Chương 13 ĐIỆU VŨ CUỐI CÙNG
Tôi không mong ngày quay lại Nebraska. Một lần nữa, tôi phát hiện Patsy lại mượn tiền. Gần một năm trước, khi tôi đang ở Ả-rập Xê-út, cô ấy đã nài nỉ mượn tiền bà ngoại. Tôi sẽ không bao giờ biết được chuyện này nếu không hỏi mượn bà ít tiền để đưa cho Kevin, nó đã ngoài hai mươi tuổi và cần tiền để tìm một nơi ở cho riêng mình. Ban đầu bà ngoại cứ khăng khăng bảo rằng trước đây tôi đã mượn tiền của bà mà chưa trả. Khi tôi cố giải thích với bà rằng tôi chẳng biết gì về số tiền ấy cả, thì bà càng giận dữ hơn vì lẽ ra tôi nên biết.
Trong khi đó thì Patsy cứ bồn chồn không yên trên ghế và luôn miệng nói rằng cô ấy chẳng biết gì cả. Nhưng sau cùng thì cô ta òa khóc, bảo là đã quên nói với tôi chuyện này, và rằng giờ đây cô ấy quá bối rối và lúng túng nên không thể nói được gì trước mặt bà ngoại. Trong khi tôi cố gắng bảo vệ vợ mình, thì bà ngẩng mặt kêu trời, thái độ như muốn nói “Bà đã bảo cháu rồi mà”, cứ như thể bà thích thú với việc đổ thêm dầu vào lửa trong mối quan hệ của hai vợ chồng tôi vậy. Lúc đó, tôi cảm thấy mình là một kẻ đáng khinh bỉ, vì các anh tôi và tôi không làm được gì nhiều để giúp Kevin.
Mặc dù đã chuyển đến khu căn cứ không quân mới đã hơn tám tháng, nhưng tôi vẫn đang phải tập thích nghi dần với mọi thứ. Công việc của tôi hoàn toàn khác và rất lố bịch so với hồi còn ở Beale. Giờ đây tôi là một phần của EC-135 Looking Glass chiếc máy bay có nhiệm vụ truyền mệnh lệnh trên không khi có chiến tranh hạt nhân xảy ra. Nhưng ngay cả khi được giao một nhiệm vụ phụ là tiếp nhiên liệu cho những máy bay khác, chiếc EC-135 cũng rất hiếm khi được dùng vào việc này. Tệ hơn nữa, chiếc Looking Glass thật ra đã không còn được sử dụng nữa, nhưng nó vẫn tiếp tục bay “một cách không chính thức”.
Trong quá trình thích nghi, tôi hiểu ra rằng nhiệm vụ quan trọng nhất của tôi với tư cách là một chuyên gia vận hành cần bơm xăng không phải là học cách tiếp liệu trên không cho một chiếc máy bay khác, mà là bảo đảm cho hơn hai mươi thành viên của phi đội đều được ăn trưa đầy đủ và ngon miệng.
Trong chuyến bay kiểm định đầu tiên, tôi mới ý thức được công việc của mình quan trọng đến mức nào khi một viên sĩ quan truyền tin cấp bậc thấp đã mắng xối xả vào mặt tôi trước toàn phi đội, chỉ vì bữa trưa của anh ta không có gói mù tạt. Sau khi hạ cánh, tôi lập tức bị cấp trên của mình khiển trách, và ông ta đã đảo mắt nhìn tôi một cách độc địa như để khích bác tôi vậy. Chỉ trong vài ngày, vì sai lầm của tôi, tất cả các chuyên gia vận hành cần bơm xăng khác đều được giao nhiệm vụ kiểm tra đủ tất cả các món đồ của từng bữa ăn trước khi cất cánh.
Còn về chuyện nhà cửa, sau khi dọn vào ở trong một căn hộ rất đẹp thuộc quyền sở hữu của nhà nước mà chúng tôi không thể mua nổi, Patsy sớm cảm thấy buồn chán. Vì chúng tôi sống bên ngoài căn cứ, nên cô ấy càng cảm thấy mình bị cô lập. Khi tôi biết mình sẽ bị phân công sang nơi khác, tôi đã cầu nguyện rằng lần thuyên chuyển này sẽ buộc chúng tôi phải dựa vào chính bản thân mình nhiều hơn, như một cặp vợ chồng, chứ không có sự can thiệp của “gia đình”. Trên đường đến Nebraska, Patsy cứ huyên thuyên về việc cô ấy sẽ lấy tấm bằng GED(1) và sau đó theo học các khóa học trong trường đại học. Cô ấy có vẻ vô cùng lạc quan. Nhưng chỉ sau vài tuần, Patsy đã than rằng cô thấy nhớ gia đình mình ở California.
Tôi đã nghĩ rằng khi số giờ bay giảm, ngân sách bị giới hạn, tôi sẽ có thể dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, hoàn thành tấm bằng đại học, và thỉnh thoảng tham gia vào một dự án tình nguyện nào đó. Nhưng vì lịch bay cứ liên tục thay đổi, tôi không thể tiếp tục đi học đại học hay tham gia tình nguyện như hồi còn ở California được nữa. Tôi cũng hiếm khi được gặp Patsy và Stephen. Tệ hơn nữa, sau khi được thăng cấp thành sĩ quan kỹ thuật, tôi được bổ nhiệm làm sĩ quan thẩm định chuyến bay, việc này buộc tôi phải làm việc nhiều giờ hơn. Có lúc tôi được về nhà trong một khoảng thời gian rất ngắn, chỉ đủ để chơi bóng với Stephen một chút, tắm cho nó, rồi kể chuyện và dỗ nó ngủ. Có khi tôi mệt mỏi đến độ ngủ thiếp đi bên giường Stephen. Thời gian trôi qua, tôi cảm thấy công việc của mình hoàn toàn chẳng có giá trị gì hết, và rồi tôi bắt đầu thấy căm ghét bản thân mình, cả với tư cách là một người chồng và một người cha.
Mùa xuân năm 1992, lại có những tin đồn về việc sẽ có một đợt cắt giảm nhân sự lớn khác. Nhưng tôi đã tiên liệu trước việc này. Vì chiếc Looking Glass không còn được đưa vào hoạt động nữa và những chuyên gia vận hành cần bơm xăng của chiếc máy bay này không được phép làm công việc của mình, nên tôi nghĩ rằng tôi sẽ là một trong những người đầu tiên bị cắt giảm. Từ trước đến nay tôi luôn hình dung rằng mình sẽ phục vụ trong quân ngũ suốt hai mươi năm cho đến lúc về hưu, nhưng giờ thì điều đó không thể được nữa rồi. Không quân cũng chấp nhận trả một khoản tiền thưởng nghỉ hưu non, nhưng chỉ trong một khoảng thời gian giới hạn mà thôi, và sau một đợt giãn công nọ, họ tuyên bố họ hoàn toàn có quyền sa thải những người mà họ thấy không cần thiết nữa. Xét theo số năm phục vụ và mức lương của tôi, tôi biết mình là ứng cử viên sáng giá cho vị trí này.
Sau nhiều tháng suy nghĩ, tôi đã có một cuộc nói chuyện tâm tình với Patsy. Để không làm cô ấy buồn, tôi cố ý không nói huỵch toẹt vấn đề ra cho cô ấy biết. Tôi bắt đầu:
- Chúng ta phải đưa ra một quyết định. Ừ thì…, không quân, họ sắp thông báo…
- Hãy nghỉ đi. - Patsy đột ngột xen vào. - Công việc của anh chả ra gì, anh không hạnh phúc, em thấy thật khốn khổ. Em ghét nơi này, chả có việc gì cho em làm cả. Stephen cần… cần phải ở bên cạnh gia đình của nó. Hãy gom lấy tiền, tiền thưởng, tiền trợ cấp, và quay về nhà trước khi họ đá đít anh và khiến anh chẳng còn gì ngoài hai bàn tay trắng.
- Được rồi. - Sự bùng nổ của Patsy làm tôi bàng hoàng. - Bao lâu rồi, ý anh là, em biết chuyện này khi nào thế?
Patsy nhướn mày:
- Em biết nhiều chuyện hơn anh nghĩ đấy.
- Chờ đã nào. Còn có những chuyện khác nữa. Nếu chúng ta làm điều này, em cần phải hiểu, ý anh là chúng ta phải ý thức được một cách trọn vẹn rằng điều này có nghĩa là gì. Đó là những khoản tiền mà chúng ta chỉ nhận được một lần rồi thôi; chúng ta sẽ không có tiền dành cho những lúc ốm đau…
- Bao nhiêu? - Patsy hỏi tôi như đánh đố.
- Ừ thì, nếu chúng ta không có những hóa đơn ngoài mong đợi nào cần phải chi trả thì chúng ta sẽ có thể dành riêng ra một khoản để làm chi phí lo cho Stephen vào đại học, và số còn lại chúng ta sẽ dành để mua nhà. Nhưng, - tôi cảnh báo, - nếu chỉ có mình anh đi làm thì…
- Em đã nói với anh rồi, em bị đau lưng. - Patsy nói với vẻ thủ thế.
Tôi xua tay ngắt lời cô ấy:
- Anh không có ý nói như thế. Nhưng hãy nghe này, anh sẽ cần ít nhất là một công việc làm toàn thời gian và rất nhiều giờ làm tăng ca, nếu không nói là hai công việc.
- Vậy là họ sẽ không cho anh nhiều tiền lắm sao? - Patsy hỏi, như thể cô ấy cảm thấy mình bị xúc phạm.
- Theo cách anh nhìn nhận vấn đề, thì họ không phải cho anh một cái gì cả.
- Anh sẽ làm gì?
- Anh đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Anh không thể làm việc toàn thời gian ở trung tâm trẻ vị thành niên được; anh cần một tấm bằng, vì họ không cần những người làm việc trong lĩnh vực hàng không. Nếu gặp may, anh có thể làm việc bán thời gian ở đó. Thời gian này, tìm việc làm rất khó khăn do tình hình kinh tế suy thoái, nhưng… có một lựa chọn…
Tôi dành khoảng thời gian còn lại để kể cho Patsy nghe về một tổ chức diễn giả của địa phương.
- Họ đã thấy anh diễn thuyết vài lần trước đây rồi. Rick và Carl là những người đứng đầu của tổ chức này, họ nghĩ anh có đủ những tố chất cần thiết của một diễn giả. Nhưng đó không phải là một tập đoàn lớn. - Tôi cảnh báo trước. - Nó cũng giống một công việc làm ăn của riêng mình vậy. Công ty sẽ cung cấp cho anh đội ngũ nhân viên hỗ trợ. Anh có thể làm việc bên ngoài phạm vi California, và em biết anh là người thế nào rồi đấy, anh sẽ làm việc cật lực. Trong vòng vài năm, nếu may mắn, có thể chúng ta sẽ có được một ngôi nhà và sống ở bên cạnh bờ sông. Hãy nghĩ về việc này đi, Patsy.
Tôi chồm người tới trước để siết chặt lấy tay của cô ấy.
- Đây là một cách giải quyết vẹn cả đôi đường. Nếu làm việc này, anh sẽ không bao giờ lo bị thất nghiệp. Anh có thể giúp đỡ những đứa trẻ, những người làm việc với bọn trẻ, các tập đoàn, cơ quan, công sở. Anh biết anh sẽ không bao giờ trở thành một diễn giả có khả năng truyền động lực cho người khác, những người em vẫn thường thấy trên ti vi, và anh cũng không muốn trở thành họ. Anh không thể giải thích được, nhưng anh tin bằng cả trái tim mình rằng anh có một thông điệp có thể thực sự giúp đỡ được rất nhiều người. Chúng ta có thể sẽ không giàu có, nhưng ai quan tâm đến chuyện đó cơ chứ? Hãy nghĩ về tầm ảnh hưởng mà ta có thể tạo ra mà xem! Và, - tôi mỉm cười, - họ nói rằng họ sẽ cho xuất bản quyển sách.
- Cái thứ đó ư? Anh đã viết nó được bao lâu rồi? Tại sao việc đó lại quan trọng với anh đến như thế? - Quyển sách đó chắc chắn sẽ thay đổi cuộc đời của nhiều người. - Tôi tuyên bố với Patsy rồi tự nhủ với chính mình: Ngoài ra, đó là một lời hứa mà anh đã hứa nhiều năm về trước.
- Nghe anh nói đây, - tôi lại tiếp. - Anh biết anh đang bắt em phải chịu đựng quá nhiều thứ. Chúng ta vẫn còn lại một chút thời gian. Anh không muốn đột ngột bắt tay vào làm bất cứ chuyện gì khi cả hai chúng ta chưa bàn bạc và đồng lòng với nhau. Đây chỉ là bước đầu tiên trong rất nhiều bước mà chúng ta phải vượt qua. Dù thế nào đi nữa, thì chúng ta cũng không thể giải quyết được mọi chuyện chỉ sau một đêm. Anh rất yêu không quân, nó giống như gia đình thứ hai của anh vậy… nhưng anh nghĩ đã đến lúc anh phải ra đi rồi.
Anh hứa với em điều này: cho dù anh có phải làm hàng chục công việc khác nhau để trả tiền thuê nhà và để chúng ta có cái ăn, anh cũng sẽ làm. Anh sẽ không bao giờ để em và Stephen gặp nguy hiểm. Anh hứa đấy.
Sau khi nghe tôi nói hết, Patsy hỏi:
- Bao nhiêu? Nếu anh đi làm diễn giả, chúng ta sẽ kiếm được bao nhiêu?
Tôi đáp, hơi lưỡng lự:
- Ừ thì, nó cũng giống như em được giao việc vậy. Anh càng tham gia vào nhiều chương trình thì càng kiếm được nhiều tiền. Nhưng sẽ có những thứ chi phí nhất định; anh sẽ đi lại rất nhiều, và anh sẽ phải thực hiện cả những chương trình miễn phí nữa. Nhưng, như anh đã nói rồi đó, sau một vài năm chúng ta sẽ sống tốt thôi. Anh chỉ muốn có một công việc ổn định, thế thôi.
- Còn một chuyện nữa, - Patsy lại hỏi, - tên của quyển sách là gì?
- “Không nơi nương tựa” (tựa gốc: A child called ‘It’).
- Cái tựa sách đó nghe thật buồn thảm. Quyển sách ấy nói về anh, đúng không?
Tôi vẫn cố giấu cô ấy, nên tôi nhún vai và đáp:
- Chỉ cần nghĩ đó là câu chuyện về một đứa bé không bao giờ bỏ cuộc.
Nhìn thái độ của Patsy, bất giác tôi cảm thấy mình đã đánh mất cô ấy. Tôi ngừng một chút trước khi nói tiếp:
- Chúng ta không cần phải quyết định ngay bây giờ, nhưng anh chỉ muốn nói cho em biết mà thôi…
Patsy cười:
- Anh cứ thế mà làm đi! - Patsy cười - Ý em nói là kệ mẹ bọn họ! Hãy lấy tiền và đừng bao giờ ngoảnh lại. Chúng ta sẽ ổn cả thôi. Em biết là anh sẽ lo cho gia đình mình. Quyết định vậy đi! Hãy nghỉ đi!
Tôi nhận được quyết định giải ngũ trong danh dự của không quân vào tháng Tám năm đó. Vì tôi rất muốn sống bên Dòng sông Nga, nên chúng tôi đã quay lại nơi mà tôi đã gặp Patsy lần đầu tiên, ngoại ô Marysville, để cô ấy có thể sống gần gia đình mình. Chúng tôi xin cho Stephen vào học tại một ngôi trường rất tốt và bắt đầu lại từ đầu.
Mùa thu năm 1992, trong khi đang thực hiện một loạt những câu hỏi kiểm tra thông tin cho quyển Không nơi nương tựa, tôi liên lạc với trường tiểu học mình từng theo học và được biết các thầy cô của tôi từng dạy ở đây, trong đó có thầy Ziegler, vẫn còn đang đứng lớp. Thầy đã đề nghị tôi ghé thăm trường. Tôi nghe thấy giọng nói của thầy có vẻ gì đó rất lạ, như thể thầy đang muốn nói cho tôi biết một điều gì đó vậy.
Giờ đây, tôi phải đối mặt với một chuyện hết sức khó khăn, thậm chí còn khó khăn hơn nhiều so với việc bước vào nhà của mẹ, đó chính là quay về ngôi trường cũ của mình. Vào một buổi sáng đẹp trời giữa tháng Mười, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, tôi bước trên sân trường trong dòng cảm xúc khó tả, như thể tôi đang thăm lại mảnh đất thiêng vậy. Mùi thức ăn quen thuộc tỏa ra từ căng tin khiến tôi bất giác rùng mình. Nhiều năm trước, tôi từng nhiều lần lẻn vào đó, rồi bỏ chạy thục mạng sau khi đã trộm được vài cây xúc xích; sau đó tôi sẽ nấp sau mấy cái thùng rác, nhai ngấu nghiến rồi nuốt trợn nuốt trạo để thỏa cơn đói.
Tôi gặp thầy Ziegler khi thầy đang đi cùng các học sinh vào thư viện. Dường như cả hai thầy trò đều hơi lúng túng nên chúng tôi chỉ khẽ bắt tay và chào nhau bằng một câu ngắn gọn. Trong khi nói chuyện với lớp học của thầy, mỗi lần tôi nhìn về phía thầy Ziegler, thầy đều có vẻ như đang lảng tránh tôi bằng cách nhìn xuống đất hay ngó lơ chỗ khác.
Chiều hôm đó, khi hàng trăm đứa trẻ nháo nhào chạy ra khỏi trường để chơi đùa hay về nhà, một thằng bé mặc chiếc áo khoác sờn cũ, rộng quá khổ, rụt rè đến hỏi tôi liệu nó có thể nói chuyện với tôi không. Trong ánh trời chiều ấm áp, tôi nhận thấy cậu bé đang thu tay vào trong ống tay áo và dáng điệu có vẻ bồn chồn. Sau khi trấn an và vỗ về để nó bình tĩnh lại, tôi quỳ xuống và nắm lấy tay nó. Thằng bé bỗng nhiên òa lên khóc rồi kể cho tôi nghe rằng cậu của nó đánh đập nó thế nào và lấy đầu thuốc lá đang cháy dở dí vào cánh tay nó ra sao. Vẫn chưa hết thổn thức vì mọi cảm xúc dồn nén bấy lâu nay được vỡ òa, thằng bé khụt khịt nói:
- Cháu xin lỗi, thưa ngài Pelzer. Cháu không có ý làm mất thời gian của ngài. Cháu không muốn làm cho ai gặp rắc rối cả. Xin hãy làm ơn - thằng bé van nài, - xin ngài đừng nói với ai cả. Xin ngài. Tôi cảm thấy như thể mình đã bước vào cái khung dệt của thời gian. Tôi đã gặp đứa bé giống hệt như tôi thuở nào.
- Nghe chú này, - tôi nói, vẫn nắm chặt tay thằng bé - cháu có nhớ chú đã nói gì về những chuyện đã xảy đến với chú khi chú còn bé không?
Thằng bé dụi nước mắt, quẹt mũi và gật đầu.
- Thế này nhé. Chúng ta cần phải giúp cháu. Chúng ta không muốn làm cho ai gặp rắc rối cả, nhưng đó không phải là cách sống của một con người. Chú nói có đúng không nào?
Thằng bé lại gật đầu. Lúc này đây, tôi lại nghĩ đến cô Gold, nhân viên hoạt động xã hội năm xưa đã giúp tôi rất nhiều, cùng những điều mà cô đã nói với tôi khi tôi tiết lộ cho cô nghe bí mật của mình. Tôi nhìn vào mắt thằng bé và nói:
- Nghe này, cháu sẽ ổn cả thôi. Hẳn cháu là một người đàn ông dũng cảm nên cháu mới có thể nói cho chú biết bí mật vừa rồi của cháu. Đó chính là bước đầu tiên để mọi chuyện tốt đẹp hơn. Cháu phải mạnh mẽ lên, và cháu phải tin chú.
Tôi ngừng lại một chút để thăm dò thái độ của thằng bé.
- Cháu sẽ ổn cả thôi, chú hứa với cháu đấy. - Tôi lấy tay làm dấu thập lên ngực mình. - Chú thề với cháu đấy. Cháu không đáng phải sống như thế, và chúng ta sẽ thay đổi chuyện này.
Tôi dẫn thằng bé vào chính căn phòng mà tôi đã ngồi chờ trước khi được cứu sống gần hai mươi năm về trước. Sau khi nói chuyện với thầy hiệu trưởng của trường, thầy Rizzo, tôi chào tạm biệt thằng bé và trấn an nó rằng nó đã làm điều đúng đắn. Sau đó, tôi loạng choạng đi về phía bãi gửi xe, lòng cảm thấy vô cùng xúc động. Khi nhìn thấy một nhóm trẻ con đang chơi đùa ở sân trường - cái nơi mà nhiều năm về trước tôi đã rất muốn được ở đó - tôi bắt đầu thở gấp. Tôi không thể kiểm soát được cảm xúc của mình nữa. Mọi thứ trong tôi vỡ òa và hiện rõ mồn một như một thước phim quay chậm. Tôi lặng yên nhìn ngắm bọn trẻ, lòng thầm cầu nguyện cho thằng bé nọ. Tôi cũng không quên cảm ơn Chúa vì Ngài đã tạo ra số phận kỳ lạ và ban cho tôi một đặc ân là được quay về ngôi trường đã có rất nhiều ý nghĩa với tôi, cho tôi có cơ hội góp phần nhỏ công sức của mình để giúp đỡ một đứa trẻ đang gặp khó khăn như thế.
Giọng nói của người thầy dạy tôi năm lớp năm vang lên sau lưng khiến tôi giật mình.
- Thằng bé sẽ ổn thôi. Rõ ràng là em biết phải làm thế nào với chúng - ý thầy nói là những đứa trẻ ấy. Thầy Ziegler chìa tay ra:
- Nghe này, thầy biết là em sắp phải lái xe vượt qua một đoạn đường dài, nhưng nếu em có thể dành chút thời gian…
Tôi bắt đầu thấy nghẹn ngào trong cổ họng. Tôi khẽ gật đầu đồng ý.
Buổi tối hôm đó, trong suốt bữa ăn tối tại một nhà hàng trong vùng, cả hai thầy trò chúng tôi đều lúng túng trong lúc trò chuyện. Hầu như chúng tôi không nhìn vào mắt nhau, đơn giản vì tôi cảm thấy hơi ngượng. Mỗi khi tôi ngước nhìn lên, thầy Ziegler cũng giả vờ quay đi chỗ khác. Dùng xong bữa, thầy Ziegler hắng giọng và nói:
- Thật tốt khi được gặp em… Việc này đã ám ảnh tâm trí thầy suốt một thời gian dài, và thầy cần phải trút bỏ gánh nặng này. Thầy không biết là em có biết không, nhưng… ngày hôm đó, khi em vào lớp học của thầy, cái ngày tháng Ba mà em được đưa đi ấy…
Người tôi bỗng trở nên tê cứng vì sợ. Tôi chưa bao giờ biết được vì sao các thầy cô của tôi cuối cùng lại ra tay can thiệp và gọi cảnh sát để giải thoát cho tôi. Tôi trở nên hoang mang lo lắng đến mức hai mắt tôi như muốn bật tung ra khỏi đầu. Tôi giấu tay trái dưới gầm bàn và siết chặt lấy đùi mình để cả người không phải rung lên bần bật.
- Hôm đó… em đến trường… em còn quá nhỏ. Nhưng, ừ thì - thầy phải nói điều này ra thôi - vào ngày tháng Ba đó, em đến trường… trên cánh tay em không có lớp da nào.
Thầy Ziegler dừng lại, rồi thầy nhấp một ngụm rượu.
Tôi đánh rơi cái nĩa đang cầm trên tay. Tôi hít một hơi thật sâu rồi nhìn chằm chằm vào cánh tay phải của mình.
- Em, à, em nhớ rồi. Em nhớ rồi… - Tôi cảm thấy mình đang ở trong một tình trạng gần như hôn mê.
- Phải, em nhớ rồi, những lớp thịt xám ngoét, như những miếng vá, trên cánh tay của em… và cả những ngón tay của em nữa… Phải không thầy?
Thầy đáp:
- Phải.
- Vậy mà em quên mất. - Ý em là, trước giờ em vẫn không hiểu lý do vì sao. Điều này thật ngu ngốc, nhưng lúc đó em chưa bao giờ nghĩ mẹ mình làm điều gì khác thường cả … Ý em là, thỉnh thoảng, mẹ em… bà ấy cũng rất chu đáo… - Tôi lắp bắp khi cố gắng tìm ra điều mà mẹ đã làm với tôi để đến nỗi…
- Ôi trời đất! Tha lỗi cho em! - Tôi lắc đầu. - Phải rồi. Ngày hôm đó, cái buổi sáng mà thầy, tất cả các thầy cô, gọi cho cảnh sát. Em nhớ rồi!
Nước mắt tôi tuôn ra.
- Em nhớ rồi. - Tôi lặp lại. - Những ngón tay và cánh tay của em… chúng thật ngứa ngáy. Em không thể ngừng gãi được… và đúng rồi, em đã không thể hoàn thành công việc mình được giao đúng thời hạn. Buổi sáng thứ Sáu mà các thầy gọi cảnh sát ấy… mẹ đã đưa em đến trường. Trước đó bà ấy chưa bao giờ làm thế, nhưng… em đã quá chậm trễ, chậm trễ khi làm công việc mình được giao. Không có da… em không thể nắm được cái gì cả… em không thể hoàn thành công việc đúng thời hạn được.
Tôi thở hắt một hơi thật sâu. Tôi có thể cảm thấy những đầu ngón tay của mình đang bắt đầu co giật. - Nhưng… vào buổi chiều hôm trước ngày thứ Sáu, bà ấy đã bắt em nhúng tay vào một cái xô đựng dung dịch amoniac và Clorox. Đúng rồi, chính nó. Đó chính là thứ đã khiến em bị như thế.
Tôi nhắm mắt lại và run rẩy vì cơn lạnh chạy dọc sống lưng. Khi mở mắt ra, tôi cảm nhận thấy dòng nước mắt âm ấm đang lăn trên má mình.
- Em xin lỗi. - Tôi nói với thầy. - Em… ừm… em luôn phải suy nghĩ hướng về phía trước, ý em là để sinh tồn, để chiến thắng bà ấy trong cuộc đấu trí. Em nhớ là bằng mọi cách bắt em nhúng đầu vào cái xô đó. Thế nên, em mới thật là ngu ngốc làm sao, lúc đó em chỉ nghĩ đến việc làm sao để có thể hớp được không khí trong trường hợp… trong trường hợp bà ấy nhấn đầu em vào cái xô ấy.
Tôi ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
- Em đã quên mất toàn bộ chuyện này. Lạy Chúa.
Em nhớ tất cả những điều mà bà ấy đã làm, từng lời bà ấy nói, nhưng em đã… em không biết nữa. Trong suốt thời gian qua, em chưa hề biết điều gì đã khiến cho các thầy cô gọi cảnh sát vào buổi sáng hôm đó. Quá nhiều thứ đã xảy ra với em vào cái ngày định mệnh ấy…
Tôi nhìn xuống hai bàn tay mình, chúng đang run rẩy.
- Em biết nói điều này nghe thật đáng hổ thẹn, nhưng thầy… tất cả các thầy cô… đã cứu sống em.
- Tất cả những gì thầy làm là… - Thầy Ziegler nói, cố giảm nhẹ sự việc xuống. - Dù sao đi nữa, bất cứ ai cũng có thể thấy những điều mà bà ta đã làm. Lúc ấy chúng ta chẳng thể làm được gì cả, mà cũng không được phép làm. Hồi đó thì những việc như vậy đơn giản được coi là một hình thức kỷ luật, là quyền của cha mẹ, nhưng rõ ràng là chúng ta phải làm một điều gì đó. Mỗi người chúng ta đều có thể thấy điều gì đã xảy ra. Đó là một điều mà em sẽ không thể quên. Không bao giờ quên.
Sau đó, chúng tôi ôm chào tạm biệt nhau ở chỗ bãi giữ xe.
- Cảm ơn thầy Z.
- Hãy gọi thầy là Steven. - Thầy cười và nói.
- Cảm ơn thầy, nhưng em không thể… - Tôi nói -
Thầy có ý nghĩa rất nhiều đối với em. Thầy là thầy giáo của em.
Vài tháng sau, vào tuần lễ có ngày kỷ niệm hai mươi năm ngày tôi được giải thoát, tôi quay lại để gửi tặng thầy Ziegler bản sách được ký tặng đầu tiên của quyển Không Nơi Nương Tựa. Quyển sách ký tặng thứ hai tôi giữ lại cho con trai mình, và những quyển còn lại được tặng cho cô Konstan, cô giáo dạy tôi năm lớp bốn và cô Woodworth, cô giáo dạy tiếng Anh của tôi, người đã khuyến khích tôi giao tiếp bằng cách viết vì tôi cứ liên tục nói lắp bắp. Bằng cách nói lời tri ân và tặng sách cho những người đã cứu sống tôi, tôi cảm thấy mình có thể thực hiện được lời thề sẽ tôn vinh họ, lời thề mà tôi đã đặt ra cho mình vào cái ngày tôi được cứu sống.
Nhiều tuần lễ sau, tôi nhận được một bức ảnh lồng khung chụp các thầy cô của tôi vào hôm tôi ghé thăm trường. Trên khung ảnh có khắc dòng chữ VỚI TÌNH YÊU VÀ NIỀM TỰ HÀO. Như một đứa trẻ được thưởng cho món đồ chơi, tôi chạy đi khoe với Patsy, nhưng cô ấy có vẻ không quan tâm đến chuyện này lắm. Có những lúc sự kiên nhẫn của cô ấy với nghề nghiệp mới của tôi trở nên hết sức mong manh. Tôi đã cố gắng thuyết phục bằng nhiều cách, nhưng tôi không thể làm cho cô ấy hiểu được việc phải bắt đầu lại mọi thứ khó khăn như thế nào, đặc biệt là khi trong nhiều năm qua tôi đã thực hiện những chương trình miễn phí, cho những tổ chức có ngân sách rất ít hoặc gần như không có. Để làm Patsy yên lòng, tôi nói với cô ấy rằng vì tôi không nhận được nhiều đơn đặt hàng, nên công ty đã rất tử tế và cho tôi mượn trước một khoản tiền. Nhưng để có thể trả tiền thuê nhà và những hóa đơn khác, tôi phải nhận thêm một công việc khác là đánh bóng cửa nhà bếp bằng cát. Có vẻ như dù tôi có chiến đấu thế nào để thuyết phục Patsy, thì cô ấy vẫn nghĩ rằng tôi sẽ đạt được thành công chỉ sau một đêm.
Tôi biết đã có chuyện gì đó ở văn phòng tại Lincoln. Cho đến lúc này thì lẽ ra tôi phải nhận được nhiều đơn đặt hàng hơn. Nhưng tôi quá nhút nhát đến mức không dám nói bất cứ điều gì với Carl và Rich, đặc biệt là khi họ đã giúp tôi chu cấp cho gia đình của mình. Tôi cảm thấy ghét chính mình vì cái tình cảnh mà tôi đang mắc phải. Lần đầu tiên trong đời, tôi phải ứng tiền như thế này. Kể từ hồi ở trong trại trẻ mồ côi, tôi đã tự gánh lấy trách nhiệm của mình. Hầu như tôi luôn giữ kín những điều làm tôi e sợ. Một phần trong tôi cảm thấy rằng tôi đã quá ảo tưởng. Tôi tin rằng nếu tôi làm việc cật lực, thì bằng cách nào đó, vào một ngày nào đó, với một chút may mắn, tôi sẽ thành công.
Mối bận tâm duy nhất của tôi là Stephen. Thỉnh thoảng sau khi đi làm về, dù có mệt mỏi thế nào, tôi cũng tranh thủ tắm rửa cho nhanh rồi dẫn Stephen đi xem bộ phim mới nhất của hãng Disney, hay dành ra cả buổi chiều để chơi bóng chày với thằng bé trong công viên. Mỗi khi Stephen đi học về, tôi đều gác công việc mình đang làm sang một bên để có thể ở bên cạnh thằng bé; rồi sau đó, khi đã dỗ nó ngủ, tôi mới tiếp tục công việc của mình. Tôi rất muốn chăm sóc gia đình, và không muốn mất đứa con trai của mình.
Còn chuyện của tôi với Patsy, giọt nước làm tràn ly xảy ra vào tháng 7 năm 1994. Sau một thời gian chờ tôi tạo ra một bước ngoặt, cô ấy đã không thể chịu nổi nữa.
- Gần hai năm rồi. - Cô ấy nói. - Lẽ ra mọi việc không nên mất nhiều thời gian như thế này chứ. Vậy mà anh vẫn chưa…
- Anh đã nói với em rồi, việc này cần có thời gian.
- Hai năm, anh đã hứa với em như thế. Anh nói việc này sẽ mất hai năm, và đến giờ thì anh vẫn chưa thể làm được gì cả. Còn em thì sao? Trước kia thì em đã phải chờ đợi khi anh bay đi khắp nơi với không quân, và bây giờ, sau hai năm, em có gì đây? Thậm chí chúng ta còn không có tiền để trang bị máy sưởi trong nhà nữa.
Trước khi tôi có thể đưa ra những lý lẽ để biện hộ cho mình, cô ấy đã nói đến một hướng khác.
- Anh thật là một kẻ bạc nhược. Tôi biết anh đã bị cái đám đó xỏ mũi, chính là cái đám diễn giả ở Nebraska. Mấy thằng cha đó chẳng biết mình đang làm cái gì cả. Bọn họ không thể lăng xê anh lên đâu. Vì Chúa, họ rêu rao rằng anh là một gã bảo vệ những đứa trẻ bị lạm dụng. Ai lại muốn nghe cái thứ đó chứ? Thế với những chương trình anh thuyết giảng người ta sống có mục đích và trách nhiệm trước đây thì sao?
Tôi lắc đầu, tỏ ý không có câu trả lời.
- Anh rất thông minh trong một số chuyện, nhưng lại hoàn toàn dốt đặc trong những chuyện khác. Tôi không tin họ. Hãy nghĩ mà xem: Nếu anh là một diễn giả giỏi như thế, và quyển sách của anh hay ho như thế, vậy thì nói tôi nghe xem, vì sao anh không thể có được đơn đặt hàng nào được trả tiền?
- Chúng ta đã nhận được nhiều hơn năm ngoái đấy thôi.
- Ôi, không, anh đừng có mở miệng ra nói cái kiểu đó. Thậm chí ngay cả sau khi anh nhận được cái giải Người Mỹ điển hình xuất sắc vớ vẩn ấy, anh cũng chẳng có gì cả.
- Mười thanh niên Mỹ điển hình xuất sắc! - Tôi chỉnh lại một cách đầy tự hào.
- Xin lỗi! Sao cũng được! - Patsy lườm mắt. - Nếu cái giải thưởng của anh quý hóa như thế, vậy tại sao anh không có được gì từ nó cả? Đã bao lâu rồi ấy nhỉ? Gần một năm rưỡi kể từ khi anh nhận được cái của nợ ấy rồi, và tôi chẳng thấy ai đến gõ cửa nhà anh với một lời đề nghị hậu hĩnh cả. Sao thế hả? Nào, nói tôi nghe đi xem nào.
Nếu tôi có tất cả thời gian trên đời này, tôi cũng không thể nào giải thích cho Patsy hiểu được cái cảm giác lẫn lộn giữa niềm tự hào và cảm giác khi thấy mình không xứng đáng với phần thưởng này, đúng vào dịp kỷ niệm hai mươi năm tôi được cứu thoát. Chiếc cúp ghi nhận Mười thanh niên Mỹ xuất sắc là phần thưởng đã từng được trao tặng cho những thần tượng của tôi hồi còn bé như Chuck Yeager, Orson Welles, diễn viên đóng vai người hùng mà tôi thích nhất, Siêu nhân: Christopher Reeve, cùng một danh sách dài những con người vĩ đại khác.
- Sao? - Patsy búng ngón tay tanh tách, kéo tôi quay về với thực tại. - Vấn đề là ở chỗ, anh vẫn chưa làm được điều đó. Hồi trước có thể anh hấp dẫn lắm, nhưng bây giờ thì anh chẳng là cái gì cả. Mấy thằng cha vớ vẩn ở Lincoln đó lẽ ra nên đối xử với anh tốt hơn. Chúng ta đã có thể giàu có! - Patsy thét lên. - Sau tất cả những gì mà tôi đã làm, sau tất cả những năm qua, anh vẫn không hiểu. Nó sẽ không xảy ra đâu! Anh sẽ không đạt được nó đâu. Anh có thể làm ra vẻ cao thượng và nói những điều mà anh vẫn hay nói, nhưng mấy chuyện đó không giúp anh trả tiền thuê nhà được. Và, - Patsy nhấn mạnh - nếu anh muốn biết một điều gì đó, thì tôi nghĩ anh là một thứ rác rưởi cứt đái. Tôi đã đọc quyển sách của anh, đương nhiên là do anh gọi đó là một cuốn sách. Người ta đã làm nó trông như một cuốn sách thực sự, nhưng thực ra không phải vậy. Không đời nào một người có thể sống với những việc như thế cả. Lẽ ra tôi phải biết. Hãy nghĩ mà xem, nếu quả thực là anh đã bị ngược đãi đến độ như thế, nếu anh không chết… thì anh cũng sẽ bị tâm thần, dính vào ma túy, rượu chè, hay bất cứ thứ gì khác. Tôi đã sống ở Marysville và thành phố Yuba cả đời rồi, và nếu những gì anh nói là đúng sự thật, thì tôi chắc như đinh đóng cột là không quân sẽ không tuyển anh vào, chứ đừng nói đến việc họ cho phép anh tiếp xúc với mấy cái máy bay phản lực đó. Nếu anh không nói dối cả về những chuyện đó nữa thì không, không đời nào! Patsy vừa nói vừa lắc đầu. - Không đời nào! Lý lịch anh quá sạch sẽ, mọi thứ quá hoàn hảo. Anh đã làm gì vậy chứ, đút tiền cho đám giáo viên đó để họ có thể làm chứng là anh đã bị ngược đãi à? Phải rồi, anh đã cố gắng che giấu chuyện đó, nhưng tôi đã phát hiện ra đấy. Lý do duy nhất của việc anh che giấu quá khứ của mình với tôi là vì nó không hề có thật. Đó là lý do vì sao anh không nhận được đơn đặt hàng nào cả. Đó là lý do vì sao quyển sách cứt đái ấy không xuất hiện trong bất cứ, tôi lặp lại, trong bất cứ hiệu sách nào. Vậy thì tại sao anh lại làm việc này? Anh muốn nói về niềm tin ư? Coi nào, hãy thành thật đi, nói cho tôi nghe đi, nói cho tôi nghe sự thật đi! Sau tất cả những chuyện khốn nạn mà anh đã bắt tôi trải qua, tôi đáng được biết sự thật! Đến nước này thì tôi không thể kiềm chế được nữa. - Cô muốn biết những việc tôi làm sao? Có đúng như thế không? Cô có thực sự muốn biết không? Tôi làm việc với những đứa trẻ, nài nỉ chúng tin rằng dù có điều gì xảy đến với chúng đi chăng nữa, thì chúng vẫn có thể lật ngược tình thế. Ở trung tâm tôi phải dỗ dành những đứa bé gái có quá nhiều meth(2) trong người; chúng muốn tự tử, bởi vì chúng đã chán ngấy những lão cha dượng béo ú, bệnh hoạn đang hành hạ chúng. Ồ, mọi chuyện đúng là đã tốt đẹp hơn đấy! Tôi phải đứng trước những người cảnh sát và nhân viên xã hội, những người mà công việc của họ là phải tìm ra những đứa trẻ, thậm chí là trẻ sơ sinh, bị nhốt trong những cái chuồng, bị đánh đến thừa sống thiếu chết, bị xích vào bồn cầu, và thuyết phục họ mặc áo khoác và thắt cà vạt vào, mặc áo cánh và áo cộc tay vào, mỗi ngày đều phải làm như thế, để làm gì? Để ra ngoài kia, làm mấy cái chuyện cứt đái đó, để nhìn thấy những điều mà không ai trong xã hội này muốn biết cả. Thế mà họ nhận được gì? Họ bị đối xử như kẻ thù vậy!
Khi may mắn được diễn thuyết ở những công ty, tôi thề với cô, tôi đã cầu nguyện, trước mỗi buổi nói chuyện tôi đều quỳ gối cầu nguyện, tôi cầu xin sao cho tôi không nói quá nhanh, và phải làm như thế nào cho thính giả thích thú với khiếu hài hước của mình để mang lại cho họ một cái gì đó, dù nhỏ thôi, để họ có thể vực dậy cuộc đời họ. Cô có muốn biết điều khốn nạn nhất trong tất cả những chuyện này là gì không? Tôi cầu Chúa để họ - tất cả những con người đó - không bao giờ thấy được… trong lòng tôi cảm thấy thế nào. Thậm chí tôi còn không thể nhìn vào mắt họ. Một vài người trong số họ nghĩ tôi chỉ có vậy thôi, rằng tôi không cảm thấy mình xứng đáng nhìn vào mắt họ. Không bao giờ! Tôi biết là tôi không thông minh. Tôi biết tôi không được như những gì tôi nói. Tôi cảm thấy mình thật là giả tạo. Thậm chí ngay lúc này, sau tất cả những phần thưởng, được phục vụ trong không quân, nhận được thư khen của Tổng thống… tôi vẫn cảm thấy vô cùng cắn rứt… và dù đã bổ đôi đầu mình ra mà tôi vẫn không hiểu vì sao, sau ngần ấy năm trời…
Tôi biết tôi sẽ không bao giờ trở thành một diễn giả có thể truyền cảm hứng và động lực cho người khác - tôi không sành điệu, không bóng bẩy - nhưng tôi là người thật việc thật. Tôi luôn cố gắng. Với từng hành động, trong từng hơi thở, tôi đều cố gắng hết mình. Đó là lý do vì sao tôi hạ cánh xuống Omaha, Nebraska, lái xe suốt mười tiếng đồng hồ đến Bismarck, North Dakota, tông trúng một con hươu, vỡ tan nát tấm kính chắn gió, sau đó làm việc đến tận đêm với một cơn chấn động mạnh, thực hiện một chương trình cho bọn trẻ trong trại giam dành cho vị thành niên, lúc nào cũng cầu cho nội tạng tôi sẽ không chảy máu vì tôi đã nuốt phải những mảnh kính vỡ, chỉ để tôi có thể tiết kiệm được cho khách hàng của mình ba mươi ba đô-la tiền đi lại bằng đường không! Tại sao ư? Bởi vì tôi cảm thấy cắn rứt, vì thế đấy! Cô muốn biết vì sao tôi lại làm chuyện này: sống lại quá khứ của mình ngay trước mắt mình từng ngày một ư? Vì tôi làm việc để cô không phải đi làm, tôi thức dậy trong những căn nhà trọ đầy chấy rận không có nước nóng để tắm, cầu nguyện cho cái quần lót mà tôi vừa giặt trong bồn rửa mặt cách đó ba giờ đồng hồ đã kịp khô, để tôi có cơ hội cho con trai mình một cuộc sống tốt đẹp hơn! Ngày nào tôi cũng phải ăn cứt, cầu nguyện rằng tôi có thể gieo một hạt giống - chỉ một hạt thôi, thế thôi. Tôi biết có khi mình là trò cười cho người khác, nhưng tôi đã cống hiến hết mình. Tôi chỉ muốn người ta cảm thấy bản thân họ tốt đẹp. Thế thôi. Tôi biết cảm giác mình không bằng con số không là thế nào, và tôi muốn từng người mà tôi gặp cảm thấy rằng họ là một con người. Một con người có thể tạo nên sự khác biệt và làm cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn. Và đôi khi, giữa tất cả những thứ rác rưởi này, tôi có thể làm họ cười. Tôi có một món quà, và nếu tôi có thể dùng nó để làm cho cuộc sống của người khác trở nên tốt đẹp hơn, để họ không phải trải qua cái địa ngục mà tôi và anh em tôi đã trải qua, thì… tôi sẽ làm những gì mà tôi phải làm.
Ngay lập tức, Patsy vặn lại tôi:
- Nó cũng không thay đổi sự thật đâu. Anh… anh đã có cơ hội của mình. Anh có thể tuyên truyền cái câu “cao thượng, ta đạo đức hơn người khác, hãy truyền lời ta” vớ vẩn đó. Dù anh có nói thế nào đi nữa, thì anh đã hứa với tôi hai năm. Tôi đã chán chờ đợi lắm rồi. Còn tôi thì sao? Anh không hiểu sao? Anh là một kẻ thất bại! Anh sẽ không bao giờ làm được điều đó đâu. Anh là một kẻ thất bại thảm hại với một chữ L to tướng. - Patsy nói, tay vẽ hình chữ L lên không khí. - Thế đấy, tôi đã đợi và tôi đã đợi đủ lắm rồi. Vậy thì thế này nhé: Anh có yêu tôi hay không?
Vẫn đang trong cơn tức giận, tôi lưỡng lự một thoáng để trấn tĩnh lại. Sau vài giây tôi chậm chạp gật đầu.
- Không. - Patsy vẫn cứ khăng khăng. - Tôi muốn nghe thấy câu đó. Sau tất cả những chuyện khốn nạn mà anh đã bắt tôi trải qua, tôi xứng đáng được nghe thấy những lời này. Hãy nói ra đi! - Cô ấy ra lệnh.
Tôi thở hắt, gật đầu và chậm rãi nói:
- Anh… anh… yêu… em.
Patsy ngoẹo đầu sang một bên và nói với vẻ nhạo báng:
- Vậy thì anh có tin tưởng tôi không?
Không một thoáng chần chừ, tôi đáp:
- Không.
Sau nhiều năm che giấu cẩn thận không để bất kỳ biểu hiện nhỏ nhất nào thể hiện ra kể từ lúc tôi biết cô ấy, giờ thì tôi đã nói ra điều đó. Cuối cùng tôi cũng nói ra một sự thật đã đè nặng lên trái tim tôi kể từ lần đầu tiên tôi biết Patsy. Tôi cảm thấy kinh ngạc vì đã dám tiết lộ điều này ngay trước mặt cô ấy, và tôi còn cảm thấy mình rất nhẹ nhõm nữa.
Patsy đờ người ra. Tôi chờ đợi cô ấy tát vào mặt tôi, nhưng cô ấy vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Tôi lắp bắp:
- Anh xin lỗi. Anh yêu em… và anh sẽ luôn yêu em… Anh xin lỗi, nhưng anh không…
- Nếu anh không… thì tôi thật không thể tin được! Sau tất cả những chuyện mà tôi đã phải trải qua. Những sự hy sinh mà tôi đã gánh chịu. Thế đấy! Tôi đã chịu đựng đủ lắm rồi. Tôi không thể sống với một người mà… Anh đã nuốt lời! - Cô ấy tuyên bố Hai năm! Anh đã nói hai năm! Tin ư? Tôi cũng không tin anh. Và tôi sẽ không sống với bất cứ người đàn ông nào mà tôi không thể tin vào anh ta. Chấm hết!
- Patsy thét lên. - Tôi muốn ly dị!