← Quay lại trang sách

Chương 14 GIẢI QUYẾT

Sau tám năm kết hôn, Patsy và tôi ly thân vào cuối tháng 7 năm 1994. Chúng tôi đã có một buổi nói chuyện với Stephen để báo cho thằng bé biết tin này. Mặc dù có vẻ như thằng bé đón nhận mọi chuyện một cách khá dễ dàng, nhưng trái tim tôi vẫn nhói đau khi nhìn nó. Tôi không bao giờ muốn Stephen phải trải qua sự mất mát và nỗi đau đớn mà tôi đã từng trải qua khi cha mẹ tôi chia tay nhau. Kể từ khi kết hôn, tôi đã cố gắng rất nhiều để bảo vệ con mình khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào, vậy mà giờ đây tôi lại thất bại trong vai trò quan trọng nhất của mình với tư cách là một người cha - tôi đã không thể giữ cho gia đình mình được hạnh phúc.

Sau vài lần nói chuyện riêng với Stephen, tôi bất ngờ khi nhận ra rằng thằng bé có vẻ thoải mái với việc ly thân này hơn cả chính bản thân tôi. Tôi hứa với nó rằng dù có bất cứ chuyện gì xảy ra giữa mẹ nó và tôi đi chăng nữa, thì sự quan tâm chăm sóc mà chúng tôi dành cho nó sẽ không bao giờ thay đổi.

Vậy là tôi đã phải đánh đổi cuộc hôn nhân của mình và gần mười ba năm trời để có thể hoàn thành được giấc mơ từ thuở bé là được sống bên Dòng sông Nga. Mặc dù Patsy đã úp mở rằng tình trạng ly thân của chúng tôi có thể chỉ là tạm thời, nhưng tôi cũng không biết cách nào để nói cho cô ấy hiểu được rằng: một khi tôi đã dọn ra ngoài ở, thì tôi sẽ không bao giờ quay về nữa.

Khi Patsy và tôi đưa ra quyết định ly hôn, tôi đang đi công tác xa nhà. Lúc ấy Patsy khiến tôi vô cùng ngạc nhiên khi cô ấy đã bỏ thời gian tìm cho tôi một căn hộ nghỉ mát có một phòng ngủ gần Dòng sông Nga. Hôm tôi chuyển đến Guerneville, Patsy đã cất công lái chiếc xe tải U-Haul vượt qua quãng đường một trăm tám mươi dặm đến chỗ ở mới của tôi. Ngày hôm đó, khi chúng tôi gạt nước mắt và ôm chào tạm biệt nhau, tôi cho là cả hai chúng tôi đều cảm thấy những nỗi phiền muộn và mệt mỏi chồng chất suốt mấy năm qua đang bắt đầu phai nhạt dần.

Vì ngôi nhà rất nhỏ, mà tôi chỉ có một cái bàn, một cái kệ sách, thêm cái tủ đựng đồ, nên tôi chỉ mất chưa đến hai ngày để sắp xếp đâu ra đó chỗ ở mới của mình. Không lâu sau, Stephen đến ở với tôi trong hai tuần. Hai cha con tôi quấn quýt với nhau như hình với bóng. Chúng tôi đã cùng nhau chất củi, cùng nhau câu cá ở bờ sông, chơi đuổi bắt giữa con đường vắng lặng. Có những đêm, sau khi nướng xúc xích xong, tôi ôm thằng bé vào lòng và hai cha con cùng ngồi ngắm những vì sao. Khi Patsy đến đón Stephen, cơn chấn động vì phải chia tay Stephen bùng nổ trong tôi như một quả bom. Lúc Patsy và Stephen lái xe đi, tôi rất muốn đuổi theo hai mẹ con, mở toang cửa xe, ôm chầm lấy Stephen, và nài nỉ với Patsy rằng mọi vấn đề giữa hai chúng tôi đều có thể được giải quyết. Nhưng tôi không thể, và sẽ không thể đuổi theo họ. Tôi chỉ còn biết đứng đó, bất động, cố lắng nghe những âm thanh đang nhỏ dần từ chiếc xe của Patsy.

Tôi cứ đứng giữa đường như thế đến gần một giờ đồng hồ. Người tôi bắt đầu run rẩy vì lạnh. Tôi thẫn thờ quay về nhà, đóng cửa lại và cứ thế ủ dột nhiều ngày liền. Tôi tự cô lập mình với thế giới bên ngoài suốt gần một tuần. Trong suốt những ngày ấy, tôi chỉ lặp đi lặp lại những việc nhàm chán là thức dậy vào khoảng bốn hay năm giờ sáng mỗi ngày để cọ rửa đồ đạc trong nhà thật kỹ. Sau hơn chín giờ đồng hồ lau chùi dọn dẹp toàn bộ ngôi nhà, tôi lại tháo mấy cái kệ tủ lạnh đem đi rửa, rồi gắn lại, sau đó tôi lại hì hụi cọ rửa sàn nhà cho đến khi lớp sơn như muốn bong ra. Tôi cho rằng nếu mọi thứ xung quanh tôi sạch như li như lau, thì cuộc đời tôi biết đâu cũng sẽ trở nên có trật tự hơn. Tôi cứ làm việc quần quật như thế cho đến tận tối mịt, và chỉ đi nghỉ sau khi đã chà sạch bóng cái điện thoại. Người đẫm mồ hôi, tôi ngồi phịch xuống ghế, tay cầm cái điện thoại bóng loáng, như thể nếu tôi gọi điện cho Patsy thì mọi việc sẽ ngay lập tức khác đi. Rất nhiều lần tôi đã quay số của Patsy, nhưng tôi luôn gác máy trước khi chuông báo kịp reng lên.

Nếu có khi nào tôi cảm thấy tâm trạng mình khá hơn một chút và nghĩ mình xứng đáng được thưởng cái gì đó, thì vào buổi tối, sau khi đã tắm rửa thật kỹ, tôi mở toang cửa ra, đứng trên hiên nhà và đưa mắt tìm chòm sao mà Stephen và tôi đã cùng nhau tìm thấy. Thỉnh thoảng, khi đang lắng nghe âm thanh xào xạc trên những tán cây, tôi lại ngửi thấy mùi lò sưởi của nhà ai gần đó, hay cái mùi hương ngọt ngào của cây lá rồi chập chờn ngủ thiếp đi trên tấm đệm hơi bị rò của mình. Vào một ngày đẹp trời thì chừng đó đã là đủ để tôi sống tiếp đến ngày hôm sau.

Sau một tuần sống trong cô độc, tôi gọi cho văn phòng ở Lincoln với niềm hy vọng mong manh rằng mình sẽ nhận được vài lời mời làm việc, chỉ có như vậy cuộc đời tôi mới mong có lối thoát. Mỗi lần tôi gọi điện như thế thì người quản lý của tôi, Jerry, đều đảm bảo với tôi rằng chỉ trong vài ngày nữa thôi thì chúng tôi sẽ ngập trong công việc. Thế là tôi chỉ còn biết cảm ơn ông vì đã tin tưởng ở tôi, và rồi tiếp tục cầu nguyện sẽ có một bước ngoặt xảy đến.

Vào mỗi buổi chiều, tôi lại bồn chồn ngồi chờ cho đến khi Stephen đi học về để tôi có thể gọi cho nó và hỏi thăm xem ngày hôm ấy của thằng bé như thế nào. Tôi luôn cảm ơn Chúa vì mỗi lần tôi gọi điện, thằng bé đều có vẻ rất vui vẻ và hạnh phúc. Như Patsy đã hứa, cô ấy luôn làm cho Stephen bận rộn, đồng thời để cho tôi gặp hay nói chuyện với thằng bé bất cứ lúc nào.

Sau mỗi lần nói chuyện điện thoại với Stephen, tôi không thể không cảm thấy mình giống như một kẻ phản bội - bởi theo một cách hiểu nào đó thì tôi đã bỏ rơi con trai mình. Mặc dù trong nhà tôi có rất nhiều ảnh của Stephen cũng như rất nhiều bức tranh nó vẽ ở trường nhưng tôi vẫn cảm thấy mình đã bỏ rơi thằng bé. Tôi cảm thấy cắn rứt đến nỗi có vài lần tôi định đi xem phim, thì rốt cuộc tôi lại về nhà, cứ như là tôi không thể cho phép bản thân mình thoát ra khỏi thực tại, dù chỉ trong vài giờ đồng hồ mà thôi. Chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng việc tôi thoải mái ngồi xem phim sẽ lấy đi của Stephen một cái gì đó.

Nơi cứu rỗi tâm hồn tôi chính là khu nghỉ mát Rio Villa ở gần Monte Rio. Nhiều năm qua, kể từ khi tôi xuất ngũ, Patsy, Stephen và tôi đã trở thành khách quen của nơi này, và tôi đã trở thành bạn thân với những người chủ ở đây, Ric và Don. Kể từ lần ghé thăm đầu tiên của tôi, Ric và Don đã biết đam mê của tôi là được sống bên Dòng sông Nga. Không muốn tôi cứ đắm chìm trong tình trạng khổ ải mà tôi tự gây ra cho mình, họ đã tử tế thuê tôi làm việc trên khu đất của họ. Giờ đây, mỗi khi không có Stephen bên cạnh, tôi vẫn cảm thấy mình còn có một mục đích sống nào đó để phấn đấu. Sau khi hoàn thành bất cứ công việc nào mà công ty diễn thuyết giao cho, tôi mặc một bộ quần áo công nhân vào và lao đến Rio Villa; ở đó tôi nhổ cỏ, xén cây hoặc tưới cỏ suốt nhiều giờ liền trong ánh chiều tà. Khi mùa hè dần trôi qua, tôi bắt đầu cảm thấy bản thân mình có một giá trị nhất định, và đang đạt được một thành quả nào đó.

Nhưng cảm giác xấu hổ không bao giờ buông tha tôi. Kể từ khi ly thân, bất cứ khi nào tôi tham gia diễn thuyết tại một buổi nói chuyện và đưa ra những lời khuyên về việc đối mặt với những vấn đề phát sinh trong cuộc sống và vượt qua nghịch cảnh, tôi lại cảm thấy mình là một kẻ đạo đức giả. Tôi chỉ cảm thấy bản thân mình hơi tốt đẹp hơn một chút khi có thể làm cho khán giả của mình cười. Trong sự hài hước, tôi có thể quên đi cuộc sống đầy rẫy những điều đáng tiếc của mình.

Nhưng khi chỉ còn lại một mình, thậm chí ngay sau khi vừa diễn thuyết xong, từ thẳm sâu trong đáy lòng mình tôi nhận thấy cái cảm giác mà tôi vẫn thường có khi còn nhỏ - dù tôi có làm việc cật lực đến thế nào, có bỏ ra nhiều nỗ lực, công sức đến bao nhiêu, tôi cũng sẽ không bao giờ trở thành một con người tốt đẹp được. Tôi không thể giải quyết vấn đề trong cuộc hôn nhân của mình. Tôi đã vứt bỏ sự nghiệp trong không quân để có thể tự chứng tỏ bản thân mình với tư cách là một diễn giả, để rồi nhận lại được một kết cục là mình giống nạn nhân của sự ngược đãi hơn là một người có thể truyền tải được những thông điệp đầy cảm hứng. Và tôi đã làm tổn thương tình yêu đích thực của cuộc đời mình: Stephen. Dù những điều đang chờ đón tôi trong tương lai có là gì đi chăng nữa, tôi chỉ biết cầu nguyện rằng những sai lầm của tôi sẽ không để lại những hậu quả tai hại nào cho con trai tôi.

Ngày tháng cứ thế trôi qua, có ngày vui và cũng có ngày buồn. Thỉnh thoảng, tôi cũng ngủ được hơn ba giờ đồng hồ. Tôi tự đặt ra khẩu phần cố định hàng ngày của mình là một hũ sữa chua cho bữa sáng và một ly xúp ăn liền dùng với một ổ bánh mì nhỏ cho bữa tối - để tôi có thể dành dụm tiền cho những lúc được ở bên cạnh Stephen. Dù đã sút cân rất nhiều, nhưng tôi vẫn tự nhủ rằng mọi việc đang trở nên tốt đẹp hơn.

Cuối thu năm ấy, khi đang trên đường đi công tác, tôi gọi điện trò chuyện với Jerry. Ông ấy bảo tôi rằng Phòng Thương mại Thanh niên Quốc tế đã chọn tôi là một trong Mười thanh niên xuất sắc Thế giới. Trước khi tôi kịp tận hưởng khoảnh khắc tuyệt vời ấy, Jerry hạ giọng và báo cho tôi biết rằng công ty đang gặp một vấn đề rất nghiêm trọng. Lập tức tôi nghĩ đến những khoản tiền tạm ứng mà công ty đã thanh toán cho tôi trước đây, có lẽ bây giờ họ muốn tôi hoàn trả lại đầy đủ số tiền đó. Trước đây, bất kỳ lúc nào tôi hỏi Jerry về những khoản đáng lý tôi phải được thanh toán hoặc về những vấn đề khác xoay quanh khía cạnh này, ông ấy đều tỏ ra rất thất vọng và có lúc còn gay gắt bực bội nữa. Vì vừa xuất ngũ và vẫn còn đang cố gắng thích nghi với cuộc sống của thế giới bình thường, một phần cũng vì nể nang vị trí của Jerry là cựu Phó chủ tịch của công ty, nên tôi luôn cảm thấy mình đã cư xử không phải. Thế là tôi chỉ còn biết kiên nhẫn. Nhưng sau nhiều tháng trời nghe hứa hẹn, tôi vẫn chưa nhận được những câu trả lời thỏa đáng cho những thắc mắc của mình, và mỗi lần cố dò hỏi, tôi lại cảm thấy mình thật tầm thường, thế là tôi lại thôi. Cũng giống như những gì tôi đã làm với Patsy trước khi chúng tôi ly thân, để tránh phải nhức đầu suy nghĩ, tôi cứ nhân nhượng để không phải vướng vào bất cứ xung đột nào. Trước khi gác máy, Jerry lại bảo đảm với tôi là không nên lo lắng, và ông ấy sẽ tiếp tục nghe ngóng tình hình công việc cho tôi.

Chiều hôm đó, sau khi đã nói chuyện với Stephen, tôi báo cho Patsy biết tin vui mình vừa nhận được. Dạo đó, cứ mỗi lần nói chuyện điện thoại hay gặp trực tiếp Patsy, tôi thấy dường như cô đã trở thành một người phụ nữ khác. Cô ấy đang làm một công việc mà mình thích và say sưa nói về những điều mà cô ấy muốn đạt được. Thái độ của cô ấy rất tự tin và độc lập. Dù biết cô ấy đang hẹn hò với một người khác, tôi cũng giả vờ không hay biết. Sau nhiều năm chung sống, giờ đây tôi chỉ có một mong muốn đơn giản là Patsy được hạnh phúc. Tôi cảm thấy mình đã lôi cô ấy xuống vũng lầy trong suốt những năm qua. Trước khi tôi bay sang Nhật để nhận giải thưởng TOYP(1), Patsy đã tử tế viết thư cho tôi, cảm ơn tôi vì tất cả những gì tôi đã làm cho cô ấy và nhắc lại niềm hạnh phúc mà cô ấy vừa tìm thấy. Patsy đã sống tiếp cuộc sống của mình một cách vui vẻ.

Tôi phải đi công tác trong hơn một tuần trước khi bay sang Kobe, Nhật Bản, để rồi chỉ ở đó hai mươi bốn giờ đồng hồ, rồi lại thực hiện vài chuyến bay quay về và hạ cánh xuống Nebraska, tiếp tục lái xe suốt vài giờ đồng hồ và tham gia diễn thuyết tại một ngôi trường nọ. Jerry cứ khăng khăng bắt tôi phải quay về Lincoln vào chiều thứ Bảy để ông ấy có thể trả lời trực tiếp những mối bận tâm của tôi. Dù vậy, khi tôi xuất hiện ở ngôi trường phổ thông ấy, bà hiệu trưởng của trường cứ ngần ngại không muốn để tôi nói chuyện với học sinh của bà - bởi khi đó trông tôi giống như sẽ ngất đi vì mệt mỏi vậy. Bà hiệu trưởng cũng nói rằng bà biết tôi vừa quay về từ Nhật Bản, và bà đã bảo Jerry hãy để tôi quay lại trường vào một dịp khác. Lúc ấy Jerry còn đùa với bà Hiệu trưởng: “Đừng lo cho David, anh ấy sẽ không sao đâu”.

Áp lực, việc thay đổi múi giờ liên tục, và sự mệt mỏi vì thiếu ngủ đã đánh gục tôi. Sau khi cố trấn an bà hiệu trưởng rằng tôi sẽ không làm bà thất vọng, tôi đã dành cả ngày với các học sinh và sau đó lái xe suốt bốn giờ đồng hồ để quay về Lincoln. Sau khi ngủ gật lúc đang lái xe và suýt nữa thì gặp tai nạn, tôi đỗ lại ở một trạm dừng chân và nghỉ ngơi một chút. Tối hôm đó, cuối cùng tôi cũng thuê một phòng trong khách sạn rồi đổ gục xuống giường mà người vẫn còn mặc nguyên quần áo. Trước khi ngủ thiếp đi, tôi cảm thấy một cảm giác tự hào trào dâng trong lòng - dù đang vô cùng mệt mỏi, nhưng tôi đã cố gắng hết sức mình và rất hy vọng là đã tạo ra được một tầm ảnh hưởng. Khi nghĩ đến ngày hôm sau, tôi cảm thấy rằng mọi thứ rồi đâu sẽ vào đó hết.

Sáng sớm hôm sau, Carl, cộng sự và cũng là cấp trên của tôi, gọi điện đánh thức tôi dậy và bảo tôi đến văn phòng ngay lập tức. Tôi nghĩ lý do của việc này là họ đã tổ chức một buổi tiệc bất ngờ để mừng tôi vừa nhận được giải thưởng. Tất cả mọi người đều biết tôi đã làm việc cật lực như thế nào để chứng tỏ giá trị của mình, và kể từ khi tôi ly thân, họ đã làm mọi cách để bày tỏ sự quan tâm của họ dành cho tôi.

Nhưng khi cầm phần thưởng trên tay, tôi gần như đã đánh rơi nó khi nhìn vẻ mặt của mọi người. Tôi còn nghĩ rằng ai đó vừa mới qua đời. Tôi ngồi xuống và nuốt khan khi người ta bảo tôi rằng Jerry đã biển thủ tiền quỹ của công ty. Khi mọi người đưa cho tôi xem hàng đống giấy tờ và những hóa đơn đã bị hủy mà ông ta đã ký khống, mọi việc bỗng nhiên trở nên vô cùng rõ ràng.

Tôi không muốn bất cứ ai nghĩ rằng tôi đã lạm dụng niềm tin của họ, thế nên tôi nói thật với tất cả mọi người về những khoản tạm ứng mà Jerry đã dặn tôi là phải giữ kín, và rằng tôi cảm thấy rằng Jerry đã cố tình cô lập tôi với các thành viên khác trong công ty. Họ nhìn nhau, rồi lại nhìn tôi, khiến tôi cứ có cảm giác rằng họ đang kết tội tôi. Nhìn phần thưởng được đặt lồ lộ trên bàn, tôi cảm thấy mình thật là hèn hạ. Lẽ ra tôi phải hỏi thẳng mọi chuyện từ nhiều tháng trước, khi cảm thấy có gút mắc gì đó. Chỉ khi Rich, người đồng sáng lập công ty, nói rằng khoản tiền tạm ứng đó không chỉ hoàn toàn đúng với luật pháp mà còn được chi trả trọn vẹn, lúc đó tôi mới cảm thấy nhẹ nhõm được phần nào. Sau đó, Rich còn nói riêng với tôi rằng: đi. À phải rồi, nhân tiện, xin chúc mừng về phần thưởng mà cậu vừa nhận được nhé.

- Còn nữa, cậu quá Jimmy Olsen(2) đi. À phải rồi, nhân tiện, xin chúc mừng về phần thưởng mà cậu vừa nhận được nhé.

Phần tôi, tôi phải đối mặt với Jerry. Dù vô cùng ghét làm việc này, tôi đã gọi điện cho ông ta, và lần đầu tiên với tư cách là một người làm ăn, tôi đã tỏ ra cứng rắn khi ông ta bắt đầu biện hộ cho mình. Jerry cố gắng đổ lỗi cho công ty, và bảo tôi hãy tin tưởng ông ta, nhưng tôi không muốn rơi vào thế chỉ tay điểm mặt hay đổ lỗi cho ai cả. Với một giọng không tỏ ra thiếu tôn trọng nhưng cũng không có chút tình cảm nào, tôi nói một cách đơn giản:

- Tôi sẽ không bao giờ có thể nói chuyện hay nhìn mặt ông được nữa. Không bao giờ.

Nhiều ngày sau, khi đã quay về Guerneville, tôi cảm thấy căm ghét tất cả mọi thứ ở bản thân mình. Tôi cảm thấy mình giống như một trò đùa. Vì nơi tôi đang ở là một cái nhà nghỉ dành cho mùa hè, nó không hề được sưởi ấm hay có một thiết bị sưởi nào ngoại trừ một cái lò gỗ cổ xưa, và nhiệt độ bên trong căn nhà đúng là chỉ hơn mức rét cóng một chút. Sau những chuyến đi liên miên và những sự việc không hay cứ liên tục xảy ra khiến cuộc sống của tôi đảo lộn, tôi đã thực sự bị khô kiệt về mặt tình cảm.

Tôi thẫn thờ dùng một miếng giẻ sạch để lau chùi cẩn thận cái tượng nhỏ có hình hai bàn tay mạ vàng đang đỡ một quả cầu bạc, có tên tôi được khắc trên phần đế bằng gỗ. Trong cơn phẫn nộ, có lúc tôi đã muốn quẳng cái phần thưởng này vào trong bếp lửa - đó là phần thưởng mà tôi đã nhận được cách đó vài ngày, trước hàng ngàn đại biểu đến từ khắp nơi trên thế giới, những người đã không tiếc lời khen tặng tôi bằng những ngôn từ tốt đẹp nhất mà tôi cảm thấy mình không xứng đáng được nhận. Tôi lắc đầu ngao ngán chính mình. Tôi ngồi đây, là một trong những Thanh niên xuất sắc nhất Thế giới, đang sống ly thân với vợ, sống xa con trai, chỉ bởi vì tôi đã luôn theo đuổi ước mơ, để rồi niềm tin của tôi lại bị hủy hoại một lần nữa. Sau khi bơm khí vào tấm đệm hơi bị rò, tôi dùng nhiều lớp túi ngủ đã bị mòn để đắp cho đỡ lạnh. Nếu gặp may, tôi sẽ ngủ thiếp đi trước khi cơn đói ập đến, để có thể dành bữa tối của mình cho buổi sáng hôm sau.

Sáng hôm sau, tôi thức dậy và đi bộ nhiều dặm đường trong cơn mưa phùn lạnh lẽo. Tôi nhớ lại quãng thời gian vài năm qua. Trong một khoảng thời gian ngắn, tôi đã vứt bỏ cả sự nghiệp của mình trong không quân và vứt bỏ luôn cả cuộc hôn nhân của tôi. Patsy nói đúng: cô ấy đã cho tôi hai năm, và kết quả là giờ đây tôi đang sống như một gã Eskimo(3). Bằng việc nắm lấy cơ hội và liên tục lao về phía trước một cách mù quáng, tôi đã khiến những thứ mà tôi hằng nâng niu gặp nhiều rủi ro. Dù tôi luôn nghĩ thông điệp mình truyền tải có thể giúp người khác, nhưng những kết quả dành cho cá nhân tôi là quá rõ ràng.

Patsy là người can đảm khi quyết định chấm dứt mọi chuyện. Tôi không bao giờ có can đảm đó, và tôi cảm thấy rằng cô ấy đã cố gắng cải thiện mối quan hệ của chúng tôi rất nhiều. Xét cho cùng, thì chúng tôi đơn giản chỉ là hai con người với quá nhiều điểm khác nhau. Có thể mong muốn của tôi là được bảo vệ Patsy, nhưng chính cái cách của tôi đã vô tình làm cô ấy cảm thấy ngột ngạt, và khi không thể chịu đựng nổi sự nhỏ nhen của tôi, cô ấy đã quyết định giải thoát cho cả hai.

Tôi không xứng đáng được ở bên cạnh Patsy hay bất cứ ai khác. Nhưng tôi cảm thấy rằng, dù tôi vẫn quan tâm nhiều đến Patsy, nhưng tôi không bao giờ có thể tin tưởng cô ấy được, hay có thể là bởi vì sau chuyện với Jerry, tôi cảm thấy mình không bao giờ có thể tin tưởng vào bất cứ ai khác. Có thể môi trường sống lạnh giá hiện tại của tôi chính là một nghi thức sám hối hoàn hảo dành cho sự ngu ngốc của mình. Tôi biết rõ một điều: tôi đáng sống trong cô độc. Vì luôn có cảm xúc lẫn lộn giữa việc cảm thấy mình không xứng đáng và sự thôi thúc phải tiếp tục sống, tôi không thể cho phép bất cứ ai, ngoài con trai tôi, bước vào trái tim đã chai sạn của tôi.

Sau vài tháng, tôi không còn tự dằn vặt mình nữa, tôi tự tin vào bản thân hơn và quyết định chia tay với công ty ở Lincoln. Tôi nghe nói công ty này và Jerry đã giải quyết được vấn đề của họ, và tôi chúc họ gặp may mắn. Tôi quyết định tự điều hành công việc làm ăn của riêng mình. Bằng cách này tôi có thể sống độc lập và điều khiển được số phận của chính tôi. Nếu tôi có thất bại đi chăng nữa, thì tôi cũng muốn thất bại đó là do sai lầm của mình. Với tôi, phần thưởng của việc tự ra làm ăn riêng là được gặp Stephen nhiều hơn. Vì thằng bé sống cách chỗ tôi gần hai trăm dặm đường, nên tôi có thể dành thời gian để đến thăm con, điều mà tôi không thể làm khi có một công việc bình thường. Tôi có thể lái xe suốt ba giờ đồng hồ chỉ để được ngắm thằng bé chơi một ván bóng chày khi trời đã sẫm tối, được ở bên cạnh con suốt những ngày cuối tuần hoặc chỉ để sắp xếp công việc sao cho phù hợp với thời gian biểu của con. Với mỗi ngày như thế trôi qua, dù tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi, những tôi tự thấy quãng thời gian ấy là một bài tập trị liệu rất tốt. Vì Jerry hiếm khi trả lời điện thoại những khách hàng quan tâm đến chương trình của tôi, nên giờ đây tôi chỉ có đủ công việc để sống qua ngày. Tôi biết vấn đề sẽ được giải quyết, đặc biệt là khi tôi đã dành dụm đủ tiền để mua được một cái giường xếp rẻ tiền và một cái mền đắp cho ấm. Mỗi ngày như thế trôi qua, tôi lại cảm thấy bản thân mình tốt đẹp hơn. Nhưng vẫn còn có một vấn đề cần phải giải quyết.

Một buổi sáng nọ, sau khi đi lễ về, tôi cầu nguyện để được Chúa chỉ lối dẫn đường trước khi quyết định gọi cho Patsy. Vài giờ sau, chúng tôi gặp nhau. Sau khi sống ly thân hơn một năm, tôi nợ cô ấy việc phải trút bỏ mọi gánh nặng ra khỏi trái tim của cả hai. Patsy xuất hiện với một bộ quần áo rất đẹp và rõ ràng là đã dành nhiều thời gian để trang điểm và chăm chút cho mái tóc. Vẻ ngoài của cô nhắc tôi nhớ lại một Patsy hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên. Tôi hít thật sâu, chuẩn bị nói những điều trong lòng mình đang nghĩ, nhưng rồi tôi cứ ngập ngừng chẳng nói được lời nào cả. Phải một lúc lâu tôi mới ấp úng được vài chữ:

- Anh muốn em biết rằng… anh cảm thấy vô cùng hối tiếc. - Patsy nhướn mắt nhìn tôi. - Anh đã sai… theo rất nhiều cách khác nhau, và anh mong em tha thứ cho anh.

Patsy chồm tới và nắm tay tôi:

- Có nghĩa là anh đã sẵn sàng để quay về với…?

- Không. - Tôi nói khẽ và ngoảnh mặt đi chỗ khác. - Anh xin lỗi. Anh không có ý gọi cho em và khiến em hiểu lầm. - Tôi lắc đầu. - Anh không thể làm điều đó với em, với Stephen. Ý anh là, chúng ta sẽ ổn trong thời gian đầu, nhưng rồi… anh sẽ lại làm hỏng mọi thứ.

Đột nhiên ngực tôi run lên. Tôi cảm thấy như mình đang mê sảng, và tôi có thể cảm nhận được rằng tôi sắp trượt khỏi cái ghế mình đang ngồi.

- David? David? - Patsy gọi. - Anh có sao không? Anh… Anh đang nói gì thế?

Tôi lại cúi gằm mặt và lắc đầu.

Trong lúc Patsy và tôi ngồi đó trong im lặng, xung quanh chúng tôi người ta cứ đi vào rồi lại đi ra khỏi cái sảnh của khách sạn, gọi thức uống, cười nói, hay theo dõi cái ti vi màn hình lớn.

Sau vài phút, tôi bỗng cảm thấy như mình sắp sửa òa lên khóc. Vẻ mặt của Patsy báo cho tôi biết rằng tôi không phải nói bất cứ điều gì cả.

- Anh nợ em quá nhiều. - Tôi nức nở. - Lẽ ra anh phải… anh nên đối xử với em tốt hơn. Anh… anh đã sợ hãi, lúc nào cũng vậy, anh sợ hãi những điều còn phía trước. Đó không phải là lỗi của em… Anh chỉ không thể tin tưởng em một cách trọn vẹn được, và anh vô cùng xin lỗi em vì điều đó. Thề có Chúa, anh biết mình là một thằng khốn nạn, và anh cầu mong em tha thứ. Anh đã làm em phát điên, và cứ mỗi lần em lên tiếng… thì anh lại gạt phắt đi. Làm sao mà anh có thể yêu em? Ý anh là làm sao mà anh có thể thực sự yêu em, trong khi anh lại luôn căm ghét chính bản thân mình? - Tôi vừa nói vừa thụi mạnh nắm đấm xuống bàn. - Anh đã làm sai quá nhiều điều, chính vì thế mà không bao giờ anh có thể tha thứ được cho bản thân mình. Lẽ ra anh nên ngừng lại và lắng nghe điều em thực sự muốn nói. Dù anh đã cố gắng chu cấp đầy đủ mọi thứ cho em, nhưng anh không bao giờ thực sự ở bên cạnh em cả.

- Vậy thì… - Patsy lau nước mắt và nói. - Em đoán như vậy có nghĩa là mọi chuyện giữa chúng ta đã kết thúc rồi phải không?

Tôi cắn môi, và gật đầu.

- Hãy nói ra đi. - Patsy van nài. - Hãy nói ra để em có thể sống tiếp cuộc đời mình. Em có thể chịu đựng được. Coi nào, hãy ra dáng một người đàn ông và nói cho em nghe đi.

- Patsy… - Tôi nuốt khan và nhìn vào mắt cô ấy. - Anh không xứng đáng để làm chồng em và anh nghĩ rằng chúng ta nên… chúng ta nên ly hôn.

Patsy nhắm mắt lại trước khi gật đầu ra hiệu đồng ý. Sau khi thấm khăn giấy lau nước mắt và chỉnh lại áo khoác, cô ấy mỉm cười và nói:

- Ừ thì, anh không thể đổ lỗi cho một cô gái chỉ vì cô ấy đã cố gắng được.

Tôi bật cười:

- Anh tự hào vì em. Thật đấy.

Chúng tôi dành ra khoảng thời gian còn lại của buổi chiều hôm ấy để nói về tất cả những vấn đề mà chúng tôi có thể nghĩ tới.

- Anh phải hiểu rằng Stephen sẽ sống với em. Em chỉ sống ở nhà còn anh thì đi công tác quá nhiều. Anh có thể gặp hay nói chuyện với thằng bé bất cứ khi nào anh muốn. Em sẽ không bao giờ đem thằng bé ra để lợi dụng bất cứ điều gì từ anh. Em nghĩ cả anh và em đều biết điều đó có nghĩa là thế nào. Em sẽ không làm thế với con trai của chúng ta.

Vấn đề là ở chỗ, - Patsy nói tiếp - với cả hai ta thì Stephen là điều tốt đẹp nhất của cuộc đời mình. Em chỉ muốn điều gì đó hơn thế, vậy thôi.

- Dù có gì xảy ra đi nữa, anh muốn chúng ta vẫn là bạn của nhau. - Tôi nói, và Patsy lập tức gật đầu.

- Ý anh thực sự là như thế đấy. Anh không có nhiều bạn bè, và anh nghĩ chúng ta thực sự xứng đáng để trao cho nhau điều đó. - Tôi ngừng lại để hít một hơi thật sâu. - Còn một chuyện nữa…

- Lạy Chúa! - Patsy thốt lên. - Đừng có nói với em rằng anh là người đồng tính đấy nhé?

Tôi bật ho trước khi có thể trả lời cô ấy:

- Không! Điều gì khiến em có suy nghĩ ấy?

- Ừ thì… - Patsy nói. - Em chỉ nghĩ thế thôi, ý em là, anh sống ở Guerneville cùng những chuyện đại loại như thế. Anh không ra ngoài. Một người vợ sẽ nghĩ gì đây? Anh bỏ em để đến sống ở đó…

Tôi gạt câu nói của cô ấy đi:

- Làm ơn, hãy lắng nghe anh đây này. Anh chỉ muốn em biết thôi, em đã nói đúng về văn phòng ở Lincoln. Anh đã phát hiện ra mọi chuyện cách đây vài tháng. Anh đã có một người quản lý tồi. Đó là lý do vì sao anh không nhận được nhiều đơn đặt hàng. Còn những quyển sách, chúng đã được “in”, có điều là chúng chưa bao giờ được xuất bản. Thậm chí chúng còn không có bản quyền nữa. Đó là lý do vì sao chúng không xuất hiện trong hiệu sách.

- Cả quyển Đứa trẻ lạc loài nữa ư? - Patsy hỏi. Cô ấy đang nói đến quyển sách thứ hai của tôi, quyển sách mà Jerry cứ khăng khăng bảo tôi viết. Tôi gật đầu. - Lạy Chúa! - Patsy buột miệng chửi. - Làm sao mà anh lại có thể ngu ngốc đến như thế, và cho phép quá nhiều người lợi dụng anh như vậy kia chứ? Anh là một người thông minh lắm mà, chắc em sẽ không bao giờ hiểu được anh nghĩ gì trong đầu.

Bất giác tôi nghĩ đến bản thân mình cách đây nhiều năm trước.

- Anh không biết. - Tôi đáp. - Từ lúc anh còn nhỏ … Anh chưa bao giờ có can đảm đứng lên và đòi lại công bằng cho mình. Lúc nào anh cũng quá đỗi nhút nhát. Thậm chí giờ đây, khi đã là một người trưởng thành, dù vấn đề anh phải đối mặt là lão Jerry ở chỗ văn phòng Lincoln, mua một cái xe hơi, tự bênh vực bản thân mình để không ai có thể chà đạp anh, hay, anh không có ý công kích em, nhưng ngay cả với em cũng vậy, anh cũng không thể làm được điều đó. Anh… anh rất dễ làm mọi việc vì người khác, nhưng không làm được như thế với bản thân mình.

- David. - Patsy thở dài. - Với em thì khác đấy… Em là vợ anh.

Tôi gật đầu, nhưng giống như tôi đang tự gật đầu với bản thân mình thì đúng hơn.

- Nhưng tất cả những điều đó giờ đã thay đổi rồi.

- Vậy anh sẽ làm gì đây? Kiện bọn họ ra tòa sao?

- Patsy hỏi, mắt lóe lên chút hy vọng.

- Không. - Tôi lắc đầu. - Đó không phải là chuyện tiền bạc, đó không bao giờ là chuyện tiền bạc. Anh không muốn nhận được một đồng xu cắc bạc hay một món lợi nào mà anh không bỏ công sức ra để có được nó trước. Đây là vấn đề danh dự. Điều tệ hại nhất mà anh có thể làm với bọn họ - với bất cứ ai đối xử tệ bạc với anh - là quyết định không dính líu gì đến họ nữa.

- Em nghĩ anh thật là ngu ngốc. Em thì em sẽ làm cho ra lẽ mọi chuyện. Vậy, anh sẽ làm gì để tự bảo vệ bản thân mình đây?

- Đơn giản lắm. - Tôi mỉm cười. - Không tin ai cả.

- Nếu anh làm thế, thì rồi anh sẽ trở thành một ông già cô độc, David Pelzer ạ.

- Anh biết. - Tôi thở dài. - Nhưng anh không thể để bản thân mình bị tổn thương thêm lần nào nữa.

- Em không biết anh nghĩ gì về em, em biết em đã trải qua rất nhiều chuyện cùng với anh, vui có, buồn có, nhưng em chưa bao giờ đối xử tệ với anh cả, David ạ. - Patsy nói.

- Anh biết, rồi mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Anh thề đấy, anh chỉ muốn em được hạnh phúc, chỉ có thế thôi.

- Ừ thì… - Patsy đáp ngay. - Em vẫn sống hạnh phúc đấy thôi. Ý em là…

- Anh biết. - Tôi xen vào. - Anh biết chuyện này được một thời gian rồi. Em có hạnh phúc không? Anh ta có tốt với em không? Với cả Stephen nữa?

- Có. - Patsy tươi cười. - Em đoán là anh có thể nói rằng cuối cùng thì em đã tìm được cho mình một chàng cao bồi thật sự.

- Và làm ơn, - tôi nài nỉ, - hãy cẩn thận. Anh không muốn Stephen phải chịu thêm bất cứ một tổn thương nào nữa.

- Vậy anh sẽ làm gì? Không một chút lưỡng lự, tôi đáp:

- Làm một người cha tốt và tiếp tục cố gắng. Anh sẽ không bỏ cuộc đâu. Anh sẽ làm việc cật lực và chờ xem chuyện gì đang chờ đợi mình phía trước.

- David, - Patsy xen ngang, - em không nói về công việc của anh, hay Stephen. Em biết anh sẽ là một người cha tốt. Nhưng anh hãy nghĩ đi, dù chỉ một lần trong đời thôi, còn anh thì sao? Anh sẽ làm gì với bản thân anh đây?

Trong một khoảnh khắc, tôi cảm nhận được tầm quan trọng trong câu hỏi của Patsy. Tôi chồm người tới trước, lúng túng:

- Anh không… anh cũng không biết nữa. Có lẽ chỉ đơn giản là sống cuộc đời mình hết ngày này qua ngày khác. Đó cũng là tất cả những gì mà anh có thể làm. Anh chỉ không muốn lặp đi lặp lại một sai lầm mãi.

Patsy lắc đầu vẻ không tin:

- Lạy Chúa, sau ngần ấy năm trời… anh vẫn mang trong mình nỗi hổ thẹn của bà ấy.

Tôi không trả lời. Tôi thực sự cảm thấy mình giống một người bị hủi khi phải sống thân thiết với bất cứ ai khác ngoài con trai tôi.

Khi chúng tôi đứng dậy ra về, Patsy và tôi ôm nhau.

- Anh sẽ luôn có một vị trí trong trái tim em, David Pelzer ạ. Anh là một người tốt, và vì Chúa, hãy sống vì bản thân mình một chút đi.

- Cảm ơn em, Patsy. Em không biết điều đó có ý nghĩa với anh như thế nào đâu. Anh cầu nguyện cho em mỗi ngày. Cầu Chúa phù hộ cho em, Patsy.

- Tạm biệt, David.

- Tạm biệt, Patsy.

Không lâu sau, chúng tôi làm đơn ly hôn. Chưa đến ba mươi ngày sau khi cuộc hôn nhân của chúng tôi chính thức kết thúc, Patsy tái hôn.

Ngoài Stephen và công việc, có thể nói tôi chỉ sống một mình. Nói chung thì tôi cảm thấy hài lòng. Vào một ngày đẹp trời nào đấy, nếu tôi cảm thấy mình thật sự xứng đáng với điều đó, tôi sẽ đi ra “ngoài kia” và tự thưởng cho mình một buổi xem phim ở rạp. Việc tự đứng ra làm ăn khó khăn hơn tôi nghĩ nhiều, tuy vậy tôi vẫn yêu thích từng giây từng phút được làm những điều mình thích. Sau khi mua lại bản quyền quyển sách của mình từ công ty Lincoln, tôi sớm tìm được hai nhà xuất bản muốn cho in và phát hành những quyển sách này. Mặc dù tôi biết mình sẽ ký được hợp đồng khá hơn với một nhà xuất bản ở New York, nhưng cuối cùng tôi đã quyết định ký hợp đồng với một nhà xuất bản nhỏ hơn ở Florida, một phần là bởi vì trong nhiều năm qua tôi đã rất ngưỡng mộ những quyển sách được viết bởi các tác giả của họ như John Bradshaw và Jack Canfield. Tôi cho rằng một nhà xuất bản nhỏ hơn sẽ có thể dành nhiều thời gian hơn cho việc tiếp thị và quảng bá những quyển sách của tôi.

Chỉ trong vòng vài tuần lễ, tôi đã nhận được một cú điện thoại từ một trợ lý biên tập, cô ấy tự giới thiệu mình là Marsha Donohoe. Chúng tôi đã nói chuyện về những thay đổi mà cô ấy muốn thực hiện, cũng như lịch trình xuất bản quyển sách đầu tiên của tôi. Sau khi gác điện thoại, tôi không thể không nghĩ đến chất giọng tuyệt vời của cô ấy. Trước khi tâm trí tôi đẩy mọi chuyện đi xa hơn, tôi gạt Marsha ra khỏi suy nghĩ của mình và vùi đầu vào công việc.

Thời gian trôi qua. Marsha và tôi càng thảo luận về từng trang sách, từng đoạn văn, phân tích từng câu chữ của quyển sách nhiều bao nhiêu, tôi càng cảm thấy mình say mê cô ấy hơn bấy nhiêu. Ngoài việc cô ấy là người có giọng nói ngọt ngào nhất mà tôi từng nghe, tôi còn trân trọng niềm đam mê mà cô dành cho công việc của mình. Tôi hiểu rằng các biên tập viên không thể dành quá nhiều thời gian cho một dự án riêng lẻ nào cả, vì họ còn phải hoàn thành nhiều bản thảo khác trong thế giới rộng lớn của ngành xuất bản, nhưng vì Marsha và tôi rất quan tâm đến câu chuyện của tôi, nên chúng tôi đã có lúc dành ra đến hơn một giờ đồng hồ chỉ để tranh luận về một câu duy nhất trong quyển sách. Một ngày nọ tôi nói với cô ấy:

- Tôi không muốn cô gặp rắc rối. Tôi không hiểu, trước giờ tôi vẫn luôn bị công kích vì đã cố gắng hết mình. Tại sao cô lại làm điều này?

Marsha đáp:

- Có thể tôi là người mới ở đây, nhưng tôi đã sống cùng với sách vở suốt cuộc đời mình. Và tôi phải nói cho anh biết điều này, quyển sách của anh vô cùng đặc biệt. Thề có Chúa, tôi không thể đặt nó xuống được. Thậm chí từ trước khi tôi gọi cho anh, tôi đã tin vào quyển sách này. Bằng tất cả tấm lòng mình, tôi tin vào những điều mà anh đang làm.

Giọng nói ngân lên vì phấn khích, Marsha tiếp:

- Anh có biết với quyển sách này anh có thể thay đổi cuộc đời của bao nhiêu con người không? Tôi không biết rõ lắm về anh, Dave ạ, nhưng tôi nghĩ anh là một con người tuyệt vời.

Tôi áp ống nghe vào tai mình mạnh đến mức tôi tưởng nó tóe máu đến nơi. Vì không quen được khen ngợi, tôi lập tức chế giễu cô ấy:

- Tôi cuộc là cô nói câu này với tất cả các tác giả khác!

Nhưng chỉ tích tắc sau, tôi nói tiếp:

- Ý tôi là, cô thực sự tin rằng tôi đang làm một điều đúng đắn ư?

Sau cuộc nói chuyện ấy, tôi cứ ngồi chết cứng trên ghế. Tôi không thể tin được là mình lại may mắn đến thế. Sau tất cả những cuộc đấu tranh kéo dài suốt thời gian qua, tôi đang được làm việc với một người có cùng những suy nghĩ như tôi.

- Cô ấy tin, - tôi tự nói lớn cho mình nghe. Marsha thực sự tin ở mình!

Tôi chưa bao giờ có ý định vượt qua giới hạn trong mối quan hệ giữa một biên tập viên và một người viết sách, nhưng tôi như lạc vào cõi mê mỗi khi được nghe từng câu từng chữ trong lúc Marsha và tôi trò chuyện với nhau trên điện thoại. Tôi rất dễ bị cuốn hút bởi cô ấy. Sau khi biên tập xong mỗi trang sách, chúng tôi sẽ tự thưởng cho mình bằng cách kể cho nhau nghe những mẩu chuyện hay vài trò đùa nào đó. Tôi nhanh chóng bị cuốn hút không chỉ bởi khiếu hài hước của Marsha, mà với cả đạo đức công việc cũng như lòng tự trọng của cô ấy. Thời gian dần trôi qua, khi cô ấy bắt đầu kể cho tôi nghe những khó khăn cũng như những nỗi thất vọng mà cô ấy phải đối mặt trong cuộc sống, tôi mới nhận thấy rằng cô ấy có ý chí mạnh mẽ đến dường nào. Marsha không bao giờ bỏ cuộc. Mỗi khi làm một điều gì đó, cô ấy đều cống hiến hết sức mình. Chúng tôi đã thỏa thuận một điều là chúng tôi có thể nói chuyện với nhau về bất cứ đề tài gì vào bất cứ lúc nào. Marsha đã trở thành một người bạn thực sự của tôi.

Thật không ngờ, vài tuần lễ sau khi chúng tôi đã hoàn thành được một phần công việc biên tập sách, tôi ngồi ngả người trên ghế, nhắm mắt lại và chầm chậm thở ra, lúc đó bỗng nhiên tôi tưởng tượng ra nụ cười của Marsha và cái cách mà cô ấy hất tóc mỗi khi cười. Trước khi có thể cho phép bản thân mình có được bất cứ cảm giác thoải mái nào, tôi đã chôn vùi tình cảm của mình. Tôi biết Marsha hoàn toàn vượt quá đẳng cấp của tôi. Cô ấy là con người tử tế và nhạy cảm nhất mà tôi từng biết, trong khi tôi là một gã dở hơi rác rưởi, che giấu sự bất ổn của mình đằng sau công việc và mấy trò đùa dở hơi.

Marsha chưa bao giờ bỏ cuộc đối với tôi. Vì trong sách có một vài phần miêu tả lại sự việc rất tượng hình, nên nhiều lần cô ấy không chịu nổi và khóc trong điện thoại. Một ngày nọ, khi vừa nghe tiếng cô ấy bật khóc, tôi gần như nuốt chửng lấy ống nghe như thể làm vậy sẽ được ở gần cô ấy hơn. Vì hơi bối rối nên lúc đó tôi đã buột miệng nói mà không kịp suy nghĩ:

- Mar, ổn cả thôi, không sao đâu em yêu, ổn cả thôi. Mọi việc xảy ra cách đây lâu lắm rồi. Nó đã qua rồi, đã qua rồi.

Ngay khi vừa thốt ra những lời này, tôi luống cuống chỉnh lại:

- Mar, nghe này, tôi xin lỗi. Tôi không có ý như thế… Tôi xin lỗi, tôi không có ý tỏ ra quá suồng sã như thế… làm ơn hãy quên những điều tôi vừa nói đi nhé. Làm ơn nhé?

- Không sao đâu, anh yêu quý. - Marsha thở dài.

- Quyển sách của anh đã trở thành đứa con của em. Và khi có ai đó chiếm giữ một vị trí quan trọng đến như thế trong trái tim em, thì em bảo vệ họ. Em chỉ mong sao mình có thể ở đó bên cạnh anh. Anh quá quý giá đối với em. Làm ơn đừng xin lỗi gì cả, chúng ta là bạn. Em đã đợi anh nói với em một điều gì đó…

- Anh, ừ thì… - Tôi ngập ngừng. - Anh… ừm… anh chỉ không muốn em khóc. - Tôi lắp bắp, lòng vẫn ngần ngại. - Anh chỉ không muốn em buồn mà thôi. Hãy tin anh đi, anh ổn cả. Anh chỉ không muốn làm em tổn thương, thế thôi.

- Dave, chúng ta đã làm việc với nhau được một thời gian rồi. Em biết anh trông như thế nào khi nhìn bìa sau quyển sách của anh, nhưng… liệu anh có thể gặp em không? - Marsha thầm thì.

Hãy gác máy ngay! Tâm trí của tôi như đang thét lên. Trước khi mày làm hỏng mọi việc và nói một câu ngớ ngẩn nào đó, hãy gác máy đi! Tay tôi siết chặt ống nghe hơn, và một nguồn năng lượng rỉ qua trái tim của tôi.

- Ừ… - Tôi nói khẽ vào ống nghe, phương thức giao tiếp duy nhất của tôi với Marsha. - Đôi lúc, vào ban đêm, khi mọi thứ đều tĩnh lặng, anh đi ra ngoài và nhìn ngắm những vì sao… Anh sẽ nhắm mắt lại…

- Tôi ngừng nói.

- Dave, làm ơn hãy nói tiếp đi. Em biết chuyện này rất khó khăn. Em biết anh đã phải vượt qua rất nhiều chuyện từ khi còn thơ ấu, tất cả những gì anh đang cố gắng làm, cuộc hôn nhân đổ vỡ của anh, con trai anh… nhưng hãy nói một điều gì đó đi, bất cứ điều gì. Em sẽ không làm anh tổn thương đâu, em hứa đấy, mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.

Tôi nhắm mắt lại và cầu nguyện cho Marsha tiếp tục nói. Sau đó, tôi thở dài và nói:

- Đôi lúc, vào ban đêm, trước khi đi ngủ… anh nhìn thấy em…

Chúng tôi nói chuyện điện thoại từ chín giờ tối hôm đó đến tận ba giờ sáng hôm sau. Sau đó, tôi như lạc vào một vùng xoáy sương mù màu xám đã bắt đầu yên vị trên những tán cây. Tôi đã biết mọi thứ về Marsha, rõ đến mức biết cách cô ấy thở như thế nào. Tôi ngước nhìn lên, cảm ơn Chúa.

Có thể, tôi tự nhủ với mình, có thể lắm chứ. Marsha và tôi bắt đầu hẹn hò qua điện thoại. Bốn tháng sau, khi tình bạn cũng như cảm xúc mà chúng tôi dành cho nhau trở nên mạnh mẽ hơn, chúng tôi quyết định rằng đã đến lúc gặp nhau.

Tôi vô cùng hồi hộp vào cái ngày mà Marsha sẽ bay đến gặp tôi. Tôi suýt chút đã gây tai nạn khi vừa lái xe vừa mơ màng nghĩ đến Marsha. Nhiều giờ đồng hồ sau, tại sân bay, tôi cứ chỉnh đi chỉnh lại quần áo của mình để trông thật hoàn hảo trong mắt cô ấy. Tôi cảm thấy mình giống như một cậu học sinh cấp III đang hẹn hò với một người mà mình chưa từng biết mặt, và sợ rằng cô ấy có thể nghĩ rằng trông tôi thật xấu xí, hay sẽ cười nhạo tôi nếu tôi nói câu gì đó ngớ ngẩn. Nhưng cho đến lúc này thì nỗi lo lớn nhất của tôi đó là biết đâu, sau tất cả những cuộc trò chuyện đêm khuya, những lời tán tỉnh lãng mạn, với hàng đống thư từ và thiệp mà chúng tôi đã gửi cho nhau, tôi sẽ lại chai cứng và không bao giờ để cho cô ấy gần gũi mình, như tôi đã làm với Patsy? Nhỡ đâu tôi không thể vượt qua được chính mình để cảm nhận về cô ấy theo cách mà tôi muốn? Với tôi thì chuyện này cũng giống như từ trước đến giờ nó vẫn thế: nhỡ đâu tôi không thể mở lòng mình ra với Marsha thì sao? Tôi bắt đầu hoang mang, và hình dung ra cảnh mình chuồn mất trước khi mọi chuyện bắt đầu trở nên quá rắc rối. Một phần trong tôi muốn vứt bỏ đóa hồng vàng mà tôi đang giấu sau lưng và chạy ra khỏi sảnh đón khách của sân bay. “Lạy Chúa,” - tôi tự nói với mình, “mày đang cố gắng đùa giỡn với ai vậy?”. Đầu cúi gằm, tôi thấy mình đang bước lùi một bước về đằng sau, rồi một bước nữa. Tôi nuốt khan, nghĩ rằng nếu tôi có làm thế thì sau cùng rồi Marsha sẽ hiểu - tôi không xứng đáng với một người quá tốt đẹp như cô ấy.

Khi tôi vừa quay đi, một ánh sáng lung linh chợt hút mắt tôi. Trong đoàn khách đang đi qua cổng của sảnh đón khách, tôi nhận thấy một con người nổi bật hơn hẳn. Ánh mắt quyến rũ của Marsha và mái tóc nâu vàng óng ả của cô ấy gần như đã làm tôi ngất đi. Với những suy nghĩ quay cuồng trong đầu, tôi hình dung ra cảnh mình bước tới và chìa tay ra để tự giới thiệu về mình cho phải phép. Tôi không muốn tỏ ra quá vồ vập hay để cô ấy biết là tôi muốn gặp cô ấy phát điên lên được.

Nhưng rồi tôi đã vứt bỏ nỗi e sợ đó của mình. Cút xuống địa ngục với cái suy nghĩ đó đi - tôi tự nhủ. Chúng tôi vụng về chạy về phía nhau, tay dang rộng. Tôi ôm chặt lấy Marsha và cảm nhận rõ tim nàng đang đập mạnh.

- Em thật không thể tin được điều này. - Marsha vừa khóc vừa nói, nước mắt lăn dài trên má.

Lúc này tôi đã bớt ngượng ngùng, tôi thì thầm:

- Xin chào, công chúa của tôi.

Trong khoảnh khắc đó, cả thế giới như ngừng lại.

Sau cùng, khi tôi đã ngắm gương mặt của Marsha thật lâu, thay vì hôn cô ấy, tôi nhắm mắt lại và miết ngón tay của mình dọc theo những đường nét trên khuôn mặt nàng, rồi xuống đến cổ.

Marsha áp mặt vào lòng bàn tay tôi và khẽ nói:

- Dù anh có làm gì đi nữa, thì cũng đừng buông em ra.

- Chuyện đó khó xảy ra lắm. - Tôi đáp.

Marsha gạt nước mắt và lắc đầu, rồi nói:

- Dave, em đã mơ về ngày hôm nay từ lâu lắm rồi. Đừng buông em ra.

Trong những ngày sau đó, Marsha và tôi quấn quýt nhau không thể tách rời. Chúng tôi ở bên cạnh nhau từng giây từng phút. Chúng tôi thường vừa uống cà phê vừa trò chuyện ngoài hiên nhà trong nhiều giờ liền. Trong khi tôi càng lúc càng bị nàng cuốn hút thì Marsha có vẻ như đang muốn thấu hiểu từng chi tiết của cuộc đời tôi, đến mức nàng cứ khăng khăng đòi tôi chỉ cho xem túp lều nơi tôi thường ở khi nghỉ hè lúc còn bé. Chúng tôi đứng ôm nhau, cùng ngắm mặt trời lặn sau hàng cây tùng bách khi bầu trời chuyển từ màu xanh lam sang cam. Từng giờ đồng hồ trôi qua, tôi thấy mình đang lột bỏ dần những lớp áo giáp phòng thủ mà tôi đã khoác lên từ nhiều năm trước, đó là cách tôi tự vệ sau nhiều năm tự tranh đấu với chính mình. Marsha trở thành người duy nhất tôi có thể trải lòng.

Những ngày tươi đẹp này trôi qua mới chóng vánh làm sao. Vào hôm trước khi Marsha quay về nhà, tôi bắt đầu có ý muốn níu kéo. Với tôi, có một thực tế phũ phàng đó là Marsha sống cách xa tôi hàng ngàn dặm - với một công việc, một gia đình tuyệt vời, và một cuộc đời thực. Tôi không muốn cô ấy phải vướng vào cái thế giới đã méo mó biến dạng của tôi. Dù rất muốn được ở bên cạnh cô ấy, nhưng tôi nghĩ cách duy nhất để giữ được tình bạn đẹp giữa chúng tôi, là hãy để cô ấy được tự do.

Chúng tôi cùng ra vườn ngồi. Sau khi khuấy tách cà phê đã nguội lạnh trong bầu không khí im lặng được một lúc lâu, Marsha hất tóc sang một bên và hỏi tôi:

- Dave, có phải là tại em không? Có phải do em đã tiếp cận anh quá thân mật không?

Tôi gần như bật khóc. Tôi lắc đầu trả lời:

- Không, không phải em đâu. Đó chỉ là… là tại anh. - Tôi lắp bắp trả lời rồi nuốt khan. - Anh chỉ không muốn làm em tổn thương, thế thôi.

Marsha chồm người tới trước nắm lấy tay tôi và gặng hỏi:

- Có chuyện gì vậy Dave? Chuyện gì lại làm anh sợ hãi đến thế? T

ôi nhắm chặt mắt lại. Áp lực trong tôi đã trở nên quá lớn đến mức tôi không thể kìm nén thêm được nữa. -

Em! - Giọng tôi nghèn nghẹn. - Anh sợ em đến chết mất! Anh không thể, không thể… thậm chí là không dám nhìn em! Anh không thể làm được điều ấy. Ý anh là, em quá tốt đẹp, quá tốt đẹp đối với anh.

Marsha tựa lưng vào ghế, lặng đi. Tôi nghẹn ngào:

- Vì Chúa, hãy nhìn em mà xem. Em quá hoàn hảo, một con búp bê bằng sứ. Em quá tuyệt vời! Em không nói dối, lừa gạt hay ăn cắp. Em không có chút tì vết nào. Trong đầu em không bao giờ có ác ý. Em tin vào Chúa và luôn cố gắng hết sức mình. Em có giáo dục, em không phàn nàn hay đổ lỗi cho người khác khi mọi việc không xảy ra theo ý em muốn. Em không có vết nhơ nào trong quá khứ. Coi nào. Anh đang chờ em lột bỏ lớp mặt nạ của mình đây. … Em quá hoàn hảo. Anh biết anh là ai và thuộc về nơi nào. Em quá tốt đẹp đối với một người như anh. Anh xin lỗi, nhưng anh không… Anh không xứng đáng được ở bên cạnh em…

- Đừng nói như thế. - Marsha van nài. - Anh đã mang cái cảm giác mặc cảm này suốt cuộc đời mình rồi. Anh không hiểu sao? Đó không phải là lỗi của anh! Anh không có lỗi trong chuyện này. Em là người trưởng thành rồi. Em có thể chịu được. Em biết tất cả, tất cả mọi thứ về anh, và em vẫn ngồi đây đó thôi. T

ôi quay mặt đi, và lần đầu tiên kể từ khi biết Marsha, tôi cao giọng với cô ấy: -

Em không hiểu sao? Bà ngoại anh ghét anh, mẹ anh thì đã cố giết chết anh. Anh đã đẩy Patsy đến bờ vực… Nếu em đến quá gần anh… thì có thể vì lý do nào đó mà anh cũng sẽ phá hoại cả cuộc đời em. Tôi thở dồn dập một cách khó nhọc. - Anh thà ngừng lại trước khi mọi chuyện trở nên quá nghiêm trọng, để có thể giữ được em bên cạnh, như một người bạn. Anh chỉ đang cố gắng cứu giữ những gì chúng ta có. Em rất có ý nghĩa đối với anh. Em quan trọng với anh đến mức anh không thể để mất em được. Em xứng đáng được hạnh phúc, và nếu em cứ dính dáng với anh…

- Quá trễ rồi. Em đã bước vào cuộc đời anh rồi. Em biết mình đang phải đối mặt với điều gì. Trước đây em đã từng gặp những chuyện chẳng hay ho gì. Em đã hẹn hò với những kẻ vô lại. Em chưa được gặp một người nào như anh cả. Chẳng lẽ anh không thấy anh quý giá với em như thế nào ư?

Tôi lắc đầu.

- Anh thì sao chứ, Dave? Thế anh nghĩ anh xứng đáng với điều gì? - Marsha hỏi. - Lạy Chúa, suốt cuộc đời mình anh đã làm việc cật lực, bị lợi dụng; anh đã phải hứng chịu những điều tồi tệ và khốn nạn nhất trên đời này, và anh vẫn đứng dậy được, tiếp tục tiến về phía trước như thể chẳng có gì xảy ra cả. Anh không bao giờ bỏ cuộc! Anh thì làm sao chứ? Anh xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Em chưa từng thấy ai làm việc chăm chỉ như anh. Hãy xem anh đã hy sinh tất cả những gì có thể cho con trai mình. Em chưa bao giờ thấy bất cứ bậc làm cha làm mẹ nào bao bọc đứa con của mình bằng nhiều tình thương như anh. Phải, anh có một cuộc hôn nhân tồi tệ, nhưng việc này xuất phát từ cả hai phía. Phải có hai người mới có thể phá hỏng một cái gì đó trong một cuộc hôn nhân. Anh không phải là người duy nhất chịu trách nhiệm cho sự đổ vỡ này. Có lẽ anh không thể yêu cô ấy được là do cô ấy đã phá vỡ niềm tin của anh. Em sẽ không nói với anh em nghĩ gì về cô ấy đâu! Anh đã quá cao thượng, quá vị tha và đổ lỗi cho bản thân mình quá nhiều. Anh là một người bị tổn thương nặng nề nhất mà em từng biết. Dave thì sao chứ? Khi nào thì Dave sẽ được hạnh phúc? Anh xứng đáng, Dave ạ, anh xứng đáng được hạnh phúc. Khi nào thì sẽ đến lượt Dave chứ?

Tôi tiếp tục lắc đầu.

- Có những sai lầm… mà không bao giờ có thể bù đắp được.

- Là bà ấy, có phải không? - Marsha hỏi. - Anh không thể không nghĩ về bà ấy, có phải không?

Tôi gật đầu:

- Từng ngày trôi qua, - tôi bắt đầu thổn thức, - anh đã cố gắng, anh đã thực sự cố gắng, nhưng nó giống như một cái gì đó cứ kéo anh lại và anh không thể thoát ra được - dù anh có làm gì và có cố gắng đến đâu đi chăng nữa. Đôi lúc, khi anh đang diễn thuyết, giải thích cho người ta hiểu điều gì đã xảy ra giữa mẹ và anh, việc này giống như anh đang tìm kiếm, đang đào xới một mảnh vỡ của một chuyện mà lẽ ra anh đã có thể làm… bất cứ điều gì để thay đổi tất cả những chuyện đã xảy ra với cuộc đời anh… ngoại trừ Stephen. Giống như… nó là một trong những lý do vì sao anh lại ở đó. Giá mà anh có thể tìm thấy…

- Không, - Marsha cắt ngang lời tôi. - Anh phải quên bà ấy đi. Đó không phải là lỗi của anh khi…

- Không, lẽ ra anh có thể…

- Lạy Chúa. - Như không kìm nén nổi, Marsha thét lên. - Mẹ anh bị điên! Anh không thể làm gì để ngăn bà ấy được cả!

Trống ngực tôi vẫn đập liên hồi, tôi điên cuồng lắc đầu:

- Em sai rồi. Anh có thể…

- Có thể làm gì? - Marsha bác lại.

- Làm ơn đi. - Tôi van nài. - Đừng đẩy mọi việc đi quá xa. Anh thực sự không muốn nói về chuyện này.

- Không! Chúng ta sẽ đối mặt với nó! - Marsha kiên quyết. - Tất cả những gì anh làm là cho đi. Anh sẽ tự cắt cổ tay mình nếu anh nghĩ việc này sẽ giúp được một ai đó. Hãy suy nghĩ một chút thôi và tự giúp bản thân mình đi. Em đây. Em ở đây vì anh, anh yêu ạ. Lúc đó anh chẳng thể làm gì cả. - Marsha xích lại gần hơn để ôm tôi, nhưng trước khi những ngón tay của cô ấy có thể chạm vào vai tôi, tôi giật người ra.

- Em không hiểu, em không có ở đó. Anh đã có thể làm được một điều gì đó! Đó là phần tệ nhất của mọi việc. Anh không bao giờ nói không. Anh không bao giờ đứng lên để đấu tranh cho bản thân mình. Em không hiểu sao? Lẽ ra anh đã có thể chấm dứt chuyện đó. Nhưng anh đã để mọi chuyện đi quá xa. Cái ngày mà bà ấy… bà ấy đâm anh, anh chỉ biết đứng yên ở đó, cứ như thể anh đang cầu xin bà làm chuyện ấy vậy. Các anh em của anh sẽ không bao giờ để cho bất cứ điều gì đại loại như thế xảy đến với họ, anh có thể nói chắc chắn như thế qua ánh mắt của họ. Nhưng anh thì lại để chuyện điên rồ đó xảy ra. Anh luôn như thế. Anh đã nuốt dung dịch amoniac ngay trước mặt cha mình. Khi anh lau chùi nhà tắm với hỗn hợp dung dịch amoniac và Clorox, cổ họng anh bỏng rát như có lửa đốt. Thậm chí anh còn ăn cả phân chó khi bà ấy đang ở phòng bên kia. Lúc đó anh chỉ cần vứt nó vào máy nghiền rác, và bà ta sẽ không bao giờ biết…Thế nhưng anh vẫn ăn, anh đã làm tất cả những điều bà ấy muốn. Anh chưa bao giờ đấu tranh vì bản thân mình. Lúc đó anh chỉ cần ngăn bà ấy lại… dù chỉ một lần thôi. Có thể chỉ một lần thôi và điều đó sẽ thay đổi mọi thứ. - Nước mắt tôi bắt đầu rơi lã chã xuống mặt bàn gỗ. - Lẽ ra anh đã có thể ngăn bà ấy lại. Thế mà…Anh chưa bao giờ… chưa bao giờ nói không.

Marsha cũng bắt đầu khóc. Khi tôi bưng mặt lại để che giấu nỗi