Chương 28
“Chị không cần phải cảm thấy tiếc cho chị ấy.” Tôi nói nhanh. Chúng tôi rời khỏi sảnh ẩm thực, bỏ lại đằng sau mùi hương ngầy ngậy của những món chiên nướng, khi tiến thẳng tới thang cuốn và rời khỏi trung tâm mua sắm Prudential. “Chị tôi không giống như chị và tôi. Chị ấy không có mối ràng buộc, không biết thấu cảm hay muốn tiếp nhận sự an ủi của con người giống chúng ta. Chỉ vì chị ấy cô độc không có nghĩa là chị ấy cô đơn. Về ngữ nghĩa mà nói, chị ấy sẽ cảm thấy việc đang đứng trong một căn phòng đông người thậm chí cũng giống y như khi trong vòng tay người đàn ông nói yêu chị ấy. Đó là một phần của chứng rối loạn nhân cách của chị ấy.”
“Nghĩa là biệt giam đối với cô ta mà nói không phải là hình phạt ư?” D.D. hỏi.
“Đúng và không. Thứ chị ấy thiếu không phải là người để bầu bạn, mà là sự kích khích. Shana có thể không thấy cô đơn trong xà lim của mình, nhưng chị ấy đang ngày càng chán nản.”
“Vẫn chưa chán nản đến mức thay đổi phong cách đâu.” Phil nêu rõ.
“Kiểu thay đổi này đòi hỏi từ tận gốc rễ. Các chứng rối loạn gắn bó mang tính chất rất thách thức. Tỷ lệ thành công lớn nhất là khi đối tượng dưới năm tuổi. Xét đến chuyện Shana đã dành cả quãng đời niên thiếu và giờ là đời sống trưởng thành sau song sắt...”
“Cô ta thực sự hòa máu vào món xúp táo à?” D.D. hỏi.
“Giá trị sốc.” Tôi giải thích. “Giám thị McKinnon đã chỉ định cho Shana một nhân viên công tác xã hội mới, mà căn cứ theo cuộc đời xã hội bị hạn chế của Shana, về cơ bản điều này chẳng khác gì trao cho chị ấy thịt tươi. Shana nói với anh ta rằng mình là tôi tớ của quỷ, và việc hòa máu vào món xúp táo cho thấy những khuôn mẫu giúp chị ấy đoán trước tương lai. Chẳng hạn, nhân viên xã hội sẽ chết vào cuối tháng. Thế rồi, khi ông ta bị đau tim ba tuần sau đó...”
“Không thể nào!” D.D. dừng bước.
“Không phải nhồi máu cơ tim.” Tôi trấn an cô ấy. “Mà là do cơn hoảng loạn. Nhiều khả năng nhất là do ông ta mất ba giờ mỗi tuần bầu bạn với chị tôi. Chẳng cần phải nói, nhân viên xã hội này đã rút lui. Và chị tôi lại quay về mưu tính những cách mới để tự tiêu khiển.”
“Như kiểu liên hệ với kẻ sát nhân ấy hả?” Phil hỏi.
Tôi không biết phải nói gì nữa. Bất chợt tôi cảm thấy mình kiệt sức, rã rời. Những gì tôi đã hiểu về chị gái trên phương diện chuyên môn, trái ngược hẳn những gì tôi muốn cảm thấy về chị ấy trên phương diện cá nhân.
Ví như việc chỉ vì tôi không thể cảm thấy đau đớn không có nghĩa là gia đình tôi không thể làm tổn thương tôi.
Chị ấy đã mơ về tôi, thì thầm gọi tên tôi. Bà chị gái của tôi. Chúng tôi chỉ cùng chung sống được vài năm, một năm sống cùng cha mẹ đẻ, hai năm sống cùng cha mẹ nuôi. Thế nhưng cuộc đời chúng tôi dường như mãi mãi quyện vào nhau.
“Hai người đã bao giờ chơi trò quán bar chưa?” Tôi hỏi.
Cả hai thanh tra dừng bước. Chúng tôi đã ở bên ngoài trung tâm mua sắm Prudential, đứng giữa một vỉa hè nhộn nhịp, những dòng người tỏa về mọi hướng quanh chúng tôi. Buổi trưa ở khu thương mại Boston. Những người đi xe buýt sau giờ làm, các du khách, cư dân, tất cả đều đang có những công việc rất quan trọng. Trong khi chúng tôi thảo luận về án mạng, bầu không khí cuối thu táp mạnh lên hai má chúng tôi, mặt trời đang hắt những tia nắng lay lắt.
“Trò chơi quán bar.” Tôi nhắc lại. “Hồi còn là sinh viên tâm lý học, lúc nào chúng tôi cũng chơi trò này. Đi đến một quán bar, nhìn ngắm các bàn xung quanh và suy luận câu chuyện cuộc đời của từng người hay la cà ở các quán bar. Là những bác sĩ tương lai, chúng tôi tự cho rằng bản thân rất giỏi giải thích ngôn ngữ cơ thể. Hai người đều là thanh tra, tôi hình dung hai người cũng giỏi như thế?”
D.D. và Phil nhíu mày nhìn tôi. “Được rồi. Chúng tôi cũng thích trò quán bar.” Cuối cùng D.D. đáp. “Chơi thế nào?”
“Tôi cá rằng chị có thể luôn đoán ra ai vừa ly dị.”
“Tất nhiên.”
“Và chị gái tôi cũng làm được.”
Họ ngừng lại khi tôi quan sát họ vỡ lẽ ngụ ý của câu gợi ý này.
“Cô cho rằng...” Phil lên tiếng. “... Shana đã đoán trúng Frankie vừa ly dị, chỉ bằng cách nghiên cứu hắn à.”
“Không quá khó. Hắn thường xuyên mang theo một túi đồ ăn trưa, do vợ hắn nấu cho hắn, nhưng giờ không thấy nữa. Hắn thường mặc bộ đồng phục sạch sẽ thẳng thớm, do vợ hắn giặt là, giờ thì không thế nữa. Đó là chưa kể đến sự thay đổi về phong cách, như ở lại qua đêm tại nhà tù trong những ngày không có ca trực. Một kẻ nổi tiếng căm ghét đàn bà như Frankie tất nhiên là sẽ cưới một cô vợ lúc-nào-cũng-ru-rú-ở-nhà, đáp-ứng-mọi-nhu-cầu-của-hắn. Một người phụ nữ biết dọn dẹp, nấu nướng và hầu hạ hắn. Nghĩa là một khi cô ta bỏ đi, tác động lên thế giới của Frankie là điều ai cũng thấy. Trong một quán bar đông đúc, tôi có thể đoán ra hắn, và hai người cũng vậy. Thế thì tại sao chị tôi, một người chẳng có việc gì hay hơn để làm, hết ngày này qua ngày khác lại không thể chứ?”
Họ cùng cân nhắc vấn đề này. “Nhưng nghe có vẻ như cô ta biết nhiều điều hơn vụ chia tay mới đây.” D.D. nói.
“Có lẽ chị ấy lượm lặt được những tin tức sốt dẻo từ lời đồn thổi trong tù. Người khác ném ra các gợi ý, chị ấy tiếp nhận chúng. Đó là chưa kể nghệ thuật ăn nói. Bạn không hiểu điều mình biết nhưng phải làm ra vẻ bạn hiểu. Christi gọi đấy là tà thuật. Nhiều khả năng là chị tôi đơn giản thông thạo cách áp dụng những mánh lới đánh lạc hướng cơ bản. Chị ấy lắng nghe, phân tích và sau đó tấn công.”
“Cô ta lắng nghe và phân tích tay lính gác thứ hai, Richie, dụ anh ta vào tròng và giết à?” Phil hỏi lại đầy hồ nghi, trông ông vẫn rất bối rối.
“Tôi cho rằng chị ấy đã cắm chốt anh ta vào cái gọi là lương tâm. Sau đó phần còn lại rất dễ dàng.”
“Nghĩa là cô cũng có thể làm được.” D.D. đáp, giọng cô ấy thách thức.
“Ngoại trừ tôi có lương tâm.” Tôi nhắc nhở cô ấy. Tự nhắc nhở chính mình.
“Cô nghĩ Christi có thể đang nói thật.” Phil nói. “Chị cô đã trên cơ hai tay lính gác đó, thậm chí với cả người thứ ba, Howard, khiến anh ta tự sát trong một tai nạn xe cộ. Ngoại trừ đó không phải là vì cô ta tiếp cận được thông tin bên ngoài, mà chỉ đơn giản là thao túng họ.”
“Tôi nghĩ chúng ta không nên gán cho chị tôi quá nhiều sức mạnh như thế. Chị ấy đã có sẵn những thuộc tính siêu việt rồi.”
“Vậy thì chúng ta còn lại gì?” D.D. hỏi.
Tôi hít một hơi sâu. “Chị ấy không làm thế.”
“Không làm gì?” D.D. lại hỏi, vẫn còn hoài nghi. “Giết Donnie Johnson, sát hại một bạn tù, đâm chết hai lính gác, thao túng Sát Thủ Hoa Hồng hay tất cả những việc này?”
“Chị ấy không giết Donnie Johnson.” Tôi đáp, và khoảnh khắc những từ ngữ này thoát ra khỏi miệng, tôi biết mình nói đúng sự thật. “Sự phóng chiếu cơ bản đúng không? Ba vụ giết người trong nhà tù Massachusetts, những tội ác chúng ta biết rõ nhất, tất cả đều có động cơ: để bảo vệ. Đó là một kiểu kích thích với Shana. Kẻ mạnh tấn công kẻ yếu. Trong trường hợp này, chị ấy đồng cảm với nạn nhân yếu hơn, cảm thấy bị thôi thúc phải can thiệp. Cứu đứa trẻ này ngày hôm nay, chính là cứu đứa bé từng là chị ấy trong quá khứ. Ngay cả vụ tự tấn công mà chị ấy đã giết một tù nhân khi tự vệ cũng thích hợp với khuôn mẫu đó. Vụ này xảy ra trong quãng thời gian ban đầu chị ấy bị bắt giam, người bạn tù đó còn to lớn hơn và có kinh nghiệm hơn. Một lần nữa, kẻ mạnh đi tấn công kẻ yếu.”
“Ngoại trừ Donnie Johnson không phải là kẻ mạnh.” Phil nói.
“Không. Thực ra Donnie Johnson đại diện cho kiểu người chị ấy bị thôi thúc phải bảo vệ.”
“Vậy thì chuyện gì đã xảy ra?” D.D. hỏi.
Tôi lắc đầu. “Tôi không biết Shana cho rằng mình chỉ tự vệ, buộc tội Donnie cố gắng hãm hiếp chị ấy. Nói thẳng điều này là vô lý, kể cả vào hồi đó cũng như bây giờ. Tạm chưa xét đến sự khác biệt về thể hình giữa chị ấy và Donnie, và chắc chắn là tính cách của hai người. Thằng bé được xem là mọt sách khoa học, ngoan ngoãn, vụng về trong giao tiếp xã hội, trong khi Shana được xem là đứa trẻ đường phố cứng rắn, người đã dụ dỗ thằng bé gặp mình để có thế giết hại nó tàn bạo. Phải nói rằng đó là vụ giết người chấn động đầu tiên. Xét đến bản chất ghê rợn của tội ác, chưa mất quá một ngày bồi thẩm đoàn đã tuyên cô bé tuổi vị thành niên một án chung thân. Vụ này là thế đấy. Shana là bị cáo như thế đấy.”
“Cô đang nói chuyện ba mươi năm trước.” Phil thận trọng đáp. “Chị cô còn là một đứa trẻ. Bốc đồng, bị hormone kích thích, liều lĩnh... Có thể lý do vụ án mạng đó khác biệt là vì chị cô khác biệt.”
“Kích thích là kích thích.” Tôi nói một cách đơn giản. “Chúng tôi chỉ ước gì mình có thể thay đổi chúng dễ dàng như thế.”
“Thế tại sao lúc đó cô ta không kháng cáo hơn nữa?” D.D. hỏi.
“Bởi vì chị ấy là Shana. Bởi vì chị ấy thực sự mắc phải chứng rối loạn nhân cách phản xã hội, tức là chị ấy không giao thiệp tốt được với mọi người, cho dù họ có là luật sư, thẩm phán, bồi thẩm đoàn hay những người ngang hàng phải lứa với mình. Có thể hồi đó chị ấy còn bị trầm cảm nữa chưa biết chừng. Tôi chẳng biết nữa. Tôi không gặp gỡ chị ấy trong quãng thời gian mười năm ấy, nên tôi không biết gì về Shana của năm mười bốn tuổi. Nhưng nếu vụ này là như thế... chị ấy hẳn đã phải đón nhận điều tồi tệ nhất. Vậy thì khi nó xảy ra, phản kháng lại có ích gì đâu chứ!”
Phil gật đầu. Ông có vẻ hoang mang. Việc bắt giam bà chị gái tâm thần bốn mươi tuổi của tôi không làm phiền ông. Việc khó khăn hơn nhiều là hình dung con người trước kia của chị ấy, một cô gái trẻ tuổi với quá khứ rắc rối. Chuyện vốn vẫn là thế mà.
“Thế còn luật sư của cô ta?” D.D. hỏi. “Anh ta chắc phải vất vả lắm nhỉ, một thân chủ mới mười bốn tuổi.”
“Người giỏi nhất mà có tiền cũng không mua nổi.” Tôi đảm bảo với cô ấy.
D.D. trố mắt.
“Giờ Charlie Sgarzi cho rằng anh ta tìm thấy những lá thư tình của Shana gửi cho em họ mình, nhưng tôi cũng không tin điều đó. Shana ghét cay ghét đắng những hạng người ngoan ngoãn, dễ phục tùng như thế. Không đời nào chị ấy lại để một thằng nhóc thấp bé hơn, ít tuổi hơn và yếu ớt hơn quyến rũ.”
“Cậu ta có được những lá thư à?”
“Tìm thấy chúng sau khi ông chú tự sát.”
“Cô nghĩ là cậu ta bịa ra sao? Có thể nhằm mục đích bán tiểu thuyết?”
Tôi nhún vai. “Hoặc có những mẩu giấy thật, nhưng anh ta đã hiểu nhầm. Các bức thư thực ra là một hình thức liên lạc mã hóa hoặc không hề dành cho Donnie. Thằng bé là người đưa tin, hoặc...” Tôi dừng lại suy nghĩ thật lâu. “Donnie rất thông minh, một con mọt sách, đúng không? Có thể cậu ta viết chúng giúp Shana. Shana chính xác không phải là một học sinh kiểu mẫu. Đến tận bây giờ chữ viết, chính tả của chị ấy... Hay nên nói là một mẩu giấy viết tay của chị ấy không thừa nhận chị ấy có trí thông minh tự nhiên.”
D.D. vẫn đang nhíu mày.
“Cô nghĩ chị cô đã lên kế hoạch chuyện này?” Đột nhiên cô ấy hỏi. “Ý tôi là tất cả chuyện này.” Bàn tay cô ấy phác cử chỉ khuây vòng tròn. “Cô nghe Christi nói rồi đấy. Shana nói chung đang chết dần chết mòn trong nhà tù Massachusetts, không chút hy vọng được nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Cô ta thông minh, cảm thấy chán nản và có khối thời gian. Vậy tại sao lại không bày đặt một loạt những vụ án mạng tinh tế, sau đó tự xuất hiện đóng vai người hùng? Đã hơn mười năm rồi kể từ khi cô ta trở thành vị cứu tinh khi đâm chết Frankie gì gì đó một trăm nhát. Giờ thì cô ta có thể mướn một tay Sát Thủ Hoa Hồng. Như cô đã nói, thịt tươi.”
Tôi lắc đầu. “Tôi nghĩ sáng nay chị đã đúng. Có một mối liên kết giữa Sát Thủ Hoa Hồng với chị tôi. Nhưng không phải Harry Day, mà là Donnie Johnson. Đó là chuyện thực sự đã xảy ra ba mươi năm trước. Cho dù là bí mật gì đi nữa thì Sát Thủ Hoa Hồng cũng không muốn Charlie Sgarzi đào lên.”
“Vậy là chúng ta quay về với Charlie Sgarzi.” D.D. tuyên bố, nhìn Phil.
“Không.” Tôi chỉnh lại, cô ấy quay phắt sang tôi. “Anh ta vẫn chưa biết được bí mật, đó là toàn bộ vấn đề. Chúng ta cần phải tìm ra ai nắm giữ bí mật. Và tôi có thể giúp hai người. Mẹ nuôi của Shana từ ngày xưa. Họ đã sống gần gia đình Johnson. Rất có khả năng bà ấy còn nhớ được một hai chuyện về đứa trẻ. Và tôi vô tình biết được tên và số điện thoại của bà ấy.”
Brenda Davies vẫn còn nhớ tôi. Chúng tôi chỉ mới gặp nhau một lần, gần sáu năm trước, khi tôi bắt đầu trực tiếp chăm sóc sức khỏe tâm thần cho chị gái, và phỏng vấn Brenda như một phần trong quá trình thu thập thông tin về tiền sử bệnh nhân của mình. Vào lúc đó, cuộc đối thoại của chúng tôi chủ yếu tập trung vào Shana. Bà có vẻ không ngạc nhiên trước cuộc gọi của tôi, hoặc giả tôi có những câu hỏi mới mẻ liên quan đến vụ giết Donnie Johnson. Theo Brenda, lịch công tác xã hội bận rộn của bà hiện đang trống nếu chúng tôi muốn gặp bà ngay bây giờ.
Chúng tôi tiến thẳng đến Nam Boston, Phil làm tài xế. Trên đường đi, tôi đã bảo ông dừng lại ở một trong các cửa hàng bán đồ ăn Ý ngon để mua mẻ bánh nướng mới. Đây xem như là một việc làm hiếu khách, xét đến chuyện chúng tôi đang thâm nhập vào cuộc sống của một bà già, để nói về quãng đời mà bà ấy gần như đã dùng ba mươi năm trước để cố quên đi.
Giờ Brenda mở cửa ra vào của căn nhà ba tầng xập xệ, chớp chớp mắt vì ánh nắng ban ngày, cho dù thực tế mặt trời đang lặn, ngày đang tối dần.
“Bác sĩ Adeline Glen.” Bà ấy nói ngay.
Bà Davies có vẻ đã già đi nhiều kể từ lần cuối chúng tôi gặp nhau. Tấm thân tròn trĩnh ngày trước giờ đã còng, mái tóc xám xổ ra ngoài, khiến bà có vẻ xù xì trong chiếc áo mặc nhà xuềnh xoàng màu xanh lục. Tôi giới thiệu bà với hai thanh tra. Bà tôn trọng gật đầu nhưng hai bàn tay bà siết chặt vào nhau.
Tôi trao tặng bà hộp bánh nướng. Đôi mắt màu xanh nhạt của bà sáng lên cảm kích, bà dẫn chúng tôi đi dọc một hành lang tối ở tầng trệt vào phòng khách chiếm trọn phía sau của căn nhà ba tầng chật hẹp. Bà ra hiệu cho khách ngồi xuống chiếc sô pha màu nâu đã sờn, đủ chỗ cho hai người ngồi, còn mình bận rộn thu dọn trong hàng chồng giấy báo phủ kín mặt bàn cà phê. Bà chuyển chồng giấy xuống sàn, nơi đã có sẵn mấy chồng tương tự. Cả Phil lẫn D.D. thận trọng nhìn xung quanh.
Tôi nhớ ngôi nhà của Brenda Davies đã lộn xộn từ sáu năm trước. Giờ bà ấy đang biến nó thành lãnh thổ tích trữ. Vì thất bại khi nhận con nuôi chăng? Hay nỗi trống trải xuất hiện khi chồng bà qua đời, và giờ đây bà phải đối mặt với những ngày tháng xế chiều hoàn toàn cô độc?
Tôi nhìn quanh căn bếp ê hề bát đĩa, phòng khách chật ních và cảm thấy hối tiếc vì những câu hỏi chúng tôi sẽ hỏi người phụ nữ tốt bụng này. Bà từng là một trong những bà mẹ nuôi tốt nhất. Tôi cũng thấy tự hào vì điều đó. Và đấy là lý do tại sao họ đưa chị tôi đến với vợ chồng bà. Ngoại trừ thay vì giúp chị tôi tìm được mái ấm hạnh phúc mãi mãi về sau, họ đơn giản là những người lãnh hậu quả giùm Shana, vụ giết Donnie Johnson đã hủy hoại danh tiếng của họ trong khu phố, chưa kể đến niềm tin của họ vào công việc của mình cũng không còn.
Tôi chợt nghĩ rằng Charlie Sgarzi có thể đang âm mưu gì đó. Câu chuyện đầy đủ về vụ giết người đó vẫn chưa được khám phá. Tất cả những cuộc đời đều bị ảnh hưởng. Cuộc đời của Brenda Davies, của gia đình Johnson, của gia đình họ hàng với họ, nhà Sgarzi, cuộc đời của chị gái tôi. Và giờ là cuộc đời của chính tôi.
Một hành động khủng khiếp, hậu quả để lại có quá nhiều gợn són lăn tăn.
“Cà phê hay trà?” Bà Davies hỏi. Bà đang bận rộn trong bếp, di chuyển mấy chồng bát đĩa bẩn, các bình nước trống rỗng, cho đến khi dường như bà đã tìm được một chiếc đĩa sạch sẽ. Bà đổ bánh xốp kem, bánh ngọt Ý và bánh hạnh nhân ra đĩa, rồi cẩn thận mang đĩa bánh đến bàn cà phê, đôi chân bà lê bước.
Phil ân cần đỡ lầy cái đĩa từ tay bà. Ông và D.D. từ chối uống cà phê. Nhưng thấy nét mặt bà sa sầm, họ xin lỗi và nhất trí rằng được uống cà phê sẽ rất tuyệt.
Gương mặt bà Davies lại rạng rỡ, bà lại quay vào bếp tiếp tục bận rộn với không gian có lẽ mấy năm rồi chưa từng trông thấy cái giẻ lau, hay nước rửa bát.
Phil và D.D. ngồi cứng nhắc trên sô pha, cánh tay trái D.D. ép sát mạng sườn. Tôi ngồi trên cái ghế tựa ọp ẹp phía đầu bàn cà phê. Một con mèo mướp lông màu cam chẳng biết từ đâu chui ra nhảy lên lòng tôi. Rồi thêm hai, ba con mèo nữa bắt đầu ló mặt ra. Dĩ nhiên rồi.
Cuối cùng một con mèo lông trắng chấm đen với đôi mắt sáng nhảy lên lòng D.D., mũi nó cọ mạnh vào bên vai bị thương của cô. D.D. xua nó đi, con mèo nhảy vọt xuống, lẩn đi với cái đuôi ngoe nguẩy bực bội.
“Thôi nào Tom.” Bà Davies gọi với ra từ trong bếp. “Đừng có quấy rầy khách của chúng ta đi. Cái con này chẳng biết lịch sự gì cả. Tôi mang nó về từ ngoài phố khi nó còn bé lắm, thế mà chẳng biết ơn gì hết! Nào cà phê đến rồi đây.”
Bà Davies lại xuất hiện, mỗi lần mang ra một cốc cà phê hòa tan. Phil đứng bật dậy, rất có thể là để tránh Tom đang đến gần và đỡ đần bà già. Khi tất cả chúng tôi một lần nữa yên vị, bà Davies ngồi đối diện tôi.
Bà ấy không uống cà phê cũng không chạm vào món bánh nướng. Mà chỉ đơn giản ngồi đó, hai bàn tay đan vào nhau đặt trong lòng, với dáng vẻ đợi chờ. Hai con mèo tiến đến chỗ bà, mỗi con một bên, như những người lính gác đứng chầu. Và rồi tôi nhận ra điều đó. Ánh u sầu trong đôi mắt bà ấy, sâu thẳm và thấu suốt, đến nỗi có bao nhiêu con mèo hay biết mấy lộn xộn nào có thể làm bà nguôi ngoai. Bà đau khổ, và cam chịu nỗi đau của mình. Giờ đây bà nhìn chúng tôi chằm chằm, biết rằng những câu hỏi này sẽ làm mình tổn thương và chấp nhận số phận.
“Cảm ơn bà đã gặp chúng tôi sau thông báo ngắn như vậy.” Tôi nói.
“Cô đã nói cuộc gặp này là vì chị gái?”
“Có thêm vài câu hỏi mới liên quan đến cái chết của Donnie Johnson...”
“Ý cô là vụ giết thằng bé?”
“Vâng. Những thanh tra này muốn hỏi bà về thời điểm đó. Về Shana, Donnie, những hàng xóm của bà. Tất cả những chuyện đó.”
Bà Davies nghiêng đầu sang bên. Bà nhíu mày, có vẻ hoang mang, rồi buông xuôi với một cái gật đầu nhẹ. “Chà, đã lâu lắm rồi, các vị biết đấy. Cho dù các vị gặp may đấy, vì có lẽ với tuổi tác tầm này, trí nhớ của tôi yêu thích quá khứ hơn hiện tại. Hỏi tôi về chuyện tuần trước, có lẽ tôi không giúp được. Nhưng ba mươi năm trước thì...” Bà ấy thở dài. “Ba mươi năm trước, tôi vẫn nhớ nhiều chuyện mà chỉ muốn quên đi.”
“Kể cho chúng tôi nghe về Shana Day đi.” D.D. lên tiếng.
Bà Davies liếc xéo sang tôi, như thể bà ấy không chắc chắn nên ăn nói thế nào khi có mặt tôi.
“Không sao.” Tôi trấn an bà ấy. “Tôi không nuôi ảo tưởng gì liên quan đến chị gái đâu. Nên bà không cần phải lo lắng nếu nói xấu về chị ấy trước mặt tôi.”
“Con bé không có tâm hồn.” Bà Davies bắt đầu luôn, không cảm xúc, thản nhiên như không. “Ôi, đám trẻ mà Jeremiah và tôi đã nhận nuôi hồi đó. Những đứa trẻ rắc rối, buồn bã, giận dữ. Trai gái lớn nhỏ đủ cả. Chúng tôi tưởng mình đã chứng kiến tất cả, có thể giải quyết tất cả. Chúng tôi đã kiêu ngạo. Kiêu căng là một tội ác, và ác quỷ đã gửi Shana đến làm thứ hủy hoại thanh danh của chúng tôi.”
“Vào lúc đó bà còn nhận nuôi đứa trẻ nào khác không?” Phil hỏi.
“Ba đứa nữa. Một đứa lớn tuổi hơn, Samuel, mười bảy tuổi và đã ở với chúng tôi được ba năm. Jeremiah nhận bảo trợ cho nó, dạy cho nó nghề mộc. Đó là vấn đề với hệ thống, anh biết đấy. Khi bọn trẻ được mười tám tuổi và thế đó. Nhà nước quẳng chúng ra ngoài đường, không cần biết chúng đã sẵn sàng hay chưa. Sam rất căng thẳng về chuyện sắp xảy ra. Nhưng Jeremiah nghĩ rằng mình có thể kiếm việc làm cho thằng bé ở chỗ một người bạn. Và chúng tôi đã bảo nó rằng nó có thể ở lại với chúng tôi, chúng tôi xem nó như con trai vậy. Không cần biết nhà nước nói thế nào, chúng tôi sẽ không quay lưng lại với nó.”
“Bà vẫn nhận tin tức về cậu ấy chứ?” D.D. hỏi.
“Đúng. Giờ nó sống ở Allston. Khi thuận tiện, nó vẫn ghé thăm chúng tôi. Tất nhiên thời buổi này ai cũng bận rộn. Nghề mộc thì không còn bận rộn như trước. Nó di chuyển rất nhiều để tìm việc. Có thể tôi không gặp được nó thường xuyên như ngày xưa.”
Tôi để ý thấy hai bàn tay của bà Davies đang siết chặt vào nhau đặt trong lòng, các khớp ngón tay trắng bệch. Một trong các con mèo có lông màu xám chậm rãi bước đến dụi dụi vào chân bà. Đáp lại, bà ngoan ngoãn vuốt ve nó. Còn trên lòng tôi, con mèo mướp lông màu da cam đang kêu grừ grừ, một thanh âm nền êm dịu lạ thường trong cuộc đối thoại rắc rối như thế này.
“Những đứa trẻ khác thì sao?” Phil hỏi tiếp.
Bà Davies kể liến thoắng. Một cô bé tám tuổi, có làn da cà phê đẹp nhất, đã ở cùng vợ chồng bà trong hai tháng, rồi lại quay về với người mẹ tàn tạ vì nghiện ngập của nó. Cùng với một thằng bé năm tuổi, Trevor, bố mẹ nó đều qua đời trong một tai nạn xe cộ. Nhà nước bấy giờ tìm cách xác định các thành viên khác trong gia đình nó, để xem có ai sẵn sàng nhận nuôi thằng bé không. Trong khi chờ đợi, thằng bé ở cùng vợ chồng Davies.
“Dĩ nhiên, tiếp theo là Shana. Nhà nước đã cảnh báo chúng tôi con bé là đứa trẻ có vấn đề. Mới hai năm thôi mà con bé từng sống với sáu hay bảy gia đình rồi, đó không bao giờ là dấu hiệu tốt. Gây rắc rối với những đứa trẻ khác, với cả chính quyền. Một kẻ thích rạch.” Bà Davies ngừng lại. “Các vị biết tôi muốn nói gì đúng không?”
“Cô ta hay dùng dao cạo rạch tay chân mình.” D.D. nói thêm.
“Phải. Tôi cũng biết hầu hết chuyện đó. Nhưng Shana... nó còn rạch chân nó cao hơn mức cần thiết. Gần đến...” Bà Davies hạ giọng xuống gần như thì thầm. “... Chỗ ấy.” Bà nói tiếp đầy ẩn ý. “Tôi nghĩ con bé sắp đến tuổi dậy thì nên tặng cho nó mấy sản phẩm thích hợp. Nhưng không, con bé tự làm mình chảy máu. Lần đầu tiên khi tôi mang chúng lên, con bé chỉ nhìn tôi chằm chằm. Không hề có cảm ơn vì đã giúp đỡ, nó không hề biết ơn khi ai đó khác cố gắng chăm sóc cho nó, cứ như... chẳng có gì xảy ra cả. Tôi đã hỏi con bé tại sao cứ tự làm tổn thương mình thế. Con bé chỉ nhún vai, và đáp tại sao lại không.
Và Shana là thế đấy. Dù bạn có làm gì hay nói gì cũng vẫn thế... Nếu tôi có bắt tận tay con bé đang móc túi, những ngón tay con bé thò vào trong túi xách của tôi. Con bé sẽ chẳng phủ nhận, chỉ nhún vai và nói con cần tiền. Sam lúc đó mười bảy tuổi. Tôi đã từng bắt gặp Shana trong phòng ngủ của thằng bé hai lần. Chúng nó... các vị biết đấy. Chuyện đó không được phép, tôi bảo chúng thế. Bấy giờ Sam cảm thấy xấu hổ lắm, nó còn không dám nhìn vào mắt tôi. Nhưng Shana chẳng buồn bận tâm. Con bé thích tình dục, muốn quan hệ tình dục và tôi là cái thá gì mà bảo con bé không được làm thế? Không xấu hổ, không hối hận, lúc nào cũng chỉ tôi, tôi, tôi, tôi, tôi.
Chỉ hai tuần chúng tôi đã biết mình bó tay rồi. Bạn không thể trừng phạt con bé, cũng như không thể thưởng cho nó. Jeremiah đã đề ra kế hoạch làm việc cho cả nhà. Không quá khó để vẫn thực hiện được, nhưng vẫn đủ rèn cho bọn trẻ ý thức về trật tự và kiên định. Nhưng Shana thì không. Con bé dậy vào giờ nó muốn, bỏ đi khi con bé thấy thích, quay về khi nó thỏa mãn. Chúng tôi cố gắng uốn nắn nó. Con bé cười vào mặt chúng tôi và bước ra cửa. Chúng tôi gọi cảnh sát khi con bé ăn trộm, nó ngủ cả đêm trong tù, rồi sau đó ung dung đi bộ về nhà chẳng mảy may xước xát. Chúng tôi có nói gì làm gì cũng chẳng có tác dụng với con bé.
Chúng tôi nghĩ rằng cứ để thêm một thời gian ngắn nữa. Chúng tôi là một tổ ấm yên ổn. Ngôi nhà sạch sẽ, đồ ăn ngon, cha mẹ chu đáo. Và Trevor thích con bé, đúng là lạ lùng khi biết chuyện này. Tôi luôn quan sát khi hai đứa ở bên nhau, đừng nhìn tôi như thế. Nhưng con bé thực sự đối xử với thằng bé rất tốt. Nó đọc truyện cho thằng bé hay vẽ tranh cùng thằng bé. Trevor đang đau khổ, thằng bé tội nghiệp này đã mất cả gia đình chỉ trong một buổi chiều. Khi Shana ở cùng thằng bé, nụ cười tự mãn khủng khiếp kia đã biến mất trên gương mặt nó, và trong phút chốc, con bé gần như trở lại làm người. Chúng tôi không ngừng cho rằng, rồi con bé sẽ là đứa trẻ ngoan hiền, chỉ cần chúng tôi nỗ lực hơn nữa.”
“Lần đầu tiên cô ta gặp Donnie Johnson là lúc nào?” Phil hỏi.
Bà Davies lắc đầu. “Tôi không biết hai đứa nó đã gặp nhau. Tất nhiên, Donnie sống ở gần đây, nhưng có đến hơn hai mươi đứa trẻ như thế. Chúng chạy khắp xung quanh. Hồi ấy chúng tôi chẳng suy nghĩ nhiều về chuyện này. Lũ trẻ được tự do ra ngoài chơi. Khi đến giờ ăn tối, bạn sẽ bước ra cửa gọi và chúng lại quay vào nhà.”
“Còn đứa trẻ nào khác mà cô ta dường như đặc biệt thích chơi cùng không?” Phil thử hỏi.
“Anh họ của Donnie, Charlie. Charlie Sgarzi. Cậu ta cùng một số đứa trẻ khác lớn hơn lập thành một kiểu, tôi chẳng biết nữa, nói là băng nhóm thì hơi quá. Nhưng mà chúng luôn đi chơi cùng nhau. Áo khoác da màu đen, thuốc lá phì phéo, giả đò rằng chúng rất ngầu.”
“Charlie kết bạn với Shana ư?” Đến lượt tôi lên tiếng, vì đây là tin mới.
“Bạn bè á?” Bà Davies hỏi lại với cái nhíu mày. “Ôi, tôi không biết rằng Shana có bạn đấy. Nhưng có lần tôi thấy con bé đi chơi với hội này. Điều đó khiến tôi lo lắng. Chúng là một lũ du côn có tham vọng, còn con bé đã có đủ những rắc rối của mình. Tôi đã cố gắng nói chuyện với con bé nhưng nó chỉ cười. Bọn đú, con bé gọi chúng nó như vậy đấy. Rồi sau này tôi nghe những bà mẹ khác nói rằng không phải con bé hứng thú với bọn nhóc đó, mà là một đứa trong bọn có thằng anh trai hai mươi tư tuổi chơi ma túy. Đó mới là đối tượng con bé dành nhiều thời gian ở bên cạnh. Một con bé mười bốn tuổi, cặp kè một thằng hai mươi tư tuổi...”
Bà Davies lắc đầu. Đã bao nhiêu năm qua rồi mà giọng bà ấy vẫn đầy thất vọng.
“Shana sống với gia đình bà trong bao lâu?” Phil hỏi.
Nét mặt bà ấy thay đổi, đột ngột nghiêm trang. Những vết nhăn hằn sâu hơn trên gương mặt. “Ba tháng.” Bà ấy thì thầm. Chỉ thế thôi. Và rồi chúng tôi chấm dứt.”
“Hôm đó đã xảy ra chuyện gì, bà Davies?” D.D. nhẹ nhàng lên tiếng.
“Tôi không biết. Thề có Chúa là tôi nói thật. Shana thức dậy vào khoảng mười một giờ, rời khỏi nhà. Chúng tôi cho những đứa trẻ khác ăn bữa phụ lúc bốn giờ khi chúng đi học về, nhưng không thấy bóng Shana đâu. Rồi tầm khoảng năm giờ. Phải, năm giờ chiều, tôi vừa định cho bữa tối vào lò, thì nghe thấy tiếng la hét. Bà Johnson, nhà bà ấy chỉ cách nhà tôi vài căn thôi. Bà ấy cứ thế la hét mãi. Con tôi, bà ấy không ngừng than khóc. Con tôi...
Jeremiah chạy ra cửa. Vào lúc ông ấy đến đó, ai đã gọi một chiếc xe cứu thương. Nhưng theo lời Jeremiah, các kỹ thuật viên y tế khẩn cấp chẳng làm được gì nữa. Họ chỉ đứng nhìn cơ thể máu me be bét của thằng bé... Bà Johnson không bao giờ gượng dậy được. Gia đình đó, cái gia đình tội nghiệp đó...”
Giọng bà Davies lạc đi. Rồi bà ấy khẽ kể tiếp. “Một tiếng sau, Shana bước vào qua cửa hậu. Trên người con bé đầy máu, tay đang cầm con dao. Tôi thở hổn hển. Tôi hỏi con bé rằng nó có ổn không. Nhưng nó chỉ bước đến, trao cho tôi con dao. Rồi con bé quay lưng bước lên gác. Khi Jeremiah đi lên, ông ấy thấy con bé đang ngồi trên mép giường, người vẫn đầy máu, cứ ngồi đó thôi.
Ông ấy hiểu ra rồi, ông ấy bảo tôi khi nhìn thấy con bé, cái nét mặt đờ đẫn của con bé. Ông ấy đã hỏi con bé chuyện này có liên quan đến thằng bé nhà Johnson không. Con bé không đáp, nó thọc tay vào túi, rồi rút ra một thứ trông có vẻ như nắm mô và trao cho ông ấy. Cái tai của Donnie Johnson. Con bé trao cho chồng tôi cái tai của thằng bé. Jeremiah đã gọi cảnh sát. Chúng tôi còn làm được gì nữa?
George Johnson, bố của Donnie, là người đến đầu tiên. Ông ấy đã nghe tin qua điện đàm của cảnh sát nào đó và chạy thẳng xuống phố. Tôi nghĩ chúng tôi không nên để ông ấy vào nhà. Tôi lo sợ ông ấy có thể làm gì con bé. Nhưng ông ấy đã kiềm chế được khi Jeremiah dẫn ông ấy lên gác. Ông ấy hỏi thẳng Shana rằng có phải con bé giết con trai ông ấy không. Nhưng con bé chẳng nói gì. Nó chỉ nhìn chúng tôi trừng trừng bằng đôi mắt trống rỗng. Cuối cùng, các sĩ quan khác đến, hớt hải và hổn hển. Một sĩ quan cầm lấy cái tai, thả vào túi bằng chứng. Sau đó họ đọc cho Shana nghe các quyền của con bé rồi đưa nó đi.
Con bé không bao giờ quay về nhà chúng tôi nữa. Nhưng cũng chẳng quan trọng. Chuyện tồi tệ nhất cũng xảy ra rồi. Sau đó hàng xóm không muốn nói chuyện với chúng tôi nữa. Chúng tôi đã nhận nuôi một con ác quỷ, rồi thả nó vào giữa bạn bè của chúng tôi. Jeremiah không bao giờ phục hồi được, dường như ông ấy suy sụp, mất hết hứng thú đối với bọn trẻ, với ngôi nhà và cuộc sống của chúng tôi. Samuel dọn ra ngoài ở sáu tháng sau đó, tôi nghĩ phải ở trong một căn nhà đã trở nên... đen tối như thế quá khó khăn đối với nó. AnaRose bé bỏng xinh đẹp trở về sống với mẹ đẻ, trong khi nhà nước chuyển Trevor sang căn nhà khác. Tuy họ chẳng nói lý do nhưng chúng tôi hiểu. Đó là cú đánh nặng nề nhất, mọi người biết đấy. Chúng tôi không còn cơ hội với Shana nữa. Nhưng còn hai đứa bé ấy chúng tôi lẽ ra có thể cứu được. Tôi không bao giờ đủ can đảm tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với chúng. AnaRose, con bé xinh xắn quay trở về sống với bà mẹ nghiện ngập. Còn Trevor nhiều khả năng cuối cùng rồi cũng rơi vào một trong các căn nhà... như thế thôi. Mọi người biết đấy, nơi người ta nhận nuôi trẻ chỉ vì khoản tiền trợ cấp hằng tháng, sống túm tụm với nhau, bốn đứa một phòng, nơi đứa lớn nhất ngược đãi đứa bé nhất, nhưng chẳng ai quan tâm. Lẽ ra tôi phải hỏi nhiều câu hỏi hơn nữa, nhưng tôi không nghĩ mình có thể chịu đựng nổi những câu trả lời. Có thể sau tất cả những chuyện đã xảy ra, tôi cũng đã suy sụp một chút rồi.”
Bà Davies tiếp tục vuốt ve con mèo bên phải, tự trấn tĩnh lại.
“Bà có thể cho chúng tôi biết chuyện gì xảy ra với nhà Johnson không?” Phil hỏi.
Bà Davies nhún vai. Vành mắt bà vằn đỏ. “Mẹ của Donnie là Martha sa vào nghiện rượu. Đó là những gì tôi nghe được. Sau đó bà ta không chịu gặp và nói chuyện với tôi nữa. Tôi bắt đầu ở trong nhà nhiều hơn, như thể khi tôi chường mặt ra ngoài sẽ khiến hàng xóm bực mình. Nhưng với gia đình đó... Donnie là niềm hạnh phúc, niềm tự hào của họ. Thằng nhóc sáng dạ, đặc biệt giỏi về khoa học. Bố nó thường khoe khoang rằng ông ấy có thể là một cảnh sát, nhưng Donnie một ngày nào đó sẽ làm giám đốc phòng thí nghiệm hình sự. Tôi nghe nói George tự sát bằng súng. Những ông bố bà mẹ không bao giờ muốn sống lâu hơn con mình, dễ hiểu mà.”
“Bà Davies.” Tôi lên tiếng. “Bà có mặt khi họ khám xét phòng Shana không?”
“Có.”
“Bà có nhớ họ có tìm thấy bất kỳ lá thư, bất kỳ hình thức liên lạc nào giữa Shana và Donnie không? Có thể là những mẩu giấy riêng tư, hay thư tình?”
Bà Davies làm vẻ mặt giễu cợt. “Shana và một thằng nhóc mười hai tuổi sao? Tôi không nghĩ thế. Nói thẳng, thằng nhóc buôn bán ma túy hai mươi tư tuổi ấy còn hợp với con bé hơn đấy.”
“Có thể nào chị ấy chỉ kết bạn với thằng bé không? Bảo trợ cho thằng bé, như mối quan hệ của chị ấy với Trevor?”
“Tôi không biết. Chuyện này con bé luôn giữ kín. Nhưng... biết đâu đấy. Tôi luôn nghĩ rằng để hiểu được Shana vẫn khó khăn hơn tôi tưởng lúc ban đầu. Điều đó chỉ đơn giản chứng tỏ rốt cuộc tôi là kẻ ngây thơ.”
“Thế còn nhà Sgarzi?” D.D. hỏi. “Có vẻ như vụ án Donnie bị giết hại cũng là chuyện rất khó khăn với cả gia đình họ nữa.”
“Tất nhiên, Janet và Martha là hai chị em gái, họ luôn rất thân thiết. Tôi nghe nói rằng Janet đã ở ẩn một thời gian dài sau đó, còn Martha tiếp tục cố gắng xua tan nỗi đau buồn. Hẳn là cuộc hôn nhân hay gia đình của Janet cũng không mấy dễ chịu. Và đáng buồn là nỗ lực của Martha cũng không cứu được bà ta, không sớm thì muộn bà ta cũng uống rượu đến chết.”
“Tức là Janet Sgarzi đã mất đứa cháu trai, rồi mất em gái, sau đó là mất em rể.” D.D. nhẹ nhàng nói nốt. “Thế còn chồng Janet, ông Sgarzi?”
“Tôi không biết nhiều về người chồng.” Bà Davies đáp. “Là lính cứu hỏa, ông ta bận suốt. Nhưng bây giờ Charlie, đứa con trai của họ, tự dây vào rắc rối trong những năm tháng sau đó. Tôi không biết có phải đây là hậu quả cú sốc khi em họ bị giết chết như thế, hay vì mẹ nó mất hút để chăm sóc cho người em gái, nhưng nó vướng vào đủ chuyện như trộm vặt, cố ý phá hoại, đại loại thế. Cha mẹ nó cuối cùng cũng thu xếp cho nó tránh đi xa. Có lẽ là sang New York. Chắc cách này hiệu quả, lần cuối cùng tôi nghe được là Janet đang ba hoa về chuyện nó trở thành phóng viên, đang ấp ủ cái gì đấy. Tôi nghĩ dạo này nó tu tỉnh rồi, biết quan tâm đến mẹ. Sức khỏe của bà ta không tốt, cô biết đấy. Ung thư. Tệ lắm, tôi e là vậy.”
Chúng tôi cùng gật đầu, muộn màng nhận ra rằng bà Davies không nghe nói gì về vụ giết Janet Sgarzi. Có thể bà ấy cũng chẳng biết chút gì về Sát Thủ Hoa Hồng. Dường như thế có khi lại tốt hơn.
“Bà nghĩ xem còn ai nữa có thể bị ảnh hưởng trực tiếp từ vụ án Donnie bị giết hại?” Phil hỏi.
“Không nghĩ được ra người nào.”
“Bạn bè của Donnie chẳng hạn? Những đứa trẻ hồi đó quen biết thằng bé rõ nhất?”
Bà Davies lắc đầu. “Tôi rất tiếc. Tôi không biết nhiều về Donnie. Nó chỉ là một trong mấy đứa bé. Anh nên hỏi Charlie ấy, nó nhớ về bọn nhóc ấy tốt hơn tôi.”
Phil gật đầu. Ông hỏi họ tên đầy đủ của những đứa trẻ khác từng ở nhà này, khi Shana vẫn chưa bị bắt đi. Samuel Hayes, AnaRose Simmons, Trevor Damon.
Chúng tôi đứng dậy, con mèo lông da cam duyên dáng nhảy xuống khỏi lòng tôi.
Mặc dù cuộc nói chuyện có những lúc căng thẳng và mang lại hồi ức đau buồn, tôi có thể nói rằng bà Davies rất buồn khi thấy chúng tôi ra về. Tôi tự hỏi bà ấy phải cảm thấy như thế nào khi vẫn sống trong khu phố này suốt bao năm tháng qua, và vẫn cảm thấy như kẻ bị gạt ra rìa xã hội.
Tôi cúi người về phía trước theo bản năng, hôn lên một bên má mỏng như tờ giấy của bà ấy.
Bà ấy siết chặt tay tôi.
Rồi bà ấy tiễn chúng tôi đi dọc hành lang dài, hẹp ra cửa trước. Hình ảnh cuối cùng tôi được thấy là gương mặt buồn bã, hằn sâu nếp nhăn, ngay trước khi cánh cửa khép lại.