← Quay lại trang sách

Chương 23

Charlie Sgarzi trông kiệt quệ. Cái quai hàm nghiêm nghị, cái cằm bướng bỉnh, đôi bờ vai vững chắc, tất cả bay biến hết. Thay vào đó, anh ta ngồi trên chiếc sô pha của mẹ, một phiên bản thảm hại của chính anh ta trước kia, nhìn D.D. cùng Phil bằng đôi mắt vằn đỏ.

“Hai người không hiểu.” Anh ta mệt mỏi nói. “Bà ấy không bao giờ mở cửa nếu không nhìn qua mắt thần trước. Và chắc chắn bà ấy sẽ không bao giờ cho người lạ vào nhà. Ngay cả giữa ban ngày ban mặt. Hai người nghĩ em họ tôi bị giết khi nào?”

D.D. gật đầu. Cô nhớ lại Sgarzi từng nói rằng mẹ anh ta về cơ bản là sống ẩn dật.

Vậy nhưng vào khoảng thời gian nào đó giữa hai và bốn giờ chiều nay, theo đánh giá ban đầu của pháp y, Sát Thủ Hoa Hồng đã vào được trong nhà của Janet Sgarzi. Vào lúc đó, kẻ sát nhân đã đánh thuốc mê bà mẹ già nặng chừng bốn mươi cân, đang bị ung thư hành hạ của Charlie, mang bà ấy vào phòng ngủ sau nhà và tiếp tục làm theo kế hoạch.

Charlie phát hiện ra hiện trường ngay sau bảy giờ, khi anh ta có mặt ở nhà mẹ mình, mang theo bữa tối. Có được danh thiếp của Phil từ cuộc nói chuyện trước đó, anh ta đã bấm số trực tiếp gọi vị thanh tra lớn tuổi. Đáp lại, Phil đã triệu tập Alex nhằm hỗ trợ phân tích hiện trường tội ác và D.D. trong vai trò “tư vấn độc lập”.

Lúc ấy, hai vợ chồng D.D. đang trên đường đến nhà bố mẹ Alex để đón Jack. Tuy nhiên, sau khi gọi về mong ông bà thông cảm, họ đã đổi hướng rồi tiến thẳng đến hiện trường tội ác mới nhất của Sát Thủ Hoa Hồng. Một ngôi nhà bé nhỏ, tiện nghi đến hoàn hảo ở Nam Boston nồng nặc những ký ức xa xưa và mùi máu tươi.

“Có khả năng kẻ sát nhân đóng giả làm nhân viên công ty an ninh, nhân viên kiểm soát thú cưng v.v...” Phil nói. “Mẹ cậu có hay mở cửa nhà gặp nhân viên chuyển phát, hay đại loại thế không?”

“Tại sao chuyện này không được đăng báo?” Sgarzi nổi khùng.

“Bởi vì chúng tôi chưa tìm được bất kỳ nhân chứng nào làm chứng cho giả thuyết của chúng tôi.” Phil nhẹ nhàng giải thích. “Ngay bây giờ, đây cũng chỉ là dự đoán tốt nhất của chúng tôi dựa trên việc hung thủ dễ dàng vào được trong nhà các nạn nhân. Cậu nói mẹ cậu rất cảnh giác...”

“Đúng!”

“Có khi nào vào lúc giữa chiều bà ấy đang ngủ không?”

“Bà ấy có ngủ trưa. Chết tiệt, bà ấy đã gần giai đoạn cuối rồi. Chẳng có gì tiến triển cả, các bác sĩ chẳng làm được gì nữa... Ý tôi là lẽ ra họ có thể làm được gì đó. À, trời ơi. Cho tôi một phút được chứ?”

Phòng khách trước nhà quá chật, không đảm bảo sự riêng tư. Sgarzi giận dữ bước đến chỗ lò sưởi, đứng nhìn chằm chằm mặt lò sưởi.

Ngôi nhà nhắc D.D. nhớ đến căn hộ của Sgarzi. Nhỏ nhưng ngăn nắp. Những bề mặt sạch bong, những tấm thảm được hút bụi. Cô tự hỏi liệu có phải Janet vẫn giữ căn nhà riêng của mình hay đây là nơi Sgarzi dành cho mẹ anh ta. Nhiều khả năng là vế sau, căn cứ vào sức khỏe đang suy sụp nghiêm trọng của người đàn bà này. Hệt như chuyện Sgarzi mua bữa tối về nhà cho mẹ hôm nay. Anh ta đã kể rằng mình đã mua món xúp ở một trong các nhà hàng địa phương bà yêu thích, vì việc nuốt thức ăn cứng ngày càng trở nên khó khăn.

D.D. không dám hình dung việc phải bước qua cánh cửa kia cảm giác sẽ thế nào, khi gọi tên người mẹ ốm yếu nhưng không nhận được lời đáp. Thế rồi, khi bắt đầu thấy lo lắng, bước vào phòng ngủ phía sau, chỉ để phát hiện ra những nỗi sợ hãi sâu thẳm nhất, đen tối nhất của anh ta vẫn chưa đủ thẳm sâu hoặc chưa đủ tăm tối để hình dung những gì anh ta vừa phát hiện ở đây.

Giờ đây hai bàn tay Sgarzi hết siết chặt rồi lại buông ra, co cứng dọc hai bên sườn. D.D. tự hỏi phải chăng anh ta sẽ đấm xuống lò sưởi gạch hay hướng nắm đấm vào bức tường vữa màu vàng đã cũ. Bằng nỗ lực rõ ràng, tay phóng viên dường như đã trấn tĩnh lại. Run rẩy lần cuối cùng, anh ta quay người lại, nhìn họ trừng trừng với nét mặt phờ phạc.

“Shana Day đã làm chuyện này.” Anh ta tuyên bố, một ngón tay thọc vào hư không.

“Thôi nào, Charlie.” Phil lên tiếng.

“Đừng có “thôi nào Charlie” nữa đi. Tôi thuyết phục cô ta và cô ta biết thế. Tôi nghĩ mình chỉ đang sàng lọc khi bắt đầu hỏi những câu hỏi về cô ta. Ngoại trừ điều đầu tiên tôi biết đó là cô ta có tai mắt bên ngoài bức tường nhà tù. Và bây giờ cô ta đang sử dụng chúng. Tự kiếm cho mình một con rối sát nhân có thể làm mọi việc cho cô ta ngoài kia, trong khi Shana vẫn giật dây trong xà lim. Chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo đúng không? Shana không thể giết chết mẹ tôi, cô ta đã bị tống giam mà! Nhưng cô ta làm đấy. Cô ta sát hại mẹ tôi để trừng phạt tôi, và tồi tệ hơn, cô ta đang vỗ mông cười vì cô ta biết các người cóc làm được gì hết. Đó là những gì ba mươi năm trong tù đang dạy cho cô ta biết, làm thế nào để thực hiện một tội ác hoàn hảo.”

“Mẹ cậu có mở cửa cho nhân viên chuyển phát không?” Phil lại hỏi.

“Tôi không biết. Có thể.”

“Bà ấy có lắp hệ thống an ninh trong nhà không?” D.D. lên tiếng.

“Có, nhà có lắp chuông báo động.”

“Còn máy quay?”

“Không. Chỉ chăng lưới thép các cửa ra vào và cửa sổ thôi.”

“Tên công ty là gì?”

Sgarzi nói tên ra, Phil ghi vào sổ.

“Mẹ cậu có bao giờ nói rằng mình để ý ai đó lạ trong khu này không? Một người lạ bà thấy hay lởn vởn xung quanh? Người mới thuê nhà trong khu này?”

“Không.”

“Có cảm giác như bà ấy đang bị theo dõi không?” Phil hỏi.

“Mẹ tôi không rời khỏi nhà và luôn kéo rèm cửa xuống. Làm thế quái nào theo dõi bà ấy được?”

Thôi được rồi, D.D. nghĩ. “Thế còn y tá chăm sóc tại nhà, hay một nhà chuyên môn nào đấy về y tế?” Cô lên tiếng.

“Có. Tuần hai lần, y tá Eliot. Mẹ tôi tất nhiên cần nhiều sự giúp đỡ, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể trang trải được.”

“Y tá Eliot à? Nam hay nữ?”

“Một bà lớn tuổi. Rất tốt. Mẹ tôi thích bà ấy.”

“Và luôn là bà y tá này đến à?”

“Phần lớn thời gian. Nhưng nếu y tá Eliot không đến được, họ cử người khác đến. Nhưng họ luôn gọi điện và thông báo trước. Thêm vào đó, Y tá Eliot làm việc vào các ngày thứ Ba và thứ Sáu, thế nên từ giờ cho đến mai không ai đến cả. Hàng xóm có nhìn thấy gì không?” Sgarzi nhảy dựng lên. “Ý tôi là thằng cha này hẳn đã đứng trên hàng hiên trước nhà, trong tầm nhìn của cả con phố...”

“Chúng tôi đang đi thăm dò ý kiến.” Phil trấn an anh ta, giọng vẫn nhẹ nhàng.

“Có nghĩa là chẳng thu được gì hết!” Sgarzi buộc tội. “Nếu một trong các cảnh sát mặc thường phục của ông có tin tốt, giờ ông hẳn phải biết rồi chứ. Thằng khốn!”

Anh ta quay người đi, tiếp tục nhìn lò sưởi trừng trừng.

“Cậu nói mình đã mua thức ăn về cho mẹ.” D.D. nói. “Thế còn bữa trưa?”

“Bà ấy dùng một trong mấy món đồ uống dinh dưỡng cho bữa trưa. Sữa Ensure hay đại loại thế.”

D.D. quan sát tay phóng viên từ sau lưng. “Thế còn bữa nhẹ giữa chiều? Vì có hai cái đĩa và hai cái cốc trong bồn rửa.”

“Cái gì?”

Sgarzi lại xoay người lại, trố mắt nhìn. Anh ta lao qua hai người, phi vào bếp, trước khi họ kịp ngăn lại.

“Đừng chạm vào bất kỳ cái gì!” Giọng Phil oang oang sau lưng anh ta.

Cánh tay anh ta khựng lại đúng vào lúc sắp thò vào bồn rửa inox, định túm lấy cái cốc đầu tiên.

“Bằng chứng.” D.D. xen vào, nhắc trực tiếp hơn.

Sgarzi thu tay lại về bên sườn. “Bà ấy có khách.” Anh ta nói, giọng nghe có vẻ buồn cười, gần như bối rối.

“Ý cậu là sao?”

“Suốt mấy tuần rồi mẹ tôi chẳng ăn được nhiều. Tác dụng phụ của thuốc, của đau đớn, hai người biết đấy. Tôi mang bữa tối về cho bà, bà ăn bữa sáng rất ít, rồi một chút đồ uống cho bữa trưa. Nhưng hai cái đĩa, hai cái cốc. Và đây là mấy cái đĩa yêu thích của bà ấy. Bà ấy chỉ dùng đến chúng vào những dịp đặc biệt. Hai người biết đấy, chẳng hạn như khi có khách.”

“Charlie.” D.D. nhẹ nhàng nói. “Có thể nào mẹ cậu quen biết người đến nhà mình chiều hôm nay không? Thế nên bà ấy mới cho người này vào?”

“Tôi không biết.” Sgarzi đáp, giọng anh ta có vẻ sửng sốt, khác xa vẻ chắc chắn vừa nãy.

“Nếu bà ấy có khách, bà ấy sẽ mời cái gì?” Phil hỏi.

“Bánh cuộn Fig Newtons. Trà và bánh ngọt, ông biết đấy.” Sgarzi mở một tủ chè, lấy ra một gói giấy bóng kính màu vàng. Có vẻ như nó mới được mở ra, thiếu mất hai chiếc bánh cuộn.

“Thằng khốn.” Charlie lại kêu lên.

“Chúng tôi sẽ cần danh sách bạn bè và mối quen biết của mẹ cậu.” Phil bắt đầu.

“Không, ông không cần. Mẹ tôi sắp chết vì ung thư. Những người biết bà ấy không đến đây để ăn bánh ngọt, mà mang đồ ăn cho bà ấy. Đây là một vị khách lạ ông biết không? Kiểu người ông sẽ vẫn làm quen, mang hết của ngon vật lạ trong nhà ra mời, kiểu vậy.” Sgarzi trầm tư nhìn xuống gói bánh màu vàng, như thể những cái bánh cho anh ta biết điều gì đó. “Một người bạn của một người bạn sẽ làm thế.” Anh ta lẩm bẩm. “Ai đó cho rằng quen biết tôi, hoặc một người quen cũ quay lại khu này. Ai đó quen biết Donnie.” Anh ta đột ngột kết luận. “Ai đó nói rằng mình biết điều gì đó về Donnie.” Anh ta liếc nhìn họ. “Bà ấy sẽ mở cửa vì người đó. Mời hắn vào. Mang những món ngon trong nhà ra cho hắn, trên những cái đĩa đẹp nhất của mình. Bà ấy sẽ cố gắng vì hắn là người từng biết Donnie. Nói cho hai người biết, Shana Day đã giết mẹ tôi. Và hai người là những kẻ ngu ngốc chết tiệt vì đã không thể ngăn chặn ả sớm hơn.”

D.D. không buồn đáp lại. Việc thiếu bằng chứng ủng hộ giả thuyết của anh ta, nguyên tắc xét xử công bằng, luật báo chí điều tra 101, những điều này Charlie Sgarzi đều chẳng quan tâm. Anh ta chỉ thực sự muốn một điều mà họ không bao giờ có thể mang lại cho anh ta, mẹ anh ta sống lại.

Phil dẫn người đàn ông quay lại phòng khách trước nhà, trong khi cắt một kỹ thuật viên hiện trường lấy dấu vân tay các bát đĩa trong bồn rửa, cũng như mọi thứ khác trong bếp. Ông vừa bảo anh ta lên danh sách các bạn bè và hàng xóm của bà mẹ thì Alex xuất hiện.

Biểu hiện trên nét mặt Alex trước nay D.D. chưa từng thấy, không những rất u ám mà còn lo lắng sâu sắc. Anh ra hiệu cho cô đi theo mình.

Không một lời cảnh báo. Không một cử chỉ động viên nào.

D.D. đủ hiểu thứ cô sắp thấy sẽ cực kỳ khủng khiếp trước cả khi bước vào phòng.

Phòng ngủ phía sau nhà này rất nhỏ, có thể ban đầu nó vẫn là phòng làm việc phía sau trong một ngôi nhà theo phong cách Thực dân trông là lạ. Rất có khả năng căn phòng được sửa lại, khi sức khỏe của Janet Sgarzi sa sút đến nỗi không leo cầu thang được nữa.

Một giường ngủ duy nhất giống giường bệnh có khung kim loại chiếm phần lớn không gian, tựa vào bức tường phía xa và hình như là chặn lối xuống phía sau. Bên cạnh giường là một cái bàn cũ bằng gỗ sồi, trên mặt bàn là một bình nước, rất nhiều các lọ thuốc màu cam, và dĩ nhiên, một chai sâm banh và một bông hồng đỏ duy nhất.

D.D. nhìn chằm chằm hai món đồ này một lúc, vì biết những gì cô sắp thấy chẳng khiến nó dễ chịu hơn.

“Không có chiếc còng tay đệm lông.” Cô lẩm bẩm.

“Không.” Alex đáp bên cạnh cô, nơi anh đang chắn tầm nhìn của cô về phía giường. Hai người đứng nép sát vào nhau, choán hết chỗ trống còn lại trong phòng. Vì nếu cô bước lên phía trước, thì anh sẽ phải lùi lại phía sau và ngược lại. “Lần này có sự khác biệt.” Anh nói tiếp: “Với cả hai nạn nhân và thủ đoạn phạm tội. Cho dù những khác biệt trong thủ đoạn phạm tội có thể có liên quan đến những khác biệt ở nạn nhân.”

“Bắt đầu từ đầu chứ?”

“Nạn nhân là Janet Sgarzi, sáu mươi tám tuổi, sống một mình, ngoài ra đang bị ung thư giai đoạn cuối. Phần sống một mình này phù hợp với hồ sơ nạn nhân của chúng ta. Tuy nhiên, tuổi tác và sức khỏe của bà ấy khiến bà ấy khác biệt. Chúng ta chuyển từ một kẻ săn mồi nhắm vào những phụ nữ độc thân khá trẻ sang vụ sát hại một bà mẹ già cả, ốm yếu.”

“Tấn công ngay giữa ban ngày.” D.D. nói thêm. “Rủi ro cho kẻ săn mồi của chúng ta cao hơn.”

“Phải. Pat ngày càng liều lĩnh hơn. Nhưng nghĩ lại, nạn nhân đặc biệt này nổi tiếng vì thận trọng và có lẽ sẽ không mở cửa sau khi trời tối. Ngoài ra, trong khi bà ấy sống một mình, có vẻ như Charlie thường xuyên ghé qua, căn cứ tình trạng sức khỏe của Janet. Nghĩa là trong vụ đặc biệt thế này, một cuộc tấn công vào ban đêm thực tế có thể rủi ro hơn nhiều.”

“Đầu tiên Sát Thủ Hoa Hồng theo dõi bà ấy. Chắc hắn phải tính toán hết mọi khả năng.”

“Cũng như chúng ta tính toán.” Alex nói. “Pat đã làm bài tập về nhà của mình, các kế hoạch vạch ra sẵn trong đầu. Đó là lý do tại sao chúng ta không thể đi trước hắn ta/ả ta, ngay cả sau bốn lần đột nhập.”

“Bốn lần?”

“Ba vụ án mạng, cộng thêm ở nhà chúng ta nữa. Mà ngay giữa ban ngày.”

D.D. đứng thẳng người lại. “Pat đang thực hành! Em dám cá với anh mọi thứ rằng tên khốn này đang thực hành. Chơi đùa với chúng ta, đúng, nhưng ngoài ra cũng là thực hành nữa! Pat đã lựa chọn nạn nhân kế tiếp của ả, Janet Sgarzi, hẳn là để tiếp cận bà ta vào ban ngày. Thế nên Pat mới phải dùng đến kỹ xảo trong khi theo dõi rồi đột nhập nhà chúng ta. Khốn kiếp!”

Alex đặt một tay lên vai phải của cô, không phải xoa dịu mà là giúp cô trấn tĩnh lại.

“D.D.” Anh nhắc, giọng nói chất chứa sắc thái trịnh trọng.

Ngay lập tức, cô im lặng.

“Tiếp tục phân tích thôi.” Anh nghiêm túc nói.

“Được rồi.”

“Pat đã tính trước. Trong trường hợp này, Sát Thủ Hoa Hồng đã tiếp cận nạn nhân vào ban ngày. Tuy nhiên, căn cứ tuổi tác và sức khỏe của nạn nhân, có thể Pat không lo lắng chuyện khống chế bà ấy ngay cả nếu bà ấy có thức giấc và hoàn toàn tỉnh táo. Nhưng để an toàn, kẻ sát nhân có vẻ đã mang theo loại thuốc an thần không màu, không mùi, không vị, Ben đã tìm được một lọ thủy tinh trong thùng rác có dấu vết của Rohypnol. Rất có khả năng là Pat đã đánh thuốc mê Janet Sgarzi trước.”

“Có các đĩa đồ ăn cho hai người trong bồn rửa.” D.D. cho biết. “Như thể Janet trước đó đã dùng bữa với một vị khách. Bánh ngọt Fig Newtons.”

Alex nhăn mặt.

“Rất có thể Janet Sgarzi không hề cảm thấy gì.” Alex khẽ nói. “So với đau đớn do căn bệnh ung thư mang lại cho cơ thể của bà ấy, có lẽ em có thể tranh luận rằng như thế này... dễ dàng hơn. Ít nhất là một cách chết không đau đớn. Thế nhưng...”

Anh bước lùi lại, làm lộ ra chiếc giường bệnh cỡ lớn, khung kim loại. Và D.D. há hốc miệng kinh hãi, bất chấp bản thân cố cưỡng lại.

Sau khi chết, cô tự nhắc mình. Sau khi chết, sau khi chết, sau khi chết. Thế nhưng dù Alex đã nói trước, cũng chẳng ích lợi gì.

Giống với hai hiện trường tội ác đầu tiên, Sát Thủ Hoa Hồng đã lột da trên thân người và hai bên trên đùi của Janet Sgarzi. Nhưng không như hai nạn nhân đầu tiên, những phụ nữ trẻ tuổi, tương đối khỏe mạnh, Janet đang ốm yếu gầy gò vì một căn bệnh hiểm nghèo. Bà ta chẳng còn gì ngoài da bọc xương. Nghĩa là một khi hung thủ đã lột hết da...

D.D. đưa tay lên che miệng. Cô không thể kiềm chế nổi. Như mọi hiện trường tội ác khác, hiện trường này cũng để lại một dấu hiệu.

“Có những dấu hiệu ngập ngừng.” Alex nói.

“Gì cơ?”

“Dọc theo mép bên ngoài đùi và các xương sườn. Em có thể thấy... Da có vết răng cưa, bị cắt xẻo không đều. Lần thứ ba ra tay, kẻ sát nhân lẽ ra nên kiểm soát tốt nội tâm. Hắn ta/ả ta phải ngày càng trở nên thuần thục, trau chuốt hơn tác phẩm làm bằng tay của mình mới đúng. Nhưng lần này hắn đã phải vật lộn.”

“Do tuổi tác của bà ấy chăng?” D.D. phỏng đoán. “Tấn công một bà già khó hơn hay sao?”

“Không có chiếc còng tay đệm lông.” Alex đáp. “Đó là món đồ chơi tình dục điển hình nhất để lại sau mỗi hiện trường. Nếu chúng ta đang nghĩ đến một nữ sát thủ bị ám ảnh với việc tấn công phụ nữ trẻ để sưu tập các mảnh da không bị chút khiếm khuyết...”

“Thì một bà già là không phù hợp. Bà ấy không thuộc tuýp nạn nhân của Sát Thủ Hoa Hồng. Thậm chí chúng ta có chắc chắn đây là tác phẩm của Sát Thủ Hoa Hồng, chứ không phải là một tội ác bắt chước không?”

“Có.” Alex đáp.

“Nhưng các vết rạch ngập ngừng, thiếu thận trọng...”

“Janet Sgarzi là nạn nhân thứ ba của hắn.” Alex ngắt lời cô. “Một trăm năm mươi ba, D.D. Đó là việc anh đang làm. Đếm các mảnh da người bị lột. Và thề có Chúa, anh hy vọng cả đời mình sẽ không phải làm công việc này nữa, nhưng nó cho anh một con số ma thuật: một trăm năm mươi ba mảnh da.”

D.D. không trả lời ngay. Cô nuốt còn không nổi, huống hồ là nói chuyện. Thảo nào trông Alex lại có vẻ... u ám đến thế. Trong tất cả những hiện trường anh từng phải phân tích...

“Em xin lỗi.” Cuối cùng cô nói.

“Janet Sgarzi là nạn nhân của Sát Thủ Hoa Hồng.” Alex đều đều nói tiếp. “Tuy nhiên, bà ấy không phải kiểu nạn nhân ưa thích của kẻ sát nhân. Tức là có điều gì khác đã biến bà ấy thành mục tiêu.”

“Charlie Sgarzi tin rằng Shana Day đã làm chuyện này.” D.D nói thêm. “Cô ta đã ra lệnh cho Sát Thủ Hoa Hồng giết chết mẹ anh ta để trả đũa anh ta vì đã điều tra cô ta. Hoặc có thể cảnh cáo anh ta tránh cho xa ra, trong trường hợp này, em không nghĩ làm thế có hiệu quả, vì gần như anh ta đã thề là sẽ trả thù.”

“Hoặc bà ấy biết cái gì đó.” Alex nói.

“Ý anh là sao?”

“Shana Day đang im lặng ngồi trong phòng biệt giam gần ba mươi năm, đúng chứ?”

“Đúng.”

“Và bây giờ, đùng một cái, em tin rằng cô ta có tham gia vào một hình thức liên lạc có mã hóa nào đó với kẻ sát nhân hàng loạt xuất hiện rất bí ẩn tại Boston, và dường như đang cạnh tranh với một kẻ săn mồi khác đã chết từ lâu là Harry Day.”

“Đúng.”

“Ngoại trừ liên quan đến câu hỏi của ngày hôm nay, tại sao lại là bây giờ? Sự kiện xúi giục là gì? Lễ kỷ niệm ba mươi năm vụ giết Donnie Johnson à? Có vẻ hơi tùy tiện vì lễ kỷ niệm còn mấy ngày nữa cơ mà.”

D.D. lườm anh. “Chúng ta đã thảo luận chuyện này rồi. Và tin em đi, từ lần trước anh đã nghi ngờ trí tuệ của em có bình thường không rồi mà.”

“Anh không nghi ngờ trí tuệ của em. Mà chỉ đang đưa ra một giả thuyết. Janet Sgarzi không chỉ là bác của Donnie Johnson mà còn là mẹ của Charlie, tay phóng viên mà chỉ mới vài tháng trước đã bắt đầu hỏi những câu hỏi nóng hổi về cái chết của em họ mình.”

D.D. ngước mắt lên nhìn anh, nhíu mày. “Ý anh là...”

“Một ngày kỷ niệm ba mươi năm là yếu tố chủ quan. Ngược lại, điều tra lại một vụ án mạng cũ... Chuyện gì xảy ra nếu ngày xa xưa ấy Shana thực sự có một người bạn? Và chuyện gì xảy ra nếu người đó biết nhiều chuyện, hay đã làm nhiều chuyện, đến nỗi tất cả những năm tháng sau này, hắn ta/ả ta vẫn không dám bước ra ngoài ánh sáng?”

“Động cơ thực sự của Sát Thủ Hoa Hồng không phải là một chuỗi những vụ giết người rùng rợn được chủ ý dàn dựng tinh vi để gợi nhớ lại những bóng ma của Harry Day.” D.D. lẩm bẩm. “Mà đó là sự che đậy. Bởi vì không có đạo luật về thời hiệu đối với tội giết người. Pat vẫn có thể mất mọi thứ.”

“Và một điểm yếu rất chân thực.” Alex nhẹ nhàng gợi ý. “Shana Day.”