← Quay lại trang sách

Chương 12

D.D. kết thúc cuộc gọi. Cô nhìn chằm chằm nữ bác sĩ khi bỏ điện thoại di động vào túi áo.

“Làm sao cô biết cái tên đó?” D.D. hỏi, thấy nghi ngờ.

“Ông ta là cha đẻ của tôi.”

“Harry Day? Kẻ sát nhân hàng loạt à?”

“Khi ông ta chết tôi mới được một tuổi. Không thể nói rằng tôi từng biết người đàn ông này, đúng hơn là nhiều năm sau tôi mới biết đến ông ta. Hôm nay tôi có xem báo, Thanh tra Warren, gồm cả bài viết về vụ án mạng tối thứ Hai. Tôi không thể không thắc mắc.”

D.D. tiếp tục dò xét chuyên gia về đau đớn của mình. Adeline đứng trên ngưỡng cửa ngăn giữa hai căn phòng, trông điềm tĩnh, bình thản hơn bao giờ hết. Quần âu màu nâu trầm, áo cổ lọ vải cashmere màu quả việt quát. Mái tóc nâu dài buông chấm vai của cô ấy hôm nay đã bớt đẹp, thoa tinh dầu bóng gần hợp tông với đôi bốt da rõ là hàng đắt tiền. Ngay cả khi ở tuổi bốn mươi, mạnh khỏe, thành đạt với một chùm chức danh sau tên gọi, người phụ nữ đứng trước mặt cô có vẻ giống người mẫu thời trang hãng Ann Taylor hơn là con gái kẻ sát nhân hàng loạt khét tiếng.

“Chúng ta sẽ phải nói chuyện đấy.” D.D nói, quay vào văn phòng.

Nữ bác sĩ liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Chị còn mười phút nữa.”

“Thời gian của tôi hết rồi. Thời gian của cô thôi.”

Adeline chỉ nhún vai. “Nói thật, Thanh tra ạ, ngoài cái tên ra, tôi chẳng cho chị biết thêm được gì nhiều về Harry Day đâu.”

“Thôi nào bác sĩ. Cô có chuyên môn, tôi cũng có vậy. Ta bắt đầu chứ?”

D.D. ra hiệu về phía phòng làm việc bên trong. Nhún vai cái nữa rồi Adeline quay vào và D.D. theo sau. D.D. đang suy nghĩ rất nhanh, chỉnh đi chỉnh lại những mong đợi của mình. Xét đến tính nghi lễ của hai vụ án mạng, cô cho rằng họ sẽ gặp may với Chương trình Nghiên cứu Tội phạm Trọng án. Nhưng việc so sánh các vụ án mạng hiện tại với một chuỗi các vụ giết người bốn mươi năm trước, kẻ sát nhân qua đời đã lâu, được xem là phức tạp hơn nhiều so với diễn biến thật sự. Có lẽ họ đang săn tìm một kẻ bắt chước, có Chúa mới biết ngày nay những kẻ sát nhân hàng loạt còn thu hút người hâm mộ đông đảo hơn cả những ngôi sao điện ảnh. Căn cứ vào số lượng trang web, các phòng chat được lập ra để tôn vinh những kẻ tâm thần thì chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Nhưng chuyện nàng bác sĩ mới của cô, một chuyên gia về đau đón cô mới chỉ gặp có hai lần, lại tự động biết tên kẻ sát nhân, thậm chí có mối quan hệ cá nhân với hắn... Chi tiết này đã vượt qua ranh giới trùng hợp ngẫu nhiên trong cuốn sách của D.D. và bước vào lãnh vực rùng rợn.

D.D. không ngồi ở chỗ thường lệ cô vẫn ngồi mà chọn cách đứng đối diện Adeline, cánh tay và vai trái đau nhức của cô tựa sát vào tường.

“Kể tôi nghe về cha cô đi.” D.D. nói.

“Tiến sĩ Adolfus Glen.” Adeline bắt đầu.

D.D. trợn tròn mắt, ngay lập tức giơ tay lên. “Rồi, rồi, rồi. Hiểu rồi. Cô coi cha nuôi của cô như cha đẻ. Ông ấy nuôi dưỡng cô, yêu thương cô, dành cho cô tất cả những gì một cô con gái có thể cần, bao gồm cả chiếc vé bằng vàng để thoát khỏi kẻ tâm thần.”

“Thế giờ chị nhắc đến chuyện đó...”

“Kể tôi nghe về Harry Day.”

Ánh mắt dữ dội trên gương mặt nữ bác sĩ đã dịu lại. Cô ấy thở dài rồi ngồi lại xuống ghế chẳng vui vẻ gì nhưng rõ ràng đã cam chịu số phận của mình. “Tôi chỉ biết những gì tôi đọc được thôi, khi thú vui giết chóc tàn bạo của Harry đến hồi kết thúc thì tôi vẫn chỉ là một đứa bé. Cách tôi hiểu về nó, một trong những nạn nhân của ông ta, một nữ hầu bàn trẻ tuổi, đã trốn thoát. Cô ấy chạy đến đồn cảnh sát. Vào lúc các sĩ quan được huy động và đến bắt ông ta, Harry đã chết rồi, rất nhiều vết rạch trên hai bên cổ tay. Mẹ tôi thì bị suy sụp tinh thần và được chuyển đến một bệnh viện tâm thần, trong khi các dịch vụ chăm sóc trẻ em đảm nhận việc chăm sóc tôi và chị gái tôi. Cảnh sát mất sáu tuần tiếp theo khám xét có hệ thống khắp nhà chúng tôi, đào được hai xác chết dưới phòng khách và sáu thi thể nữa dưới xưởng làm mộc của Harry sau nhà. Harry là thợ mộc. Ông ta rất yêu thích các dụng cụ.”

“Gã tra tấn các nạn nhân.” D.D. nói thẳng, phần nhiều là cô vừa nghe Phil nói cho biết. “Vài người trong số họ phải mấy tuần sau mới chết.”

“Nhưng đó không phải là lý do tên ông ta có liên quan đến hai vụ án mạng này đúng không?”

“Đúng, đó không phải là lý do.”

“Kẻ sát nhân chị đang điều tra đã lột da các nạn nhân của hắn đúng không? Tờ Boston Globe không cung cấp nhiều chi tiết, nhưng dựa trên sự quan tâm của chị đến Harry, tôi đoán được da nạn nhân bị lột thành các mảnh dài và mỏng. Thêm vào đó, chị không thu hồi được hết tất cả các mảnh da tại hiện trường. Có nghĩa là kẻ sát nhân đã lấy một phần da thịt mang về. Như một chiến lợi phẩm. Và bây giờ, với những gì chị đã nghe được về Harry Day, chị đang tự hỏi phải chăng vài mảnh da ấy không được bảo quản trong các lọ thủy tinh, mà được nhúng vào dung dịch formaldehyde đặc biệt mà Harry đã tinh luyện dành riêng cho mục đích này.”

D.D. không đứng nữa, mà cũng ngồi xuống ghế. Hai bàn tay xòe rộng trước mặt, nhăn nhó khi cử chỉ vô thức này khiến cánh tay trái đau đớn thêm. “Phải nói là trùng hợp ghê ấy. Hai kẻ sát nhân, cách nhau bốn mươi năm, cả hai cùng có niềm yêu thích cắt xẻo và bảo quản da của nạn nhân. Cô nghĩ Harry đã giết chết bao nhiêu phụ nữ?”

“Ông ta được ghi nhận đã giết tám người.”

“Tám cái xác họ đã tìm thấy trong nhà cô. Hồi ấy báo chí đặt biệt danh cho căn nhà ấy là gì nhỉ? Ngôi Nhà Rùng Rợn, hay cái gì đấy đại loại thế?”

Adeline khẽ nhún vai. Trên gương mặt cô ấy là vẻ dửng dưng, D.D. đã từng nhìn thấy nó, trên gương mặt các thành viên gia đình tự cách biệt bản thân khỏi những sự thật khủng khiếp về những người lẽ ra họ nên hiểu rõ. Hoặc trên gương mặt các nạn nhân, khi họ thẳng thừng kể một chuyện chắc chắn đã xảy ra với ai đó khác.

“Bộ sưu tập chiến lợi phẩm của Harry.” Giờ D.D. nói tiếp. “Tôi được báo rằng cảnh sát đã khôi phục lại ba mươi ba lọ thủy tinh đựng da người. Gã đã giấu chúng dưới các tấm ván sàn của tủ chứa đồ ở phòng ngủ.”

Nữ bác sĩ nao núng.

“Mười hai lọ đầu tiên là các bình thủy tinh nhỏ.” D.D. nói. “Nhưng có vẻ thời gian càng trôi đi, Harry càng tinh tế hơn. Không chỉ cải thiện dung dịch formaldehyde, hắn còn sử dụng cả các lọ thủy tinh nhỏ hình ống, giống loại đựng nước hoa. Sau đó hắn dán nhãn cho từng lọ. Không dùng tên mà hắn dùng một chi tiết ngẫu nhiên chắc phải có ý nghĩa nào đấy với hắn. Màu tóc, địa điểm nào đó, một món trang phục nào đó. Một phương pháp nhận dạng độc đáo nhưng hoàn toàn mất tính người đối với từng mẫu vật trong bộ sưu tập.”

Nữ bác sĩ lại nao núng.

“Họ đã phân loại chúng xong chưa?” Adeline hỏi. “Tôi nghĩ... vài năm trước tôi đã đọc đâu đó rằng một đội chuyên phá án nguội có ý tưởng phân tích... mô được bảo quản... dựa vào một danh sách những người mất tích trong cùng thời điểm đó. Họ hy vọng thu được các mẫu ADN từ các thành viên gia đình của một số phụ nữ bị mất tích cuối những năm sáu mươi, và tìm kiếm những sự trùng hợp.”

D.D. chưa từng nghe nói về chuyện này, nhưng nó có ý nghĩa nào đó. “Không biết được.” Cô chân thành đáp. “Nhưng nó có thể giải thích tại sao có nhiều chi tiết từ một vụ án tầm bốn mươi năm trước trong ViCAP.”

“Họ cũng dùng cả phương pháp này trong các vụ án hiếp dâm nữa. Nhiều kẻ săn mồi bệnh hoạn về tình dục thường bắt đầu bằng cách tấn công đúng không? Những hình ảnh tưởng tượng méo mó của chúng leo thang theo thời gian, biến chúng từ những kẻ nhìn trộm thành kẻ cưỡng hiếp rồi thành kẻ sát nhân. Có nghĩa là tổng số các nạn nhân của Harry có khả năng nhiều hơn con số tám.”

“Đó chỉ là những người hắn giam giữ gần nhà mình.” D.D. đồng tình. Để hắn có thể có nhiều thời gian ở bên họ, cô đã suýt nói thêm câu này nhưng kịp kìm lại. Bởi vì sát nhân hàng loạt là một tội ác leo thang, và vào thời điểm đó trong sự nghiệp giết chóc của mình, Harry Day hẳn đã trở thành kẻ săn mồi lão luyện với một kho công cụ, không gian làm việc riêng và thời gian linh hoạt. Nghĩa là nếu cô hầu bàn ấy mà không thoát ra được...

Trước mặt cô, Adeline lẩm bẩm: “Sớm hay muộn, tất cả những đứa trẻ được nhận nuôi đều mơ tưởng về nhân dạng thực của cha mẹ đẻ của chúng. Cha mẹ ruột của tôi là thành viên trong hoàng tộc, nhưng khi sinh tôi ra họ đã phải giấu tôi đi nơi khác, nhằm bảo vệ tôi khỏi một mụ phù thủy xấu xa muốn chiếm đoạt vương quốc, đại loại vậy. Cha nuôi tôi là một nhà di truyền học. Một người tốt nhưng lại mang trái tim lãnh đạm. Chẳng hạn như việc này, lần đầu tiên tôi hỏi ông sự thật về cha mẹ tôi, ông đã nói hết cho tôi nghe. Và suốt mười năm sau đó tôi liên tục gặp ác mộng, những giấc mơ sống động đến không thể tin nổi. Tôi trông thầy làn da của chính tôi bị rách toác và một con quỷ nhảy vọt ra.”

“Cha nuôi nhận chăm sóc cô ngay khi còn sơ sinh à?”

“Khi tôi lên ba tuổi và lần đầu tiên được chẩn đoán mắc chứng mất cảm nhận đau đớn bẩm sinh. Ông là một trong các bác sĩ đảm nhận trường hợp của tôi. Căn cứ vào tình trạng y học có nguy cơ cao của tôi, ông cảm thấy nếu giao tôi cho một gia đình bố mẹ nuôi không có kinh nghiệm, tôi sẽ không được chăm sóc đúng cách. Nên ông đã thu xếp để đích thân nhận nuôi tôi.”

“Cô gặp may đấy.”

“Phải.”

“Còn chị gái cô? Cô từng nói nhà cô có hai chị em?”

“Chị ấy không bị rối loạn về gen hiếm.” Adeline đơn giản đáp. Trong thế giới của cô ấy, điều ấy dường như nói lên tất cả.

“Còn mẹ đẻ cô thì sao?”

“Bà mất sáu tháng sau Harry, chẳng nói ra lời nào. Có lẽ bà mắc một chứng suy sụp tinh thần nào đó và về cơ bản ở trong trạng thái như bị thôi miên.”

“Cô có nghĩ bà ấy biết chồng mình đang làm gì không?” D.D. hỏi. “Harry đã chôn hai xác chết trong nhà. Bóc những tấm ván sàn lên, vùi họ xuống trong không gian chật hẹp, phủ vôi lên trên. Đừng bảo tôi là nó không bốc mùi.”

Adeline lắc đầu, ánh mắt nhìn chằm chằm bề mặt bóng loáng của bàn làm việc ngăn nắp. “Tôi không biết. Cha nuôi đã soạn thành hồ sơ lịch sử về cha mẹ đẻ của tôi. Gia đình là di sản, và ông muốn tôi phải chuẩn bị tâm lý. Tôi đã nghiên cứu tài liệu này rất nhiều suốt những năm qua. Có một tư liệu rất có ý nghĩa về Harry Day. Những người hàng xóm đã mô tả ông ta như một người duyên dáng, thông minh và có đôi bàn tay khéo léo. Theo các thông tin thu thập được, bố mẹ tôi không giao tiếp xã hội nhiều cho lắm, nhưng nếu chị có va phải Harry trên đường phố, ông ta cũng sẽ không lạnh lùng phớt lờ hay túm tóc chị đâu. Một trong số các hàng xóm, bà góa phụ lớn tuổi, thậm chí còn khen ngợi ông ta là một thanh niên đẹp trai như thế nào, đã sửa giúp bà ta ô cửa sổ bị hỏng hay cánh cửa ra vào kêu cót két. Ông ta thậm chí còn chẳng lấy tiền, chỉ ăn một miếng bánh táo do bà ấy tự làm. Tất nhiên đây là những loại câu chuyện gần như trở thành huyền thoại sau khi ông ta phạm tội ác, kẻ sát nhân máu lạnh có trái tim nhân từ. Nhưng nói thật, tôi không tin.”

“Bà già hàng xóm ấy bịa chuyện à?”

“Không.” Adeline ngước mắt lên, nhìn thẳng vào D.D. “Chính Harry bịa chuyện. Những kẻ siêu săn mồi thường làm thế đúng không? Vẻ hấp dẫn chỉ là ngụy trang. Tôi nghi ngờ cũng vào tuần đó, một cô gái tội nghiệp nào đó đang bị ông ta xích vào bàn gia công trong xưởng của mình. Để ông ta rảnh tay ra ngoài giúp hàng xóm. Để nếu cảnh sát có lượn lờ quanh đó cũng chỉ thu được những mẩu tin sốt dẻo giống nhau: Harry Day, đúng là một anh chàng tốt tính, vừa mới hôm kia thôi, anh ấy còn giúp tôi sửa cửa sổ...”

D.D. gật đầu. Cô cũng từng trải qua hiện tượng tương tự, kiểu hung thủ nhưng-anh-ấy-là-người-tốt-mà, nên cô đồng tình với đánh giá của Adeline. Những kẻ tâm thần không bao giờ tử tế. Chúng chỉ giỏi diễn kịch khi hoàn cảnh đòi hỏi.

D.D. hỏi dấn thêm: “Cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi về mẹ mình.”

“Bởi vì tôi không thể.”

“Không thể hay sẽ không trả lời?”

“Không thể. Ngay cả cha nuôi tôi, từng là một nhà nghiên cứu được nhận giải thưởng, cũng không thể khai thác được thông tin nào về bà ấy. Bà ấy là một bóng ma. Không có họ hàng gần gũi, không có quá khứ. Bà ấy di cư đến Boston từ nơi nào đó ở vùng Midwest, ít nhất đó là những gì bà ấy nói với mọi người. Giấy chứng hôn của bà ấy cho biết tên thời con gái của bà ấy là Davis, mà nói thẳng, cái tên ấy quá phổ biến nên không thể tra cứu nổi. Bà ấy không bao giờ trả lời những câu hỏi của cảnh sát, thậm chí hàng xóm dường như cũng không quen biết bà ấy. Anne Davis tồn tại như một cái bóng. Rồi biến thành một hồn ma.”

D.D. không thể ngăn mình khẽ run rẩy. “Có thể điều ấy chỉ chứng minh bà ấy biết chồng mình đang làm gì. Dẫn đến suy sụp tinh thần: tội lỗi của người sống sót.”

Adeline chỉ nhún vai. “Chẳng liên quan. Như chị biết rõ hơn tôi, Harry là một kẻ tâm thần hoàn hảo, và kẻ săn mồi kiểu đó luôn luôn là kẻ quan trọng nhất. Ngay cả nếu Anne biết, bà ấy cũng chẳng thể làm được gì. Harry là kẻ nắm quyền kiểm soát.”

“Cha cô đấy.” D.D. nhắc lại lần nữa, nhấn mạnh cơ sở của cuộc tranh luận.

Nét mặt Adeline không hề thay đổi. “Xét đến chuyện tôi phải chịu đựng một tình trạng gen hiếm gặp, chẳng ai hiểu về những nguy hiểm tiềm tàng của ADN tốt hơn tôi đâu.”

D.D. thấy điều này thật hấp dẫn. Cô rướn người về phía trước. “Harry có mắc cùng chứng bệnh đó không, liệu có khả năng hắn cũng không thể cảm thấy đau đớn?”

“Không. Chứng mất cảm nhận đau đớn bẩm sinh có nguyên nhân do một gen lặn kép, tức là cả cha và mẹ đều phải là người mang đột biến gen. Đó là chưa kể có chưa đến năm mươi trường hợp được biết đến trên toàn nước Mỹ, một nửa số trẻ em được chẩn đoán sẽ chết trước tuổi lên ba do sốc nhiệt. Ai đó giống như tôi, sống sót đến tuổi trưởng thành, với tứ chi vẫn còn hoạt động tốt... Tôi là một ngoại lệ, không theo quy tắc nào hết.”

“Tại sao thế?”

“Như là một phần của đột biến gen, chúng tôi không cảm nhận được hơi nóng. Có nghĩa là chúng tôi không đổ mồ hôi. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ chập chững biết đi, điều này đặc biệt nguy hiểm. Vào buổi chiều hè ấm áp, cơ thể của chúng có thể bị quá nóng đến mức báo động nhưng các dấu hiệu đau đớn không hề lộ ra. Đến lúc bố mẹ hốt hoảng mang đứa bé bơ phờ đến bệnh viện thì đã quá muộn.”

D.D. hỏi, không kịp kiềm chế: “Thế vào mùa hè thì cô làm gì?”

“Bật điều hòa. Uống thật nhiều nước và đo nhiệt độ liên tục nhiều lần trong ngày. Tôi không thể tin vào những cái tôi cảm thấy, Thanh tra ạ, nghĩa là tôi phải phụ thuộc vào những chẩn đoán bên ngoài để biết cơ thể mình có ổn hay không.”

“Melvin hữu ích đấy.” D.D. lẩm bẩm.

“Melvin hữu ích mà. Tôi chưa bao giờ nằm dài trên biển hay đi dạo dưới ánh mặt trời mùa hè chói chang. Thậm chí tôi còn không dám tắm vòi sen nếu chưa kiểm tra nhiệt kế. Và cũng như hầu hết các sở thích thể thao hay chương trình thể hình nào... một người như tôi mà chạy, bơi, chơi tennis hay ném bóng rổ sẽ rất nguy hiểm. Tôi có thể bị vỡ đầu gối, gãy mắt cá chân, căng cơ vai và bất tỉnh. Sức khỏe của tôi luôn là vấn đề cảnh giác không ngừng.”

D.D. gật đầu. Cô nghĩ nữ bác sĩ tử tế nói rất thẳng thắn khi mô tả một lối sống thực sự rất hạn chế và cô lập. Luôn luôn bị gạt ra khỏi tất cả các nhóm ở trường tiểu học, Adeline chắc hẳn phải ngồi ngoài trong toàn bộ giờ ra chơi. Huống hồ là chẳng có cơ hội dạo chơi tay trong tay cùng ai đó đặc biệt trong một ngày ngập nắng. Hay cơ hội được chạy bằng hết sức mình chỉ vì cảm thấy thích được thế. Hoặc nhảy từ điểm A đến điểm B đơn giản là để xem liệu mình có thể làm được không.

Chắc chắn rằng, một người lớn nghiêm túc lớn lên như một đứa trẻ quan trọng, liên tục phải cảnh giác. Và ngay từ khi còn rất trẻ, cô ấy đã ý thức được rằng tình trạng gen hiếm của mình tất nhiên sẽ khiến cô ấy bị gạt ra ngoài, phải đứng nhìn như một kẻ ngoài cuộc.

Bởi vì Melvin không chỉ hữu ích. Melvin còn phổ biến, nỗi đau trở thành điểm cân bằng tuyệt vời mang mọi người xích lại gần nhau.

“Còn chị gái cô?” D.D. hỏi.

“Chị ấy không gặp phải tình trạng như tôi.”

“Vậy nên cha nuôi cô không tiếp nhận cô ta.”

“Không.”

“Chắc cô ta phải giận dữ lắm.”

“Tôi ba tuổi, chị ấy sáu tuổi, hẵng còn quá nhỏ để hiểu, chưa nói đến chuyện tức giận.”

“Đã xảy ra chuyện gì với cô ta?”

“Chị ấy vẫn chịu sự giám hộ của bang, lang bạt hết gia đình nhận nuôi này đến gia đình nhận nuôi khác.”

“Cô còn giữ liên lạc với cô ta không?”

“Còn.”

“Cô ta có tên không?”

“Có.”

“Nhưng cô sẽ không cho tôi biết?” Những ăng ten sắc sảo của nhà điều tra của D.D. bắt đầu rung lên.

Nữ bác sĩ ngần ngừ. “Vào lúc mười bốn tuổi, tôi đã hỏi rất nhiều câu hỏi về cha đẻ của mình. Tôi hoàn toàn không hề biết, cha nuôi tôi đã thuê một thám tử tư nghiên cứu toàn bộ ba thành viên gia đình ruột thịt của tôi. Tôi đoán tay thám tử đó là một cảnh sát Boston đã nghỉ hưu, vì hầu hết thông tin ông ta thu lượm được về cha tôi là các bản sao những báo cáo của cảnh sát. Có thể một bạn thân lâu năm nào đó trong lực lượng đã cho phép ông ta tiếp cận. Việc nghiên cứu về mẹ tôi đã được chứng minh là khó khăn hơn nhiều, như tôi đã nói, hồ sơ của bà ấy rất nghèo nàn. Chị gái tôi...”

Bác sĩ Glen dừng lại.

“Tôi đoán hồi ấy chắc chị ấy mười bảy tuổi rồi. Vẫn chịu giám hộ của bang. Nhưng ngay cả vào lúc đó, hồ sơ của chị ấy còn dày hơn cả hồ sơ của cha tôi, những thành tích của chị ấy thậm chí còn mang chất huyền thoại hơn.”

D.D. nhoài người về phía trước, các giác quan rõ ràng đang hoạt động hết công suất.

“Báo cáo gây ấn tượng mạnh nhất, mà tôi chưa từng đọc cho đến sau cái chết của cha nuôi, xuất phát từ một nhân viên công tác xã hội đã đến nhà cha mẹ tôi ngày hôm đó. Người đã giao chúng tôi cho nhà chức trách, rồi cố gắng tìm kiếm biện pháp điều trị sức khỏe ngay lập tức cho chị gái tôi lúc ấy mới bốn tuổi. Theo lời bà ấy, lưng, hai cánh tay và mặt trong hai cẳng chân của chị ấy có hàng tá những vết rạch mỏng. Vài vết cũ, nhiều vết mới nhưng về cơ bản là da chị ấy đã bị lột liên tục thành những vết máu dài, đều đến đã khô kiệt.”

“Gã đã rạch lên người con bé.” D.D. nói thêm. “Cô tin rằng Harry Day đã rạch lên người chị gái mình.”

Adeline nhìn cô. “Vì chị ấy không thể đưa tay ra sau lưng được.”

“Gã có lột da không?”

“Theo các bác sĩ thì không. Nhưng ông ta sẽ chẳng phải làm thế đúng không? Harry giữ lấy chiến lợi phẩm từ các nạn nhân của mình để nhớ họ sau khi họ chết. Chị gái tôi không phải là cô gái bị bắt cóc để rồi cuối cùng sẽ bị vứt đi. Chị ấy là con gái ruột của ông ta. Nạn nhân luôn luôn sẵn sàng của ông ta. Chắc chắn rằng, chị ấy chính là lựa chọn “lấp chỗ trống” hoàn hảo giữa các trò vui.”

D.D. dò xét Adeline. Ánh mắt nữ bác sĩ vẫn thẳng thắn, vẫn trong tầm kiểm soát. Nhưng cô chưa từng thấy cằm cô ấy cứng lại như thế. Nữ bác sĩ giỏi đang kiềm chế. Nhưng nó đang khiến cô ấy phải trả giá.

D.D. hỏi câu hỏi logic tiếp theo: “Còn cô?”

“Căn cứ theo các giấy tờ nhập viện, trên người tôi không có vết rạch nào.”

“Harry ngược đãi cô ta chứ không phải cô.”

“Harry Day chết một tuần trước ngày sinh nhật tròn một tuổi của tôi. Thực sự là rất thú vị khi tôi muốn biết tám ngày sau đó, việc như vậy có thành sự thật không.”

“Cô nghĩ tuổi tác đã cứu mạng mình. Cô là trẻ sơ sinh. Trong khi đó khoảnh khắc cô lên một...”

Adeline nhún vai. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được.”

“Có thể nào đó là do tình trạng của cô không?” D.D. tự hỏi. “Có thể hắn đã rạch lên người cô. Nhưng cô chắc hẳn đã không khóc đúng không? Và điều đó khiến hắn không thỏa mãn.”

Adeline có vẻ ngạc nhiên. “Trong suốt những năm tháng qua, tôi chưa từng cân nhắc điều này.”

“Thật không? Có vẻ đấy là một suy nghĩ hiển nhiên mà.”

“Có thể, tôi nghĩ vậy, nhưng không chắc lắm. Lúc ấy vẫn chưa ai biết về tình trạng của tôi. Phải đến khi lên ba tuổi nó mới được phát hiện. Chính chị gái là người đã hân hạnh giúp việc đó. Chị ấy rạch lên người tôi.”

D.D. chớp mắt. “Chị gái cô, đứa bé sáu tuổi, rạch lên người cô?”

“Đó là cách chị ấy biết. Một hành vi nhờ học mà có đêm nào cũng được tiêm nhiễm vào đầu chị ấy: Máu là tình yêu. Và chị gái yêu thương tôi theo cách riêng.”

“Tôi chưa hề nghe nói chuyện gia đình cô đoàn tụ.”

“Chị ấy rạch hai cánh tay tôi bằng kéo. Khi tôi không òa lên khóc, chị ấy rạch sâu hơn. Đây có thể là bằng chứng nữa cho thấy cha tôi không hề biết đến tình trạng của tôi. Tôi có cảm giác rằng bản năng đầu tiên của ông ta cũng sẽ là muốn rạch sâu hơn, còn tôi thì không hề mang những vết sẹo kiểu như thế.”

“Được rồi.”

“Và đây là câu hỏi trong ngày, thưa Thanh tra: Ác quỷ là do bẩm sinh hay do môi trường?”

“Bẩm sinh hay do nuôi dưỡng.”

“Chính xác. Chị nghĩ sao?”

D.D. lắc đầu. “Không cần phải chọn, tôi đã chứng kiến cả hai.”

“Tôi cũng thế. Một người tốt có thể trở thành kẻ xấu xa, và một kẻ xấu xa cũng có thể được tôi luyện thành người tốt.”

“Thế quan điểm của cô là gì?”

“Không vấn đề nào trong số này đúng với chị tôi, chị ấy gặp phải cả hai.”

“Con gái một kẻ sát nhân hàng loạt...” D.D. nói thêm. “... Đã phải hứng chịu bao năm tháng bị lạm dụng mang tính nghi lễ, rồi lớn lên vất vưởng trong hệ thống chăm sóc con nuôi.” Đến lúc này, ánh sáng cuối cùng cũng lóe lên, D.D. nhắm mắt lại, không tin được mình đã không kết nối các điểm này sớm hơn. Đúng là cô phải tự khen ngợi mình, vụ này đã ba mươi năm rồi, nghĩa là hồi ấy bản thân cô cũng chỉ là đứa trẻ vị thành niên chứ chưa phải là một nữ thanh tra bị ám ảnh với công việc. Dầu vậy, xét đến tai tiếng...

“Shana Day.” D.D. nói to thành tiếng. “Chị gái cô tên là Shana Day. Nữ hung thủ nhỏ tuổi nhất bị kết án tại Massachusetts, bị xét xử như người lớn khi cô ta mới mười bốn tuổi. Bị giam giữ hàng chục năm kể từ khi tấn công các sĩ quan quản chế và bạn tù trong nhà tù Massachusetts. Chính Shana Day đó.” Một ánh sáng nữa lại lóe lên. “Cô ta đã cắt xẻo thằng bé đúng không? Đã nhiều năm rổi kể từ khi tôi nghĩ về vụ này, nhưng ngay sau khi siết cổ thằng bé, cô ta đã xẻ thịt khắp người nó bằng dao. Cắt đi một tai. Và các mảnh da...” D.D nhìn Adeline trừng trừng, gần như chết điếng trước những gợi ý này. “Chị gái cô bây giờ ở đâu?”

“Vẫn là kẻ thường trú của nhà tù Massachusetts, nơi chị ấy sẽ sống nốt phần đời còn lại của mình.”

“Tôi muốn nói chuyện với cô ta. Ngay lập tức.”

“Chị có thể thử. Tuy nhiên, chị ấy đang phục hồi trong phòng bệnh của nhà tù, sau mưu toan tự sát mới nhất.”

“Tình trạng của cô ta sao rồi?”

“Ổn định. Đến lúc này.” Adeline ngừng lại. “Tuần tới sẽ là tưởng niệm ba mươi năm ngày mất của Donnie Johnson. Tôi đồ rằng Shana sẽ nhận được sự chú ý không mong muốn vì việc này. Ít nhất một phóng viên đã liên hệ với nhà tù, muốn được phỏng vấn.”

“Cô ta có nói về vụ này không?”

“Không bao giờ.”

“Thế còn bạn bè, người quen thì sao?” Tâm trí D.D. đang lao hết tốc lực về phía trước. Shana có thể ngồi sau song sắt, nhưng điều khiến tâm trí D.D. lo ngại lúc này là có bao nhiêu kẻ sát nhân bị kết án vẫn duy trì các quan hệ xã hội thực sự, trong khi được cho là đã bị cầm tù. Chúng yêu đương, kết hôn. Tại sao không quyến rũ kẻ sát nhân tương lai có tiềm năng nào đó, dụ hắn hoàn tất công trình trọn đời của cha, hay của chính cô ta?

Nhưng Adeline lắc đầu. “Chị tôi mắc phải hội chứng rối loạn nhân cách phản xã hội nghiêm trọng. Đừng hiểu nhầm ý tôi, chị ấy cực kỳ thông minh và khôn ngoan đến đáng sợ. Nhưng chị ấy không giống cha tôi. Không một góa phụ nào lại cho phép Shana vào nhà sửa một ô cửa sổ bị hỏng. Cũng như bản thân Shana chẳng có hứng thú gì với bạn bè hay những người ủng hộ.”

D.D. không thể kiềm chế. “Vậy cha cô là kẻ sát nhân hàng loạt. Chị gái là kẻ sát nhân thuần thục, chờ đã, cô ta đã để lại dấu hiệu trên ba nạn nhân, cho thấy cô ta là kẻ sát nhân hàng loạt theo cách riêng. Còn cô mắc chứng gen hiếm bẩm sinh khiến cô không thể cảm thấy đau đớn. Đúng là một quỹ gen đấy.”

“Mọi đường cong hình chuông đều có giá trị ngoại lệ.”

“Giá trị ngoại lệ ư? Xin cô, gia đình cô không thể nằm trên biểu đồ được.”

Adeline nhún vai, D.D. vào số.

“Chị cô ghen tị với cô à?”

“Chị sẽ phải hỏi chị ấy thôi.”

“Nhưng hai người vẫn giữ quan hệ chứ?”

“Tôi đến thăm chị ấy mỗi tháng một lần. Chị ấy sẽ nói với chị là tôi đến vì cảm thấy có lỗi. Còn tôi sẽ bảo rằng chị ấy chấp nhận những cuộc viếng thăm của tôi vì chị ấy thấy chán. Thanh tra này, hình như chị nghĩ rằng cái kẻ được gọi là Sát Thủ Hoa Hồng này có mối liên hệ trực tiếp tới gia đình tôi, thậm chí có thể được gợi cảm hứng từ đó. Là nhà tâm thần học có chút kinh nghiệm về các nhân cách lệch lạc, tôi sẽ không chắc đâu.”

D.D. ném sang cô ấy ánh mắt nghi ngờ.

“Nếu chị so sánh đủ các mảnh gỗ bị biến dạng...” Adeline nói tiếp. “... Vài mảnh gỗ chắc chắn bị biến dạng giống nhau. Tương tự thế là những kẻ tâm thần bất thường. Nhiều tên cùng chia sẻ những ám ảnh, nghi thức và tưởng tượng giống nhau. Tên sát nhân này từng đọc về Harry Day chưa hay từng đến thăm Shana chưa? Hay hắn chỉ cần chia sẻ niềm tin ban đầu giống họ thôi là đủ rồi?”

“Đó là gì?”

“Máu là tình yêu. Chị tôi rạch hai cánh tay tôi bằng kéo không phải với chủ ý làm tôi đau, mà là muốn thể hiện tình cảm của chị ấy. Như đối với Donnie Johnson mười hai tuổi, tôi nghĩ có thể Shana không bao giờ nói về đêm ấy vì cùng một lý do: Chị ấy không căm ghét thằng bé. Đơn giản là chị ấy quá yêu thằng bé, và chị ấy nhớ nó kể từ đó.”

D.D. nhướng mày. “Giết chết một thằng bé mười hai tuổi là cách chị cô thể hiện tình cảm à?”

“Tôi không biết Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra vào đêm ấy, Thanh tra ạ. Chuyện gì đó có sức mạnh đủ lớn, hoặc có thể đơn giản là đủ riêng tư, đến nỗi ngay cả một kẻ tâm thần thật sự như chị tôi cũng không thể nói về nó kể từ đó.”