi dạy bốn đứa con trai chúng mày không hề dễ dàng chút nào, chẳng có lấy một phút ngơi tay, và còn một ông chồng bá vơ đã bỏ mày mà đi nữa chứ. Tin tao đi, tao có thể nói cho mày nghe nhiều điều về ông già của mày!
- Đừng! - Tôi lạnh lùng cắt ngang. Tôi hạ giọng xuống và nói: - Ông ấy là chồng bà. Bà thậm chí không hề đặt chân vào bệnh viện thăm ông ấy lấy một lần, dù chỉ một lần thôi, hay ít nhất là gửi cho ông ấy một tấm thiệp. Bà đã chẳng làm gì cả.
- Ối giời! - Mẹ nói. - Tao chẳng nhẫn tâm đến thế đâu. Ông ấy đã muốn tao… đón ông ấy về nhà, thậm chí từ trước khi ông ấy đăng ký vào nằm ở bệnh viện Kaiser cơ. Thậm chí chúng tao còn dùng bữa trưa nữa kia đấy. Ông ta thực sự còn van xin tao nữa cơ.
- Bà thích việc đó, phải không? - Tôi buột miệng nói trước khi kịp suy nghĩ. Dường như tôi không thể kiềm chế thêm được nữa. Tôi nghĩ chỉ thêm một nhịp thở nữa thôi, là tôi sẽ bùng nổ và trút tất cả cảm xúc đã kìm nén bấy lâu trong lòng tôi với mẹ, nhưng rồi tôi đã kìm lại được. - Bà phải biết là ông ấy đã tìm đến bà. Ông ấy thì ốm đau còn bà thì bắt ông ấy van xin bà ư?
- Ôi trời, làm ơn đi! Tao nghe đủ mấy chuyện kệch cỡm đó rồi. Tao đã nói với cha mày, và giờ tao đang nói với mày đây: Tao sẽ không bao giờ đón ông ta quay về, cho dù có đổi lấy tất cả trà của Trung Quốc đi chăng nữa. Mày không biết đâu… - Mẹ lại tiếp tục nói quanh co.
Mẹ không hề biết rằng, vài tuần trước khi gia nhập không quân, cái ngày mà tôi niêm phong lý lịch của mình, vị viên chức quản lý của tôi, Gordon Hutchenson, đã cho tôi vài giờ để đọc hết những hồ sơ của mình, chúng được chia thành hai xấp khác nhau, mỗi xấp dày hơn hai tấc. Tôi đã dành ra cả ngày để xem lại rất nhiều giấy tờ của Hạt, nhiều hồ sơ khác nhau, và thậm chí cả những bản ghi chép của tòa nữa. Một bản báo cáo nói rằng, sau khi tôi bị chuyển đi, một người làm công tác xã hội đã cố gắng đến gặp mẹ vài lần, đến mức cô ấy phải nài nỉ mẹ ra mở cửa. Tất cả những nỗ lực của Hạt đều gặp phải vô vàn lời viện cớ của mẹ, cho đến khi bà ta đi quá giới hạn và bắt đầu đưa ra những lời hăm dọa. Một lần, bà ấy đã dập cửa vào mặt của người làm công tác xã hội nọ rồi phá lên cười ha hả. Hồi đó, vì còn là một cậu bé mới lớn, nên khi được đọc qua bản báo cáo, tôi cũng không thể tin được những trò trơ tráo của bà ấy, và làm sao bà ấy lại có thể thoát khỏi mọi lời cáo buộc. Tôi quay sang ông Hutchenson, hỏi ông làm sao mà mẹ có thể không bị trừng phạt khi Hạt đã quyết định nhúng tay vào, sao họ không giải cứu các anh em tôi, sao không bắt giữ mẹ và đưa bà đi điều trị tâm lý. Tôi không phải là đã cạn tàu ráo máng, nhưng tôi cảm thấy rằng nếu bất cứ ai ở trong tổ chức xã hội nói cho các anh em tôi nghe việc tôi đã bị sỉ nhục như thế nào trước khi tôi được đưa vào trại trẻ mồ côi, thì họ đã không phải sống trong một cái địa ngục như tôi lúc trước.
Gordon đã nói với tôi rằng, “Tôi đồng ý với cậu, David ạ, nhưng hồi năm 1973 thì mọi thứ rất khác với bây giờ; mẹ cậu chưa bao giờ phải ra hầu tòa cả. Chúng ta không thể buộc tội bà ấy cố ý gây thương tích cho người khác, hành hạ đánh đập trẻ con, hay, theo đánh giá của tôi, là tội cố sát được. Cậu hiểu chứ, không có PCs(1) để bảo vệ trẻ con hồi năm 1973 đâu. Thậm chí giờ đây, khi chúng ta đang bước vào thập niên 80, vẫn còn có đa số người dân chối bỏ hoàn toàn những lời buộc tội hay tin rằng những bậc cha mẹ chẳng làm gì khác ngoài “kỷ luật” con cái họ. Hãy tin tôi đi, toàn bộ sự việc này sẽ khiến chúng ta phải trả giá - những đứa trẻ này rồi sẽ lớn lên, hoành hành khắp nơi, phá hoại mọi người và mọi thứ, tự hủy hoại chính mình, đánh đập con cái chúng như chúng đã từng bị đánh đập; rồi sau cùng, khi chúng đối mặt với sự phán xét, những người này sẽ đổ lỗi cho xã hội, hay biện hộ rằng chúng làm thế vì từ khi còn là những đứa trẻ thì chúng đã bị ngược đãi rồi, và điều này dĩ nhiên là đã khiến chúng trở thành những con người như hiện nay. Đó là lúc mà sẽ có một sự phản đối kịch liệt xuất phát từ phía xã hội để thay đổi luật pháp nhằm bảo vệ những đứa trẻ như cháu. Hãy nhớ lấy lời ta đây, điều đó sẽ xảy ra. Chúng ta đã vượt qua được một chặng đường dài, nhưng chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phía trước”.
“PCs là cái gì?”, tôi hỏi.
“Bộ luật hình sự. Đó là lý do vì sao chúng ta không thể đón các anh em của cháu đi hay thậm chí là cảnh cáo mẹ cháu bằng một hình phạt nhẹ nào đó. Thế nên về thực chất, như cậu nói, bà ấy chẳng hề bị trừng phạt gì hết. Nhưng mặt khác, vì có những trường hợp như cậu, nên giờ đây đã có những điều luật về việc báo cáo những vụ ngược đãi, đánh đập và hành hạ trẻ. Rất nhiều chuyện đã xảy ra trong vòng sáu năm trở lại đây, kể từ khi cậu được “đặt vào chỗ thích hợp”. Ngày nay mẹ cậu sẽ bị trừng phạt đến nơi đến chốn vì những hành động của mình.”Gordon đã nhấn mạnh như thế.
Khi tìm hiểu kỹ hơn mớ hồ sơ đó, và đọc đến một đoạn phỏng vấn hiếm hoi mà mẹ đã thực hiện trước khi phiên tòa của tôi được đưa ra xét xử, tôi tình cờ thấy một văn bản của tòa nói rằng một trong những lý do mà mẹ “có thể” đã trở nên quẫn trí là bởi vì chồng của bà đang ngoại tình với một trong những người bạn thân nhất của bà. Mẹ còn biện hộ rằng bà đã gặp rất nhiều khó khăn vì phải cáng đáng toàn bộ công việc nhà khi chỉ còn lại có một thân một mình và nuôi dạy bốn đứa con trai - và bản báo cáo đã chỉnh lại thành năm đứa. - Mẹ nói trong bản báo cáo rằng việc sống quá đơn độc và không có ai chia sẻ những khó khăn đã khiến cho sức chịu đựng của bà vượt quá giới hạn và dẫn đến những việc mà bình thường bà sẽ không bao giờ làm.
Ngay lúc này đây, khi đã là một người trưởng thành, tám năm sau khi đọc những giấy tờ đó, tôi vẫn không thể nào hiểu được làm thế nào mà cha tôi lại có thể ngoại tình. Là một người trưởng thành, tôi hiểu một cách trọn vẹn rằng không ai có thể làm được tất cả mọi thứ. Cho nên, khi mẹ tiếp tục đóng vai một nạn nhân không ai cứu vớt trong cái vở bi kịch cuộc đời không bao giờ chấm dứt của bà, tôi cảm thấy lời buộc tội về một sự ngoại tình chỉ là một cái cớ độc địa khác mà bà đã nảy ra trong đầu mình trong suốt nhiều năm qua.
- Mày vẫn không biết tao đã phải trải qua những gì. - Mẹ lại nói, nhưng lần này là với cặp mắt đỏ hoe. - Mày nghĩ là mày đã phải trải qua những điều tồi tệ lắm ư? Này, - bà gắt lên, - thời của tao ấy, mẹ tao, cái con người mà mày đang sống cùng ấy, nói sao nhỉ… khi tao còn là một đứa bé gái, bà ấy… bà ấy đã nhốt tao trong kho suốt nhiều giờ liền. Đúng thế đấy! Đúng là bà ta đã làm thế đấy! - Mẹ vừa thốt lên vừa chực òa khóc. - Và có lúc bà ta không cho tao ăn gì cả… trong nhiều ngày liền. Hồi đó đâu có giống như bây giờ, bọn trẻ đi học ở trường làm gì có được suất ăn trưa. Và nếu như thế vẫn còn chưa đủ, thì mày nên biết thêm điều này. Không có một ngày nào, không một ngày nào trôi qua mà bà ngoại mày không sỉ nhục tao, sai phái tao làm cái này cái nọ, bảo tao phải làm việc gì và khi nào thì làm; tao nên chơi với ai, được phép hay không được phép mời người bạn nào ghé nhà chơi. Mẹ tao đấy! - Bà gào lên. - Mẹ ruột của tao đấy! Mày có thể tưởng tượng được không hả?
Tôi chống cằm, gật đầu. Thực ra tôi có thể hiểu được những điều mẹ đang nói. Khi mẹ khóc, trông bà như đã lạc vào dòng xoáy của thời gian, bà đang sống lại những giây phút đáng sợ dưới tay của bà ngoại tôi. Tôi không thể không nghĩ rằng nếu những gì mẹ nói là đúng sự thật, thì sau này mẹ đã làm chính những điều đó với tôi, nhưng trong một khoảng thời gian kéo dài hơn và bằng những phương cách đầy ám ảnh và thù hận hơn nhiều.
Một phần trong tôi cho rằng những giọt nước mắt của mẹ chỉ là nước mắt cá sấu, nhưng theo một cách kỳ lạ nào đó thì lời thú nhận của bà rất có ý nghĩa. Từ những gì tôi được biết, những người như mẹ ngược đãi con cái của họ theo chính cái cách mà họ đã bị ngược đãi; bằng cách đó họ đã trở thành sản phẩm của môi trường sống của mình.
Nhưng chỉ vài năm trước, mùa hè năm 1983, khi tôi ghé thăm bà ngoại, bà cứ khăng khăng nói rằng bà không hề đối xử tệ bạc gì với mẹ khi mẹ còn bé cả. Liệu có thể nào, tôi nghĩ thầm, do bà ngoại hoặc do tiêu chuẩn xã hội của thời bà sống, nên việc đó không phải là ngược đãi mà chỉ đơn giản là những hình thức kỷ luật nghiêm khắc?
Trừ khi, - tôi tự nhủ, - mẹ đủ láu cá và xảo quyệt để dựng lên một câu chuyện kinh khủng đến như thế về thời thơ ấu nhằm đổ lỗi cho bà ngoại và rũ sạch mọi lời cáo buộc.
- Bà biết đấy, - tôi nhẹ nhàng chen vào, - tôi đã nói chuyện với bà ngoại, và… tôi không có ý đổ lỗi cho ai cả… nhưng bà ấy cứ khăng khăng là chưa từng ngược đãi bà, dù dưới bất kỳ hình thức nào.
- Ối giời. - Mẹ đảo mắt và bật ho khù khụ. - Hãy nhìn lại nguồn gốc mọi chuyện đi nào. Mày biết bà ấy thế nào rồi đấy. Mày sẽ tin ai đây?
“Nguồn gốc mọi chuyện”, tôi lặp lại cụm từ đó với chính mình. Hãy nhìn lại nguồn gốc mọi chuyện. Vào khoảnh khắc đó, tôi không chắc ai làm điều gì với ai và vì cái gì. Được rồi, tôi nghĩ, có thể bà ngoại đã quá độc đoán. Khi ông ngoại mất và để lại cho bà hai đứa con phải nuôi giữa cơn khủng hoảng, bà ngoại đã buộc phải cứng rắn. Là một cô gái trẻ, có thể mẹ đã đòi hỏi được tự do thoải mái một cách quá đáng, mẹ đã cố gắng thoát ra khỏi sự kiểm soát của bà ngoại, và sau đó trở nên nghiện rượu, kết hôn, có con, trong khi lòng vẫn còn chất đầy thù hận… sự thù hận đã ăn sâu vào tận cốt tủy của mẹ. Tôi lấy ngón tay day hai bên thái dương, lòng bối rối không biết phải nghĩ sao cho phải. Nhưng, tôi lại nghĩ, khi xét đến tận cùng gốc rễ của sự việc thì liệu điều đó có thực sự quan trọng hay không? Điều bận tâm duy nhất của tôi là phải làm sao để mỗi ngày trôi qua đều có ý nghĩa, đồng thời cố gắng trở thành một con người tốt đẹp nhất có thể, và phải đảm bảo rằng con trai tôi sẽ không bao giờ đối mặt với cái gì khác ngoài sự an toàn và tình yêu thương. Chấm hết.
Bất giác tôi nhắm mắt lại và nghĩ đến Stephen. Tôi thấy ánh mắt và mái tóc vàng của con, tôi còn nghe rõ tiếng cười khúc khích của thằng bé. Tất cả như thôi thúc tôi phải nắm bắt lại cái bản chất của hai từ “Mẹ ơi” mà tôi đã luôn ao ước được thốt lên. Tôi muốn quỳ xuống, vòng tay quanh người mẹ, như thể bà ấy vẫn còn giữ một sợi dây gắn kết nào đó với tâm hồn tôi. Và bằng sự tha thứ rộng lượng của tôi, điều này sẽ giải phóng tôi khỏi việc bị trói buộc với quá khứ của mình, giúp tôi chấm dứt giai đoạn kinh hoàng ấy của cuộc đời, mãi mãi.
Tôi tự ngăn mình lại trước khi đầu hàng những cảm xúc ngốc nghếch mà dường như lúc nào tôi cũng muốn bày tỏ. Suốt một thời gian dài, tôi cảm thấy rằng tôi hoặc đã quá cố gắng chứng tỏ bản thân mình, hoặc cứ thúc ép mình làm những chuyện vô ích với một hy vọng hão huyền rằng sẽ có ai đó thích tôi. Cứ như thể sự chấp nhận của người khác dành cho tôi sẽ tạo nên mọi sự khác biệt vậy.
Mặc dù tôi không mang trong lòng sự hận thù hay những cảm xúc tiêu cực nào với mẹ, nhưng việc hít ngửi mùi cái hang ổ của bà, và bị vây quanh bởi những vật thể thuộc về quá khứ chung của chúng tôi, khiến tôi không cảm thấy gì khác ngoài sự hối tiếc dành cho người đã từng là mẹ của tôi.
Tôi đột ngột đứng dậy.
- Cảm ơn vì đã cho tôi ghé thăm… Bà Pelzer. Nét mặt của mẹ thay đổi, như thể bà đang thực sự buồn bã một cách sâu sắc.
- Coi nào. - Bà mỉm cười và nói. - Vì tình nghĩa hồi xưa, hãy gọi ta… hãy gọi ta là Mẹ đi. - Bà gần như van nài.
Tôi không có ý bất kính, nhưng tôi phải có cái gì đó để tự bảo vệ mình. Tất cả những gì tôi có thể làm là chìa tay ra và lặp lại câu nói vừa rồi của mình.
- Cảm ơn, cảm ơn vì đã dành thời gian cho tôi.
- Làm ơn đi mà. - Bà vẫn nài nỉ khi bà nắm lấy tay tôi, nhưng lần này phảng phất chút gì đó cái giọng của một Người Mẹ cách đây nhiều năm về trước. Tôi như ngừng thở. Tôi có thể cảm nhận được những ngón tay của mình run rẩy khi tôi bắt đầu trở nên mê sảng. Một phần trong tôi rất muốn được gục vào vòng tay của bà, nhìn sâu vào đôi mắt bà và ôm bà thật chặt như thể cuộc đời của chúng tôi phụ thuộc vào cái ôm ấy vậy. Rồi một khắc sau, dù hai chúng tôi chỉ cách nhau một cánh tay, tôi biết mẹ và tôi đang sống ở những thế giới hoàn toàn khác nhau.
Với một cái gật đầu nhẹ, mẹ thả tay tôi ra. Mẹ hiểu. Vậy mà tôi vẫn không thể nhúc nhích được.
- Nếu điều này có chút ý nghĩa nào với bà, thì tôi chỉ có thể cho bà chừng này: Chính bà, - tôi nói, chỉ thẳng tay vào mẹ, hai mắt nhòe lệ, - bà đã làm tôi trở nên mạnh mẽ. Bởi vì… bà khiến tôi quyết tâm nhiều hơn.
Mẹ ngoẹo đầu sang một bên. Qua thái độ của bà, tôi biết mình đã chạm đúng vào chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn bà. Mẹ hít vào một hơi thật dài, và tôi có thể cảm nhận được áp lực đang lớn dần lên trong tôi. Nhưng rồi một giây sau, bà để nó trôi qua. Với một cái gật đầu nhẹ, bà đã hiểu lời nói của tôi. Khi tôi bước xuống những bậc thang dẫn ra cửa, mẹ bỗng thốt lên:
- David!
Tay đã đặt lên nắm cửa, tôi quay lại:
- Sao cơ?
- Con có yêu con trai của con không? - Bà ấy hỏi.
Một cảm giác nghẹn ngào dâng trào trong tôi, tôi đáp:
- Có, với từng sợi tế bào trong người mình.
- Hãy nhớ rằng, - mẹ nức nở, - đã từng có lúc ta yêu nó… ta cũng yêu đứa con trai của ta nữa.
Đến khi đã vào trong xe, tôi vẫn không thể ngừng run rẩy. Sống lưng tôi lạnh buốt. Khi đã ra khỏi con phố có ngôi nhà của mẹ, tôi đỗ xe ở một đoạn đường vắng, mở cửa ra và nôn thốc nôn tháo.