← Quay lại trang sách

Chương 10

Nhà tang lễ Coakley & Ashton đã phục vụ các gia đình tại Greater Boston hơn hai mươi bảy năm. D.D. từng hai lần ghé thăm cơ sở này, một kiến trúc cổ thời Thuộc Địa sơn trắng, trông thanh nhã. Một lần là đưa tang một người bạn, một lần nhằm vinh danh một sĩ quan đồng nghiệp. Trong cả hai lần, cô đều kinh ngạc vì cái mùi nồng nặc của những đóa hoa tươi và xác được bảo quản. Có thể đây không phải là điều một thanh tra án mạng nên thú nhận, nhưng các căn phòng của nhà tang lễ khiến cô rùng mình.

Có thể đơn giản vì cô hiểu quá rõ cái chết, nên chuyện nhìn nhận nó tại một nơi được khử trùng kĩ lưỡng như thế này khiến cô thấy xa lạ. Như thể gặp lại một người tình cũ thất lạc đã lâu, nhưng anh ta không còn giống người tình trong ký ức.

Giám đốc nhà tang lễ, Daniel Coakley, đang chờ cô đến. Một quý ông nhiều tuổi với đôi bờ vai rộng và mái tóc trắng dày bù xù, ông ta mặc bộ comple màu xám than cắt may chuẩn đến từng li, toát lên thần thái điềm tĩnh nhằm xoa dịu các thành viên gia đình đang phiền muộn và khích lệ những người thân quen.

D.D. bắt tay vị giám đốc, rồi đi theo ông ta qua tiền sảnh lát gỗ ván, dọc theo hành lang trải thảm đỏ sẫm màu dẫn đến văn phòng. Trái ngược với không khí u sầu, cổ điển của toàn bộ chốn này, văn phòng của Coakley sáng sủa và hiện đại đến kinh ngạc. Các ô cửa sổ lớn nhìn ra không gian chung mọc đầy cỏ, các giá sách ốp sát tường sơn trắng, một bàn làm việc bằng gỗ thích nhuộm màu tự nhiên, trên bàn là chiếc laptop tối tân kín đáo.

D.D. gần như có thể cảm thấy mình bắt đầu thở lại được bình thường, tất nhiên ngoại trừ những bó hoa ở đâu cũng có đang nằm trên bậu cửa sổ.

“Hoa lay ơn.” Cô nhận xét. “Chỉ có tôi thấy, hay chúng xuất hiện trong hầu hết các bó hoa tang lễ?”

“Loài hoa này ngụ ý sự tưởng nhớ.” Coakley cho biết “Thế nên chúng là lựa chọn phổ biến trong các lễ tang. Nó còn tượng trưng cho tính cách mạnh mẽ, danh dự và lòng trung thành, những điểm rất liên quan đến tang lễ.”

D.D. gật đầu, rồi hắng giọng, không biết nên bắt đầu từ đâu. Coakley dành cho cô một nụ cười khích lệ. Cô có cảm giác ông ta đã quen với những vị khách khó chịu và những câu hỏi vụng về. Nhưng vẫn chẳng giúp được gì.

Cô bắt đầu bằng những điều cơ bản, khẳng định rằng Coakley & Ashton là một công ty thế hệ thứ ba, với Daniel đóng vai trò vừa là giám đốc lẫn nhân viên ướp xác chính. Hóa ra, những người ướp xác phải theo học tại trường dạy về tang lễ cũng như hoàn tất khóa học nghề kéo dài một năm mới được cấp phép hành nghề. Giờ mới biết, hay thật.

Công ty này cũng bao gồm ba nhân viên làm toàn thời gian và năm nhân viên làm bán thời gian, hỗ trợ các công tác hành chính, chuẩn bị cho tang lễ, thậm chí có thể làm một chân hộ tang bên quan tài, đại loại vậy. Điều đó thu hút sự chú ý của D.D.

“Làm sao ông quen biết các nhân sự này?” Cô hỏi, nhoài người về phía trước. “Điều gì đã mang họ đến với công việc này?”

Coakley cười nhăn nhở. “Ý cô là tại sao họ lại muốn làm việc tại nhà tang lễ chứ gì?”

D.D. không nao núng. “Chính xác.”

“Các nhân viên làm bán thời gian này đều là các thành viên cộng đồng lớn tuổi, đã về hưu. Nhiều người đang ở vào giai đoạn có nhiều trải nghiệm với các đám tang, và tôi nghĩ họ cảm thấy lý tưởng khi góp phần giảm nhẹ gánh nặng quá trình này cho người khác. Hầu hết họ đều là người nhiều tuổi, khá thú vị. Và tôi phải nói rằng, phần lớn các gia đình đến với chúng tôi đều thấy được an ủi khi có sự hiện diện của họ.”

“Còn các nhân viên làm toàn thời gian của ông?”

“Tôi có một thư ký làm việc cùng tôi mấy chục năm rồi. Tôi nghĩ cô ta sẽ là người đầu tiên nói rằng khi đến phỏng vấn xin việc, cô ta đã sửng sốt trước ý tưởng làm việc trong nhà tang lễ. Nhưng như cô ta nói rõ, trả lời điện thoại là trả lời điện thoại. Ngoài ra, các nghĩa vụ ướp xác ở hậu thất không có liên quan gì, chúng tôi không khác biệt với bất kỳ ngành nghề nào khác. Chúng tôi duy trì xe ô tô của công ty, quản lý một văn phòng công ty.” Ông ta ra hiệu chỉ không gian xung quanh. “Chúng tôi trả lương, đóng thuế. Đó là kinh doanh, và hầu hết nhân viên của tôi có khả năng làm việc cho tôi vì cùng một lý do như khi họ làm việc tại bất kỳ đâu. Đó là một công việc tử tế tôi đối xử với họ rất tốt, và họ cảm thấy mình được quý trọng.”

D.D. gật đầu, hiểu quan điểm của ông ta, ngay cả nếu cô không hoàn toàn tán thành. Coakley có thể nói công ty của mình là một ngành kinh doanh như bất kỳ ngành nào khác, thế nhưng ông ta ngày nào cũng đương đầu với cái chết. Hầu hết các công ty không thể nói như thế. Nhiều người sẽ không dễ chịu với điều đó.

“Có lẽ ông có thể dẫn dắt tôi hiểu qua quá trình này.” D.D. nói: “Ông nhận một cuộc gọi. Có người vừa chết. Rồi thì sao?”

“Người quá cố được vận chuyển đến cơ sở của chúng tôi.”

“Bằng cách nào?”

“Bằng rất nhiều phương tiện. Chúng tôi có chuyên môn tiếp nhận thi hài ở các bệnh viện địa phương. Hoặc có các công ty dịch vụ nhà xác chuyên nghiệp chuyên về vận chuyển, đặc biệt là trên các quãng đường dài. Chẳng hạn, tang lễ có thể tổ chức tại Boston nhưng người quá cố qua đời tại Florida. Thế nên phải vận chuyển thi thể từ đó đến đây, nằm ngoài phạm vi chuyên chở của chúng tôi.”

D.D. ghi chép lại. Các công ty dịch vụ nhà xác. Nhiều người hơn, các nhân viên thoải mái khi dành nhiều giờ bất kể khi nào làm bạn với xác chết. Có thể vài người trong số này từng nhận việc này vì đúng lý do đó thôi không? “Tiếp theo thì sao?”

“Tôi sẽ gặp gỡ gia đình, quyết định những mong muốn của họ đối với đám tang. Quan tài hở, quan tài kín, rồi hỏa thiêu. Dĩ nhiên các lựa chọn của họ tác động đến bước quan trọng tiếp theo, quá trình ướp xác.”

“Ông sẽ chuẩn bị một thi thể như thế nào?” D.D. không thể kiềm chế cô nhoài người về phía trước, dỏng hết tai lên nghe trong sự hiếu kỳ không lành mạnh.

Daniel Coakley mỉm cười, nhưng lần này yếu ớt hơn. Rõ ràng ông ta từng được hỏi câu này rồi, chắc chắn là tại rất nhiều buổi tiệc cocktail, bởi những người vừa thấy thú vị vừa khiếp sợ.

“Về cơ bản, quá trình ướp xác liên quan đến việc rút hết máu ra ngoài, thay bằng dịch ướp xác. Rạch vài đường nhỏ trong các động mạch chính. Tiếp theo bơm dung dịch formaldehyde vào các tĩnh mạch, đẩy máu ra ngoài trong khi thay bằng dịch ướp xác.”

“Ông có chuẩn bị xác trước khi bắt đầu quá trình ướp xác không?” D.D. hỏi: “Chẳng hạn như rửa xác?”

“Không. Ướp xác có thể diễn ra khá lộn xộn. Về phần tôi, tôi sẽ đợi đến phút cuối. Bấy giờ, tôi sẽ tắm toàn bộ thi thể.”

“Ông có ưa thích dùng các dung dịch làm sạch đặc biệt nào không? Các sản phẩm thương mại chẳng hạn?” Cô lại đang nghĩ đến các hiện trường vụ án. Những phòng ngủ gần như sạch bong đến khó tin.

Coakley nhún vai. “Tôi sử dụng loại xà phòng kháng khuẩn cơ bản. Không làm hại mô, không ảnh hưởng đến da tay.”

D.D. lại vội viết lời ghi chú nữa. Xà phòng kháng khuẩn, như các dấu vết mà bác sĩ pháp y đã phát hiện trên thân người nạn nhân đầu tiên. “Còn sau đó?” Cô dấn tiếp. “Tôi tưởng tượng căn phòng cũng phải được làm sạch?”

“Quá trình diễn ra trên một cái bàn ướp xác bằng thép không gỉ, rất tương đồng với cách các bác sĩ pháp y sử dụng để khám nghiệm tử thi. Tất nhiên nó bao gồm đường thoát nước riêng. Sau đó, chúng tôi đưa nước vào rửa sạch bề mặt bàn, rồi khử trùng bằng thuốc tẩy. Nó không hề phức tạp mà rất hữu ích vào những lúc chúng tôi đặc biệt bận rộn.”

D.D. bặm môi, cân nhắc. Vào giữa đêm, cô tập trung vào một suy nghĩ rằng kẻ sát nhân của họ thoải mái nhất với người chết. Và khi cô nghĩ đến người chết, cô nghĩ ngay đến các nhà tang lễ. Có thể là một kẻ ướp xác, kẻ có kinh nghiệm kỹ thuật được đào tạo bằng một con dao mổ như là một phần việc học được trong trường đào tạo tang lễ. Đó là còn chưa kể kỹ năng dọn sạch hiện trường tội ác của kẻ sát nhân khiến cô thắc mắc về các sản phẩm đặc biệt có thể được các nhà tang lễ sử dụng, nhằm loại bỏ hết mọi dấu vết của máu và các dịch thể. Thật thú vị.

“Tôi hỏi một câu được không?” Coakley bất ngờ lên tiếng.

“Tất nhiên.”

“Điều này có liên quan gì đến vụ Sát Thủ Hoa Hồng không?”

“Cái gì cơ?”

“Sát Thủ Hoa Hồng. Trích dẫn trang nhất của tờ Boston Herald, mà có thể các thanh tra tận tâm chẳng bao giờ đọc.”

D.D. nhắm mắt lại. Nhưng tất nhiên rồi. Sở Cảnh sát Boston đang cố gắng hết sức giữ kín các chi tiết của vụ án mạng đầu tiên khỏi cánh truyền thông. Cô hẳn phải biết họ chẳng bao giờ gặp may đến hai lần.

“Tôi có muốn biết tờ Herald nói cái gì không ư?” Cô hỏi, liếc xéo sang bằng một bên mắt. “Hay chính xác hơn là có bị đắm chìm vào chi tiết hình họa sinh động trên toàn trang nhất không ư?”

Coakley ném sang cô cái nhìn thông cảm. “Bài viết cho rằng đã có đến hai nạn nhân. Họ đều bị hung thủ hạ sát ngay trên giường ngủ, để lại một bông hồng trên bàn cạnh giường ngủ, như một kiểu người tình lầm lạc.”

“Còn gì nữa không?”

“Ý cô là còn chi tiết nào khác ngoài chuyện bị lột da sống ấy hả?”

“Không phải sống đâu!” Quá muộn mất rồi, D.D. nhận ra mình không nên trả lời như thế. Rồi nghĩ lại, Coakley là giám đốc nhà tang lễ, đâu phải phóng viên. “Chờ đã, giữa ông và tôi thôi nhé, tôi chưa bao giờ nói thế. Nhưng việc lột da diễn ra sau khi các nạn nhân đã chết. Đó là một trong những lý do tôi đến đây. Chẳng có gì quá đặc biệt cả, hung thủ của chúng ta... Hay phải nói là, hầu hết thời gian hắn ở bên cạnh nạn nhân của mình là sau khi họ đã chết. Gần như phần giết người là bất đắc dĩ vậy. Chủ yếu là hắn ta, hoặc cô ta, muốn một xác chết.”

“Chứng loạn dâm với xác chết à?” Coakley lẩm bẩm.

“Không có dấu hiệu tấn công tình dục.” D.D. cung cấp thêm. Đâm lao thì phải theo lao.

“Chính vì thế nên cô đã nghĩ đến các giám đốc nhà tang lễ. Bởi vì rõ ràng những người dành cả cuộc đời mình đi ướp xác luôn có hứng thú bệnh hoạn với xác chết.” Coakley điềm tình nói ra những lời này.

D.D. có đủ lý do để đỏ mặt.

“Tôi biết.” Cô đáp. “Cũng giống hệt những người dành cả đời điều tra án mạng thì hẳn là có hứng thú bệnh hoạn với bạo lực.”

“Chí ít, chúng ta hiểu nhau.”

“Thì đúng mà.”

“Cô có biết, để trở thành một giám đốc nhà tang lễ tốt thì cần điều gì không, Thanh tra Warren?”

“Có lẽ là không.”

“Lòng trắc ẩn. Sự thấu cảm. Tính kiên nhẫn. Vâng, một phần công việc của tôi liên quan đến sự chuẩn bị đem chôn một thi thể, một quá trình đòi hỏi nhiều năm được đào tạo về kỹ thuật, nhưng phải nói thật, là cả nghệ thuật nữa. Những người ướp xác giỏi có đánh giá về tỷ lệ phần trăm formaldehyde, cũng như trang điểm phần nền mang tính thực tế nhất. Nhưng chúng tôi không theo đuổi phong cách trừu tượng. Mục tiêu của chúng tôi là biến một thứ u buồn, quá sức chịu đựng và thường là ghê sợ đối với một gia đình thành cái gì đó nhẹ nhàng, dễ chịu. Ngày ngày tôi đều phải đối đãi với những người đang ở vào trạng thái dễ tổn thương nhất. Có người rất dễ khóc lóc, nhưng những người khác thì lại hay giận dữ. Công việc của tôi đó là nắm chặt tay từng người trong số này, nhẹ nhàng dẫn dắt họ trải qua phần khởi đầu trong quá trình đau khổ của họ. Huy động hết lòng trắc ẩn, sự thấu cảm và tính kiên nhẫn. Bây giờ, gạt chuyện mức độ thoải mái của tôi với các tử thi qua một bên, đối với cô, nghe tôi nói có giống kẻ sát nhân không?”

D.D. lại đỏ mặt. “Không.”

“Cảm ơn cô.”

“Nhưng...”

Daniel Coakley nhướng đôi lông mày. Lần đầu tiên, ông giám đốc nhà tang lễ có vẻ không chỉ ngạc nhiên, mà ông ta có lẽ còn sắp bực mình. “Nhưng cái gì?”

“Những nét tiêu biểu ông vừa mô tả. Đó là những gì cần thiết để trở thành một giám đốc nhà tang lễ tốt. Có thể tôi đang tìm kiếm một kẻ xấu xa.”

Coakley nhăn nhó nhìn cô. “Hoặc có thể là...” Ông ta đột ngột đáp. “... Một kẻ thất bại. Tôi không thể nói việc này xảy ra thường xuyên, nhưng thi thoảng tôi lại có một thợ học việc rõ ràng thiếu hụt... những kỹ năng tương tác cá nhân cần thiết cho công việc này.”

“Thế ông đã làm gì?”

“Chấm dứt hợp đồng.”

“Ông còn giữ các hồ sơ không?”

“Làm ơn đi. Tôi chỉ có thể nghĩ đến một người như thế, và là người cuối cùng tôi biết, cô ta đã bỏ sang trường dạy nấu ăn và đang làm việc rất tốt. Căn cứ theo phạm vi điều tra của cô, tôi nghĩ cô nên quăng một mẻ lưới rộng hơn, đỡ phải đi từ nhà tang lễ này đến nhà tang lễ khác.”

“Ông có gợi ý gì không?”

“Các trường đào tạo ướp xác. Có hai trường như thế tại Boston. Để xem họ có sẵn lòng chia sẻ tên tuổi các sinh viên bị trượt không. Tôi cũng có thể đi nghe ngóng xem sao. Chúng tôi là một ngành rất khép kín. Nếu có một cái tên đặc biệt, hay như bên các cô hay gọi là kẻ tình nghi, mà cô muốn biết thông tin, tôi có thể gọi cho vài người.”

“Cảm ơn ông.”

“Chúng tôi không phải là một bầy ma đâu.” Coakley nhẹ nhàng nói khi D.D. đứng dậy.

“Tôi không có ý đó.”

“Nhưng thi thoảng chúng tôi hấp dẫn những kẻ có tri giác của loài ma.”

“Chuyện đời tôi.” D.D. trấn an ông ta.

Coakley mỉm cười yếu ớt, rồi lặng lẽ nhưng kiên quyết, hộ tống cô ra cửa.