← Quay lại trang sách

Chương 35

Bà mẹ nuôi trước kia của Shana, bà Davies, tỏ ra thách thức.

“Vậy là con bé thoát rồi. Nó có thể làm gì được tôi? Hủy hoại giấc ngủ của tôi, phá hoại danh tiếng của tôi, khiến tôi ước rằng mình không còn sống nữa à? Con bé đã làm hết rồi còn gì.”

“Chúng tôi vào trong nhà được không?” Phil nài nỉ. “Xem một vòng thôi mà?”

Bà già cuối cùng cũng nghe lời, chiếc áo choàng hoa mặc ở nhà của bà ấy cuốn quanh đôi mắt cá chân khi rảo bước dọc hành lang hẹp. D.D. để ý hôm nay bước chân của bà ấy mạnh mẽ hơn ngày hôm qua. Cơn phẫn nộ đã có tác động lên mọi người.

D.D. kiểm tra khắp trong nhà bà Davies, trong khi Phil tiến hành khám xét nhanh khu vực bên ngoài. Không có nhiều đất đai ở bên ngoài, căn cứ cách bố trí các ngôi nhà ở Boston rất gần nhau. Bên trong D.D. cũng có thể nói điều tương tự, chỉ cần nhìn bao nhiêu là đồ đạc bà Davies nhét vào trong chỗ ở của gia đình này. Cá nhân D.D. nghĩ rằng chẳng có đủ không gian cho chính bà Davies trong căn nhà, huống chi có chỗ cho kẻ sát nhân vừa trốn trại.

Họ quay vào với bà Davies phía sau nhà, thấy bà ấy đang ngồi trên sô pha, vuốt ve một con mèo mướp có màu lông xám và đen.

“Bà có nghĩ ra chỗ nào Shana có thể đến không?” Phil hỏi.

“Làm ơn đi. Đã ba mươi năm rồi. Bao nhiêu người đã đến rồi đi? Thậm chí chính thành phố này cũng không còn như xưa, thời hậu Big Dig[*] và mọi thứ.”

D.D. và Phil nhìn nhau. Rõ rồi.

“Bà Davies này.” D.D. lên tiếng. “Hôm qua bà đã nhắc đến cô bé con nuôi, AnaRose Simmons, người được nhà nước đưa đi sau... biến cố Shana.”

“À.” Nét mặt của bà Davies dịu lại ngay lập tức. “Con bé xinh lắm. Thiên thần bé bỏng xinh xắn, phải cái nhút nhát. Chỉ nói được có hai từ thôi, nhưng ngọt ngào lắm, rất ngọt ngào.”

D.D. đã nghĩ về chuyện này suốt cả đêm. Cô thích Samuel Hayes, và việc cậu ta đăng bài lên một trang web buôn bán đồ lưu niệm của những kẻ sát nhân chắc chắn cần được điều tra đào sâu. Nhưng nếu họ đang tìm một phụ nữ... vậy còn cô bé trở về với bà mẹ nghiện ngập từ một gia đình nhận nuôi đầy tình yêu thương do sự phạm tội của Shana thì sao? Một việc thế này chắc chắn khiến D.D. giận dữ.

“Bà có nghe tin tức gì từ AnaRose không?”

“À không. Tôi chẳng dõi theo nữa. Tôi nói rồi mà.”

“Vậy còn cô bé có cố gắng liên hệ với bà khi đến tuổi trưởng thành không?”

Bà Davies nhìn cô chằm chằm, cảm thông. “Nó không diễn ra như thế Thanh tra ạ. Cô tưởng việc có thể vậy. Nhưng tôi đã chứng kiến bao đứa trẻ. Hầu hết chúng đến rồi đi, và một khi chúng đã đi là đi luôn. Đó là những gì phong cách sống dạy cho chúng. Chúng không bấu víu quá khứ. Chúng chỉ sống cho hiện tại, vì chúng đã học được những bài học đắt giá, nên đó là tất cả những gì chúng có.”

D.D. nhíu mày. “Còn AnaRose?”

“Tôi không biết con bé đã trở thành cái gì. Nếu đứa nào có thể biết thì đó là Samuel. Sam như người anh trai cả của con bé. Có thể chúng vẫn giữ liên hệ với nhau.”

“Nói đến cậu Hayes...”

“Samuel à?”

“Chúng tôi cũng rất lo lắng cho cậu ta.” D.D. thông báo. Đứng đối diện cô, Phil gật đầu đồng tình. Đến giờ này họ không thể tìm được Samuel. Vậy thì tại sao không tuyển luôn bà Davies vào nhóm của mình?

D.D. ngừng lại. “Bà có số điện thoại nào không? Hay có cách nào tốt hơn để chúng tôi liên hệ được với cậu ấy không?”

“À có. Đợi một chút.”

Bà Davies biến mất vào trong bếp. D.D. phải rất cố gắng tránh nghĩ đến không gian đó, những chồng bát đĩa chưa rửa, thức ăn thối rữa, lông mèo vương khắp quầy bếp. Vài phút sau, bà già quay lại với một mẩu giấy trong tay.

“Tôi có thể gọi cho thằng bé nếu cô muốn?” Bà Davies vui vẻ đề nghị.

“Thế thì tuyệt quá.”

Bà Davies bấm số điện thoại. Chẳng có gì tốt hơn việc một nghi phạm nhận cuộc gọi từ một số điện đã quen thuộc. Bà Davies đang liên tục khiến cuộc sống của D.D. và Phil dễ chịu hơn.

Thời gian càng trôi, D.D. ngày càng lo lắng, đến khi:

“Samuel à!” Bà Davies thốt lên. Gương mặt bà nở bừng nụ cười ấm áp. Sau chừng ấy năm tháng, thật dễ hiểu tại sao bà vẫn xem cậu ta như con trai mình.

Điều này gần như khiến D.D. cảm thấy có lỗi.

“Con đã nghe tin tức gì chưa?” Bà Davies nói tiếp. “Shana Day trốn trại rồi. Đang có hai thanh tra đến nhà mẹ này. Họ rất lo lắng cho mẹ, Sam à. Và họ cũng lo lắng cho cả con nữa.”

Một khoảng lặng, Samuel nói gì đó đáp lại. Dù là gì đi nữa, nó cũng khiến bà Davies nhíu mày.

“Chà, mẹ không biết... Mẹ... ừ... Không. Ở đây. Con nói chuyện với họ nhé. Dù sao họ cũng muốn nói chuyện trực tiếp với con.”

Không trì hoãn thêm nữa, bà Davies dúi điện thoại vào tay D.D. Cô đưa điện thoại lên tai mình.

“Samuel Hayes phải không? Tôi là Thanh tra D.D. Warren, Sở Cảnh sát Boston. Chúng tôi đang làm việc với đội đặc nhiệm truy tìm Shana Day.”

Phil gật đầu khích lệ. Nhấn mạnh chữ Shana Day. Họ không hề nghi ngờ gì Samuel hết. Không, trong vụ giết ba phụ nữ cậu ta còn không phải là nghi phạm chính, nói gì đến chuyện bị nghi ngờ vì có những ràng buộc khả dĩ với một nghi phạm chính khác của họ, AnaRose Simmons. Không, họ không mong muốn thẩm vấn cậu ta.

“Trong những tình huống này...” D.D. nói tiếp rất nhanh. “... Đến thăm các mối quen biết của tù nhân trốn trại chỉ là thủ tục thôi. Trong trường họp này, các mối quen biết bao gồm cậu. Nhưng tôi nói thật nhé, cậu Hayes. Căn cứ thành tích quá khứ của Shana, chúng tôi không tin rằng cậu có dính líu đến việc cô ta trốn thoát, mà có nhiều lý do để lo lắng cho sự an toàn của cậu.”

“Gì cơ?” Samuel Hayes có vẻ giật mình.

“Chúng ta gặp nhau trực tiếp được là tốt nhất.” D.D. nhẹ nhàng nói tiếp. “Chúng tôi có thể đến chỗ cậu càng nhanh càng tốt. Cho địa chỉ đi.”

“Sự an toàn của tôi? Nhưng, nhưng, nhưng...”

Cô dễ dàng lái cảm xúc của cậu ta theo ý mình. Cậu ta không phải đề phòng về chuyện cảnh sát đến thăm mà đang bị hoang mang.

“Cho địa chỉ đi.” Cô nhắc.

Cậu ta lắp bắp, giọng vẫn ngập ngừng.

“Chúng tôi sẽ tới đó ngay sau khi chắc chắn ngôi nhà của bà Davies an toàn. À, nếu tôi mà là cậu tôi sẽ không ra ngoài đâu. Đóng chặt hết cửa ra vào và cửa sổ. Hãy tin tưởng chúng tôi lần này.”

D.D. kết thúc cuộc gọi. Cô trả điện thoại lại cho bà Davies, người vẫn đang ngồi với vẻ ngạc nhiên dễ hiểu.

“Cô có thực sự lo...?” Người phụ nữ thở hổn hển.

“Cẩn tắc vô áy náy.” D.D. trấn an bà ấy. “Cũng như với bà thôi, bà Davies. Tốt nhất bà nên ở yên trong nhà, đóng cửa nẻo thật chặt. Nếu bà nghe thấy bất kỳ âm thanh nào lạ, cứ gọi thẳng cho chúng tôi.” Phil đưa cho bà ấy danh thiếp. “Chúng tôi sẽ cử xe tuần tra đến đây ngay lập tức. Được chứ?”

“Được.” Nhưng bà Davies có vẻ không còn sợ hãi nữa. Vẻ thù địch xuất hiện trở lại trên gương mặt bà ấy.

“Bà có muốn gặp lại cô ta nữa không?” D.D. tò mò hỏi.

“Có vài chuyện tôi muốn nói.”

“Ví dụ?”

“Tôi xin lỗi.”

“Tại sao?”

“Tôi xin lỗi.” Bà Davies lặp lại, giọng đều đều. “Chúng tôi là cha là mẹ. Công việc của chúng tôi là dạy dỗ con bé nên người. Thế rồi khi nhận ra mình không làm được, lẽ ra chúng tôi nên mang con bé đến một gia đình hay đến nơi nào đó người ta có thể giúp được con bé. Nhưng chúng tôi không làm vậy. Chúng tôi ngồi đó bất lực, đợi chờ sự thay đổi diệu kỳ nào đó. Vì lẽ đó nên tôi muốn nói xin lỗi.”

“Bà Davies... Việc Shana đã làm không phải lỗi của bà.”

“Tôi cũng biết thế. Con bé ấy là ác quỷ, và ác quỷ vẫn có quyền được hưởng những gì xứng đáng với nó. Nhưng lúc đó con bé vẫn còn là một đứa trẻ, còn chúng tôi vẫn là người lớn. Điều đó mới quan trọng, Thanh tra ạ, cô không nghĩ vậy à? Ít nhất, nó quan trọng với tôi.”

D.D. lắc đầu, cô không tin. Không phải đứa trẻ nào cũng ngây thơ như con trẻ. Cô đã gặp gỡ quá nhiều những kẻ phạm tội tuổi còn trẻ để biết rằng vài đứa thực sự đã nằm quá xa tầm với của bất kỳ người lớn tử tế nào, chưa nói đến một chuyên gia sức khỏe tâm thần hay thậm chí một sĩ quan quản chế tận tâm.

Bà Davies đảm bảo với họ rằng bà sẽ tiến hành tất cả các biện pháp đề phòng cần thiết. Tiếp theo Phil và D.D. chậm rãi lái một vòng tuần tra quanh khu phố, bốn mắt mở to quan sát, đề phòng trường hợp họ bỏ lỡ điều gì đó, như Shana rõ ràng đang dòm ngó xung quanh từ sau một bụi cây. Hoặc một vết máu dẫn đến cửa sau một nhà hàng xóm.

Khi cả khu phố vẫn chìm trong thinh lặng, họ mới đi tiếp.

Bốn giờ chiều. Mặt trời đang bắt đầu lặn, hoàng hôn đến buông.

Họ lên đường tìm kiếm Samuel Hayes.

Địa chỉ này dẫn họ đến một tòa nhà chung cư tại Allston, một trong những khu phố đông đúc nhất Boston. D.D. theo sau Phil lên một cầu thang rất hẹp, khiến vai phải của cô liên tục chạm vào tường, nhắc cô nhớ phải hít thở sâu, nhưng rồi cô buộc phải chuyển sang thở bằng miệng, mùi cải bắp luộc và nước tiểu mèo đang tấn công các giác quan của cô.

Khi lên đến căn hộ tầng bốn, Phil gõ cửa. Ông ra hiệu cho D.D. đứng sau lưng mình hơi chếch sang bên. Bàn tay phải của ông đặt hờ gần eo lưng, không cách quá xa bao súng.

Có quá nhiều thứ họ không biết về Samuel Hayes.

Phil gõ cửa lần thứ hai.

Cánh cửa cuối cùng cũng mở ra.

Họ thấy mình đang đối mặt với một người đàn ông ngồi trên xe lăn.

“Tôi không đủ can đảm cho bà Davies biết.” Sau đó mười phút, Samuel Hayes đang giải thích. Họ cùng ngồi bên nhau trong căn hộ một phòng ngủ của anh ta, Hayes ngồi trên xe lăn, D.D. và Phil ngồi trên chiếc ghế đôi trong không gian giản dị.

“Tôi bị ngã thang một tháng trước, khi đang làm việc trên mái nhà. Cú ngã phá hủy xương sống của tôi. Vài ngày đầu tiên, khi tôi không thể di chuyển được đôi chân, các bác sĩ bảo rằng đó là do bị sưng tấy. Tôi chỉ cần thêm thời gian để phục hồi. Mất bốn tuần vật lý trị liệu và sau đó thì tập ở nhà, và giờ tôi ở đây.”

“Trong tòa nhà không có thang máy.” D.D. nói. “Cậu sẽ xoay xở thế nào?”

“Tôi nằm sấp trên sàn rồi bò xuống bốn tầng lầu. Có anh chàng lái chiếc xe buýt của trung tâm phục hồi giúp tôi lên xe. Tại trung tâm phục hồi, họ có dư một chiếc xe lăn mà tôi có thể sử dụng. Sau đó khi về nhà tôi lại bò lên bốn tầng lầu. Đôi chân tôi có lẽ vẫn vô dụng thôi, nhưng cuối cùng tôi đã tậu được những “khẩu súng lớn” mà tôi hằng mong muốn.”

Hayes gồng cánh tay phải, hai bắp tay của anh ta căng phồng lên đáng kể.

D.D. chưa thể hoàn toàn chấp nhận việc này. Nghi phạm hàng đầu của họ đang ngồi xe lăn. Hoặc ít nhất là anh ta bảo thế. Anh ta có thể giả vờ mà, đúng không? Nghĩ lại, việc lê lết mình xuống bốn tầng gác trước mắt đông đủ hàng xóm dường như là thủ đoạn hơi bi kịch.

Phải chăng đây là lý do các nạn nhân của Sát Thủ Hoa Hồng bị phục kích khi họ ngủ? Rốt cuộc, Hayes có thể đã lết mình lên giường, làm xong việc, rồi lại tụt xuống...

Ôi chết tiệt, cô đang nỗ lực trong tuyệt vọng. Samuel Hayes không phải là đối tượng của họ. Nhưng nếu thế thì anh ta là ai?

“Kể cho chúng tôi nghe về AnaRose Simmons.” D.D. bắt đầu.

Hayes chớp mắt, rõ ràng giật mình. “Ý cô là con bé ở nhà bà Davies? Khỉ thật, tôi chẳng nghĩ gì đến con bé nhiều năm nay rồi.”

“Vẫn giữ liên hệ chứ?”

“Không.” Cậu ta lắc đầu.

“Cứ kể cho chúng tôi nghe đi.” D.D. thúc giục.

Hayes chớp mắt, dường như đang lục tìm trong trí nhớ. “Cô bé xinh xắn.” Cuối cùng cậu ta nói. “Kiểu khiến người khác phải dừng lại và ngắm nhìn. Khiến tôi cảm thấy tiếc cho nó. Làm trẻ mồ côi đã đủ khổ rồi. Thế mà còn là đứa trẻ xinh đẹp nữa...” Anh ta lắc đầu. “Không phải là điều tốt. Nhưng con bé cũng cứng cỏi lắm. Phải thế thôi, để tiếp tục là đứa trẻ trong hệ thống.”

“Nghe như hai người là bạn thân.”

“Giữa chúng tôi có mối quan hệ lẫn lộn. Gồm cả đêm đầu tiên con bé đến, nó bước vào phòng tôi và tuyên bố rằng nếu tôi mà đụng vào bộ phận nhạy cảm của nó là nó hét lên ngay. Nói rồi con bé bước ra, như kiểu nó nghĩ rằng tôi phải biết ấy.”

“Con bé có lý do để nghĩ về cậu như thế à?” Phil hỏi.

“Chết tiệt, không! Tôi không bao giờ quấy rối các bé gái. Chủ yếu là... điều đó khiến tôi thấy buồn. Ông biết đấy, vì rõ ràng có kẻ nào đó khiến con bé cảm thấy mình phải nói như thế.”

“Hai người là bạn bè mà.”

Hayes nhún vai. “Tôi thích con bé. Nó là đứa trẻ ngoan. Tôi cố gắng trông chừng cho nó. Là một đứa trẻ da màu trong khu phố Ireland da trắng ở Nam Boston chẳng dễ dàng gì.”

“Những ai trêu chọc con bé?”

“Bất kỳ ai, tất cả mọi người. Con bé đúng là con cá mắc cạn và nó biết thế. Nhưng con bé vẫn ngẩng cao đầu mà bước. Cho dù nó không được quảng giao cho lắm. Con bé quay về nhà, bước vào phòng mình. Có lẽ đó là nơi con bé cảm thấy an toàn nhất.”

“Con bé nghĩ gì về Shana?”

Hayes lắc đầu. “Chưa bao giờ thấy hai đứa giao tiếp với nhau.”

“Thật sao? Chỉ là hai cô gái trong cùng nhà...?”

“Shana sống kiểu giang hồ. Thậm chí cô ta còn chẳng ở nhà nhiều. AnaRose... Con bé rất ngoan. Trầm tính. Thông minh. Tôi nghĩ con bé nhìn vào Shana và thấy rất nhiều thứ con bé sẽ không làm, để một ngày kia hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.”

“Lần cuối cậu gặp con bé là khi nào?”

“Khỉ thật... Tôi không biết. Kể từ khi con bé dọn đi ba mươi năm trước.”

“Nhà nước chuyển con bé đi.” D.D. khích vào. “Trả con bé về cho bà mẹ nghiện ngập của nó, sau khi khả năng kiểm soát đám con nuôi của ông bà Davies bị nghi ngờ vì vụ của Shana.”

Hayes cựa quậy không thoải mái.

“Cậu không hề nói chuyện với AnaRose kể từ đó?”

“Bằng cách nào? Tôi chẳng biết con bé đi đâu. Đâu phải những đứa con nuôi cứ chạy loanh quanh với số điện thoại hay địa chỉ chuyển tiếp thư gắn trên ngực. Tất cả chúng tôi chỉ là tạm bợ. Chúng tôi đều biết thế”

“Cậu có nghĩ rằng con bé có thể là kẻ sát nhân không?” Phil hỏi.

“Cái gì?”

“AnaRose. Phải sống một cuộc sông khó khăn. Theo quan điểm của con bé, Shana làm hỏng mọi chuyện nên phải trả giá. Không thể trách con bé vì đã căm ghét Shana sau đó.”

“Găm ghét Shana? Thôi cho tôi xin đi.”

“Thật sao?” Phil đột ngột đổi hướng. “Kể cho chúng tôi nghe về Shana đi.”

“Thôi nào. Tất cả những chuyện này xảy ra từ ba mươi năm trước rồi. Dạo này tôi còn chẳng nhớ nhiều nữa.”

“Hai người là một cặp cơ mà.”

“Ai nói thế?”

“Có một người, bà mẹ nuôi của cậu đấy.”

Hayes đỏ mặt, gục đầu xuống. “À phải, giờ tôi nhớ rồi.”

“Nhớ lại tất cả không phải là tội lỗi đâu.” Phil trấn an cậu ta.

“Được rồi. Shana là người đến với tôi. Cô ta thực sự hiểu biết nhiều chuyện. Chúng tôi ăn nằm với nhau một đôi lần, đúng hơn là nửa tá lần. Nhưng rồi bà Davies yêu cầu chúng tôi không làm thế nữa. Shana có thể chẳng bận tâm, nhưng tôi thì có. Bà Davies, đến tận bây giờ, vẫn là bà mẹ gần đúng nghĩa nhất mà tôi từng có. Bà buộc tội tôi thiếu tôn trọng bà và ông Davies. Điều đó đau đớn lắm hai người biết không? Thế nên tôi từ bỏ. Nhưng Shana thì không. Cô ta chỉ thèm muốn chuyện ấy. Nếu không có tôi, cô ta sẽ tìm người khác.”

“Cậu cảm thấy thế nào?” D.D. hỏi.

Hayes phải mất một lúc mới trả lời. “Khi chị là một thằng bé mười bảy tuổi, và thấy mình có thể bị thay thế dễ dàng đến thế nào... Đó là cảm giác khó chịu nhất thế gian này. Nhưng đó mới đích thực là Shana. Cô ta không quan tâm đến những cảm xúc của bạn. Chỉ quan tâm đến cảm xúc của bản thân. Tôi có thể là một đứa trẻ, nhưng tôi không ngu.”

“Cô ta còn xuất hiện trong phòng ngủ của cậu nữa không?” Phil hỏi.

“Có đôi lần. Tôi vẫn tiếp tục từ chối. Cuối cùng cô ta đã hiểu thông điệp.”

“Cậu cao thượng đấy.”

Hayes lắc đầu. “Không phải thế. Shana không bao giờ có cảm xúc với tôi hay ngược lại. Chẳng qua tôi là thứ thuận tiện cho cô ta xài. Chấm hết.”

“Thế hả?” Phil kéo dài giọng. “Vào lúc nào cô ta tặng cho cậu mấy món đồ của ông già cô ta, Harry Day vậy?”

Hayes ngồi im. Rồi cậu ta đáp: “À chết tiệt.”

“Chúng tôi thấy lá thư đăng trên Internet rồi, Sam. Nhờ sự nổi tiếng bất ngờ của Harry Day trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ trước, mà chúng tôi biết cậu kiếm được một khoản khá hời. Cậu không thấy quá tiện à, khi mà đúng lúc này Shana trốn trại, khiến danh tiếng của cha cô ta lại nổi, còn cậu thì ngồi đây, ôm mấy món lưu niệm từng thuộc sở hữu của tên sát nhân hàng loạt khét tiếng.”

“Được rồi, được rồi.” Hayes có vẻ hơi tuyệt vọng. “Không như cô nghĩ đâu.”

“Thế chúng tôi nghĩ gì?”

“Ý tôi là tôi không có được món đồ nào từ Shana hết. Thậm chí tôi chưa từng nghe cô ta nói gì về cha mình. Tất nhiên, mọi đứa trẻ trong xóm đều biết, chúng tôi có bàn tán về chuyện này nhưng chỉ sau lưng cô ta thôi.”

“Làm sao cậu có được lá thư hả Sam?”

“Tôi tìm thấy nó.”

“Cậu tìm thấy nó à?” Giọng Phil nghi ngờ.

“Vâng. Ngay trước khi tôi bị ngã. Tôi là công nhân, làm việc cả ngày dài mà. Lúc trở về nhà, tôi thấy một phong bì bằng giấy manila to nằm trước cửa phòng mình. Tôi mở phong bì ra thì thấy mấy tài liệu cũ, lá thư, đại loại vậy. Ban đầu tôi không hiểu, nhưng rồi khi nhìn thấy cái tên Harry Day... Tôi có lên Internet tìm hiểu một chút, xác nhận các món lưu niệm có thể thuộc về hắn ta. Thêm nữa tôi còn khám phá ra có vài trang web nơi ta có thể bán cái mớ này, ý tôi là ông có tin được rằng lại có người muốn sưu tầm bất kỳ cái gì từng dính dáng tới một kẻ sát nhân? Ngay lúc ấy tôi chẳng làm gì cả, nhưng rồi tuần trước... Ông biết đấy mấy ngày nay chính xác là tôi không đi làm. Nếu ai đó muốn trả tiền cho tôi vì cái mẩu giấy ngu xuẩn tôi thấy trên ngưỡng cửa nhà mình, thì tại sao tôi lại không bán?”

“Cậu tìm thấy nó à?” Phil lại nhấn mạnh.

“Vâng.”

“Cho chúng tôi xem phong bì, Sam.”

Hayes nỗ lực đẩy xe lăn lùi lại đằng sau. Không gian sinh hoạt bé nhỏ của anh ta không đủ chỗ để xoay xở trên xe lăn. Phải mấy lần làm đi làm lại cái xe mới quay đúng hướng, tiến thẳng đến một cái bàn phụ sát tường chất đống đủ thứ thập cẩm. Samuel đào bới một hồi, cả Phil lẫn D.D. cùng chú mục nhìn đôi bàn tay anh ta, sẵn sàng với bất kỳ cử động bất thường nào, vì dù có ngồi xe lăn hay không, điều gì đó ở Sam Hayes khiến họ không tin tưởng.

“Đây rồi.”

Anh ta quay lại, rõ ràng khá mệt mỏi. D.D. phải cố ghìm mình lại mới không lao đến, tự mình giúp anh ta đẩy xe lăn vào đúng chỗ.

Phil lập tức đi vào đôi găng tay cao su. Trước tiên ông kiểm tra phong bì thư bằng giấy manila kích thước hai mươi hai nhân hai mươi tám centimet. Không có dòng chữ nào bên ngoài, cũng như phong bì không được dán tem hoặc dán niêm phong. Chỉ là một phong bì trơn, trông như vừa được lấy thẳng ra từ hộp thư.

Tiếp theo, Phil mở phong bì, rút ra khoảng nửa tá mảnh giấy.

“Giấy chứng sinh.” Ông đọc thật to cho D.D. nghe thấy.

“Mang tên Harry Day.”

Cô nhướng mày.

“Một thư riêng cho khách hàng, liên quan đến dự án đồ mộc nào đó hắn ta đang làm. Có ba lá thư cho vợ hắn. Và cái này.”

Món cuối cùng là một mảnh giấy thủ công màu vàng nhạt, được gập đôi như một tấm danh thiếp. Ở mặt ngoài có chữ Cha với nét chữ của trẻ con. Bên trong là nét chữ trưởng thành hơn viết rõ ràng Chúc Mừng Ngày Của Cha. Tấm thiệp được trang trí bằng bút chì màu xanh đỏ tạo nên rất nhiều nét vẽ nguệch ngoạc và hình như là cả một chòm sao. Bên trong tấm thiệp, cũng viết nguệch ngoạc nhưng nét to hơn, chữ S thụt về sau, tấm thiệp ký tên: SHANA.

Một tấm thiệp mừng ngày của cha. Của một cô bé gửi cho cha mình. Của kẻ sát nhân này gửi cho kẻ sát nhân khác.

“Cậu có biết thứ này có thể đáng giá bao nhiêu tiền không?” D.D. thốt lên.

“Ngày hôm qua, không nhiều lắm.” Hayes đáp. “Nhưng bây giờ...” Giọng anh ta lạc đi. Dường như anh ta đã nhận ra giá trị gia tăng của món này chẳng còn ích gì với mình nữa.

Mười ngàn đô la là dự tính ban đầu của D.D. Nghĩ lại, vật lưu niệm quý hiếm và riêng tư cỡ này... Nếu là nhà sưu tầm đúng nghĩa, nó có thể là vô giá.

“Cậu tìm thấy cái này à?” Phil lại nhấn mạnh.

“Thề có Chúa.”

“Và cậu không hề thắc mắc? Hay hỏi han hàng xóm xem họ có thấy ai vứt lại nó không à? Không báo cảnh sát rằng mình vừa nhận được mấy thứ từng thuộc sở hữu của một kẻ sát nhân à?”

“Nói chuyện với hàng xóm ấy hả? Thậm chí tôi còn chẳng biết họ là ai. Trước vụ này tôi làm việc từ sáng sớm đến tối mịt. Bây giờ tôi ở rịt trong nhà, ngoại trừ một tuần hai lần bò xuống bốn tầng lầu. Dù thế nào tôi cũng không phải loại người thân thiện với hàng xóm. Trong tòa chung cư này, ai biết việc người ấy, và ai cũng vui.”

“Nhưng cậu chắc phải tự hỏi...”

“Tất nhiên. Tôi tự hỏi tại sao tôi không giữ chắc hơn cái thang chết tiệt ấy. Hay tại sao tôi lại nghĩ là cần phải chui lên mái nhà làm việc, ngay cả khi trời đang mưa phùn. Tôi tự hỏi mình về đủ thứ rồi, Thanh tra ạ. Không có nghĩa tôi sẽ nhận được câu trả lời.”

“Cậu hiểu cái này trông ra sao không?” Phil nói rõ.

“Ý ông là như thể tôi có đầy lý do trị giá hàng ngàn đô la để giúp Shana trốn trại và Harry Day một lần nữa lên trang nhất ấy hả? Trừ việc tôi chưa từng nói chuyện với Shana ba mươi năm nay rồi. Đấy là chưa kể cô ta làm tôi sợ chết khiếp. Mà nhân tiện, tôi không thể đi bộ hay lái xe. Một kẻ đồng lõa mới tuyệt vời làm sao.”

“Có những phương tiện điều khiển bằng tay cho người ngồi xe lăn.” D.D. nói.

Hayes lườm cô. “Xem căn hộ này có giống nơi ở của thằng cha đủ tiền sắm cái món đấy không? Cô có biết tại sao tôi rao bán cái thiệp ngu xuẩn này không? Bởi vì tôi có thể dùng số tiền đó. Và điều đầu tiên tôi muốn làm là bước vào tòa nhà có thang máy. Dạo này tôi không dám mơ lớn đâu, Thanh tra ạ. Tôi chỉ hạnh phúc khi thấy mình vẫn còn mơ thôi.”

“Kể cho chúng tôi về Donnie Johnson.” Phil nói.

Hayes chớp mắt. “Hả?”

“Donnie Johnson. Ba mươi năm trước. Tối hôm đó cậu đã thấy cái gì?”

“Chẳng thấy gì. Tôi đang làm bài tập về nhà trong phòng mình. Tôi không hề bước chân ra khỏi phòng cho đến sau khi xảy ra tất cả những sự náo động ấy. Bà Davies đang la hét với ông Davies rằng có chuyện gì đó không ổn với Shana.”

“Cậu có thấy Shana không?”

“Không. Phòng cô ta nằm trên tầng ba. Sau ừm... biến cố đó... ông bà Davies đã chuyển phòng của tôi sang tầng hai, gần với phòng họ nhất. Tôi nhớ mình bước ra ngoài tiền sảnh, sau đó nhận ra có máu vấy trên các bậc cầu thang. Nhưng vào lúc đó, cửa trước bật tung ra, cha của Donnie lao vào nhà... Tôi thấy khiếp sợ. Tất cả những người lớn này đều như mất kiểm soát. Tôi rút vào phòng ngủ của tôi và ở yên đó.”

D.D. quyết định chơi một canh bạc. “Charlie Sgarzi lại không nói vậy. Cậu ta cho rằng cậu ghen tị với mối quan hệ của cậu ta với Shana. Thế nên cậu mới quay sang nhắm vào em họ cậu ta để trả thù.”

Hayes nhíu mày. “Charlie? Charlie Sgarzi à? Cậu ta có liên quan gì đến chuyện này?”

“Chúng tôi đã báo cho cậu biết rằng chúng tôi đang tìm hiểu tất cả các chỗ quen biết trước kia của Shana. Và xét đến chuyện cô ta cùng Charlie cũng từng là một cặp...”

“Ôi, ôi, ôi. Cái gì cơ?”

Giọng Hayes chợt lên cao. Thù địch? Ghen tị? D.D. và Phil liếc nhìn nhau, bàn tay Phil một lần nữa lại quanh quẩn gần bao súng.

“Charlie Sgarzi cho rằng cậu ta và Shana có quan hệ gì đó.” D.D. chậm rãi nói. “Cậu ta đã mô tả họ như những người bạn chịch.”

“Vớ vẩn!”

Từ ngữ này vang lên chói tai trong không gian bé nhỏ.

D.D. không nói nữa mà chỉ chờ đợi.

Hayes lùa tay vào mái tóc nâu bù xù, rồi nói tiếp: “Chờ đã. Tôi còn một thứ khác muốn hai người xem. Đợi một lát thôi.”

Một lần nữa anh ta lại xoay xe lăn, quay lại cái bàn chất đầy giấy. Nhưng lần này, anh ta cúi người xuống, vươn tay lấy một cái hộp cũ rách bươm. Tuy nhiên anh ta không thể với tới cái hộp. Phil đứng dậy giúp sức, đặt cái hộp vào lòng Hayes. Dưới con mắt giám sát chặt chẽ của Phil, Hayes mở nắp hộp.

Thêm nhiều giấy tờ nữa. Hayes lục qua một loạt tờ giấy rồi cuối cùng cũng thốt lên. “Đây rồi!” Anh ta vẫy vẫy một tấm ảnh Kodak đã cũ giữa không trung.

Phil đặt lại cái hộp xuống sàn, giúp Hayes quay về chỗ cũ. Anh ta trao cho họ tấm ảnh ngay lập tức, như thể điều này sẽ cho họ biết điều gì đó.

D.D. trông thấy bốn đứa trẻ vị thành niên. Tấm ảnh chụp nhanh đã phai màu theo thời gian, khiến nét mặt của mỗi cậu bé hơi nhòe. Cô có thể nhận ra Hayes. Mái tóc nâu bờm xờm, cái áo đồng phục của đội bóng rổ Celtics từng mang màu xanh lục thẫm giờ đã phai sang màu lá mạ theo thời gian. Hai đứa trẻ khác hoàn toàn xa lạ với cô.

Tiếp theo, ở ngoài cùng bên trái, với cái dáng cao lênh khênh, gần như là gầy đét, với mái tóc đen dài phía sau, ngắn phía trước, mặc áo phông hình ban nhạc rock Metallica và áo khoác da mô tô màu đen, gắn đầy đinh kim loại và dây xích bạc.

“Charlie Sgarzi.” Cô nói.

“Bản thân hắn là Kẻ Giả Tạo Vĩ Đại.” Sam cam đoan với cô. “Một trong mấy bộ đồ giả trang của hắn đấy.”

“Ý cậu là sao?”

“Charlie cực kỳ giả tạo. Ý tôi là hai thằng này, Tommy và Adam, chúng rất mê nhạc heavy metal[*]. Thế nên khi Charlie ở bên cạnh chúng, hắn cũng mê heavy metal. Shana là A Cool Ngầu nên khi ở quanh cô ta, hắn cũng thủ một bao Marlboro vào túi quần sau. Nhưng cô cũng có thể bắt gặp hắn mặc sơ mi cổ cồn trắng, mỉm cười ngọt ngào trước mặt mẹ hắn. Hoặc hắn có thể sơn móng tay đen xì, mặc áo choàng dài đi chơi với một bọn tên là Bầy Mòng Biển. Hắn là kẻ gió chiều nào che chiều ấy. Miễn là nhờ thế hắn có được một chân trong đám đông.”

Phil nhún vai. “Vậy là cậu ta mắc chứng khủng hoảng bản sắc. Lúc cậu ta là trẻ vị thành niên, những chuyện này cũng bình thường mà.”

“Nhưng thứ hắn ta cố gắng che giấu không phải là hình ảnh đứa trẻ rắc rối.”

“Thế thì là gì?”

“Charlie không ngủ với Shana đâu. Hắn đồng tính mà.”

Theo lời Hayes, anh ta có khả năng phát hiện những chuyện này.

“Tin tôi đi, các người sẽ không sống sót được trong hệ thống nhận con nuôi nếu không biết cách nhận ra thằng nào thích thằng nào. Đặc biệt là những người bực mình vì chuyện đó.”

“Charlie sợ hãi phản ứng của bố mẹ cậu ta à?” D.D. hỏi.

“Sao mà tôi biết được. Ý tôi là bố mẹ hắn rất bảo thủ, điều đó thì đúng. Một bà nội trợ may mắn kết hôn với lính cứu hỏa địa phương ư? Nhưng tôi không nghĩ nguyên do là ở bố mẹ hắn. Tôi nghĩ vấn đề ở chính bản thân Charlie. Hắn muốn mình giống hệt tất cả mọi người. Ngoại trừ hắn có chuyện đó, cô biết đấy. Ngày nay đồng tính có thể không phải là chuyện to tát. Nhưng ba mươi năm trước, làm thằng con trai thích thằng con trai khác ở một nơi như Nam Boston có thể khiến cô bị giết đấy. Thế nên hắn phải đấu tranh. Dành cả cuộc đời mình để biến thành người khác. Hắn cũng rất giỏi chuyện đó. Một diễn viên thật sự. Nhưng tất nhiên, tôi là người biết sự thật.”

“Bởi vì cậu sở hữu radar nhận biết đồng tính nhạy nhất thế giới à?” D.D. nhướng mày.

“Không, chỉ tại tôi bắt gặp hắn với Donnie thôi.”

“Cái gì?”

“Hắn tụt quần của cậu em họ hắn xuống. Tôi đã nhìn thấy, rõ như ban ngày. Sau đó Charlie ngước mắt lên, nhận ra tôi thì bèn diễn một màn thể hiện, đẩy mạnh em hắn ra xa, như thể hai đứa vừa mới cãi nhau hay sao đó. Nhưng tôi biết mình nhìn thấy gì, và hắn cũng biết.”

“Lúc đó Donnie thế nào?” Phil hỏi.

“Khó chịu. Tôi nghĩ thằng bé chẳng vui vẻ gì vì được Charlie chú ý tới. Nhưng Charlie to lớn hơn, khỏe mạnh hơn. Donnie còn làm được gì?”

“Và ba mươi năm trước cậu không nói chuyện này cho cảnh sát à?” D.D. gặng hỏi.

Hayes nhún vai. “Có ai hỏi đâu. Thêm nữa, Shana mới là kẻ lấy cái tai đẫm máu ấy ra khỏi túi áo mình. Thậm chí dù có biết rằng Charlie đã tấn công em họ hắn, thì tôi vẫn cho rằng Shana là kẻ giết người. Charlie có cái tính bần tiện, đúng, nhưng hắn cũng thẳng thắn. Khi hắn mặc cái áo da ấy, Ngài Cool Ngầu, thì cô phải coi chừng hắn. Nhưng nếu hắn mặc sơ mi cài kín cổ, Bé Ngoan Của Mẹ, thì chẳng vấn đề gì. Cứ như thể hắn mang theo mình cái công tắc vậy, bật rồi lại tắt mọi thứ. Thậm chí bạo lực cũng chỉ là vấn đề hắn đang ở nhân cách nào thôi.”

D.D. cảm thấy đầu mình như sắp nổ tung. “Lần cuối cùng cậu nói chuyện với Charlie là khi nào?”

“Chết tiệt. Lâu lắm rồi ấy. Ý tôi là tôi đã rời khỏi khu phố ấy ngay sau khi Shana bị bắt được sáu tháng. Chưa từng gặp hắn kể từ đó.”

“Cậu có biết cậu ta đang viết sách về vụ giết em họ không?” Phil lên tiếng.

Hayes lắc đầu.

“Cậu ta không cố gắng liên hệ với cậu về chuyện này à?”

Một nụ cười khẩy. “Cứ làm như hắn thực sự sẽ hỏi tôi mọi thắc mắc về Donnie ấy.”

D.D. gật đầu. Điều này có thể thêm chút sự thật vào câu chuyện của Hayes, vì nó có vẻ đáng ngờ, hoặc chỉ đơn giản là quá dễ dàng nhận ra, tại sao Charlie đã tiếp xúc hoặc phỏng vấn tất cả mọi người về buổi tối có vụ giết em họ, ngoại trừ anh trai nuôi của Shana.

“Nếu Charlie không ngủ với Shana, vậy thì mối quan hệ của họ là gì?”

“Tôi không biết. Vừa là bạn vừa là thù à? Ý tôi là chúng nó thi thoảng cũng đi chơi với nhau. Trong một khu phố nhỏ như thế, người ta cũng không thể quá kén cá chọn canh. Nhưng Shana xem hắn là thằng to xác giả tạo. Mấy lần tức điên lên, cô ta từng đe dọa sẽ lột mặt nạ của hắn. Charlie có vẻ như lảng tránh cô ta. Nghĩ lại, tôi từng bắt gặp hắn đứng nhìn cô ta từ đằng xa. Dường như hắn bị cô ta mê hoặc. Cô biết đấy, kính nhi viễn chi.”

“Cậu có nghĩ cậu ta giúp cô ta trốn trại không?”

“Charlie? Shana? Hai đứa ấy có liên hệ với nhau à?”

D.D. suýt nữa thì nói không, ngoại trừ đó không phải sự thật. Charlie đã viết thư cho Shana. Một vài lần trong ba tháng qua. Cô ta không bao giờ hồi âm. Đó là chuyện lớn đúng không? Cậu ta đã viết thư nhưng cô ta không trả lời.

Trừ phi đây là một dạng mật mã, một thay đổi bước ngoặt trong cuộc đời Shana bắt đầu từ ba tháng trước. Và đó cũng chính là thời điểm Charlie Sgarzi, hay còn gọi là Kẻ Giả Tạo Vĩ Đại, được cho là bắt đầu viết sách. Tỷ lệ không liên quan giữa sự tái xuất hiện của Charlie và biến mất của Shana là bao nhiêu?

“Cậu có nghĩ Charlie sẽ giúp cô ta không?” D.D. hỏi lại.

Hayes nhăn mặt. “Shana mà tôi biết... Cô ta điên rồ lắm, nhưng không phải theo chiều hướng tồi. Dù tôi có nghĩ về Charlie ra sao đi nữa, hắn cũng không phải thằng ngu. Mà thực ra hắn thông minh kinh khủng. Thế nên hắn mà lựa chọn dính líu đến cô ta... Không, tôi chả biết nữa. Nghĩ lại thì con người ta cũng thay đổi mà.”

“Cậu có thay đổi không?”

Hayes nhìn xoáy vào cô, chỉ tay vào cái ghế.

“Ý tôi là kể từ buổi tôi hôm đó cậu đã học được gì?”

“Đừng để đứa em gái nuôi của bạn nghịch đồ sắc nhọn.”

“Bà Davies nhớ cậu lắm đấy.”

Hayes bối rối, cảm giác có lỗi lại khiến anh ta đỏ mặt. “Chúng ta nói xong chưa?”

“Chúng tôi mượn tạm cậu gói quà tặng của Harry Day nhé.”

“Mẹ kiếp!”

“Nhưng có thể, nếu chúng tôi chứng thực được câu chuyện của cậu, ngày nào đó chúng tôi sẽ trả lại mấy món đồ này mà.”

“Không.” Có vẻ Hayes cũng ngạc nhiên với chính mình trước sự thay đổi này. “Tôi không muốn giữ chúng nữa. Tiền thì tất nhiên muốn. Nhưng cái thứ hàng xịn này... Harry Day làm tổn thương người khác, cô biết đấy. Những cuộc đời bị hủy hoại. Những gia đình tan nát. Và Shana cũng vậy. Ông bà Davies là những người tốt như thế. Và sau đó... Cô nói đúng, tôi nên gọi điện cho bà Davies nhiều hơn. Chỉ là tôi... tôi không bao giờ muốn làm phiền bà ấy, tất nhiên khi thứ bà ấy thích nhất là bị làm phiền. Cứ nghĩ rằng mình không thay đổi. Sau những ba mươi năm, giờ tôi vẫn là cái đồ ngu xuẩn y như trước thôi.”

D.D. không nói thêm được gì nữa.

Cô và Phil cảm ơn Hayes đã dành thời gian, sau đó Phil gom lại phong bì thư bằng giấy manila và các thứ bên trong. Họ cũng dặn Hayes nên tránh gây sự chú ý tương tự như bảo bà Davies, rồi tiến ra cửa.

“Về Charlie Sgarzi.” Phil nói, lắc đầu khi hai người rảo bước xuống cầu thang. “Tôi không hiểu. Đầu tiên cậu ta bảo với chúng ta là cậu ta oán trách Shana đã hủy hoại gia đình mình. Trong khi thực ra cậu ta mới là người giày vò em họ mình. Tiếp theo cậu ta quả quyết mình phải cắm chốt tại nhà tù Massachusetts để bắt Shana phải chịu trách nhiệm về cái chết của mẹ cậu ta, nhưng một ngày sau đó, cậu ta lại giúp Shana trốn tù? Để làm cái gì... Tạo kịch tính cho tiểu thuyết của cậu ta à?”

“Tôi cũng chẳng hiểu mối quan hệ của Charlie với Shana hơn anh đâu.” D.D. trấn an ông. “Nhưng chừng nào còn là nghi phạm chính trong các vụ án mạng của Sát thủ Hoa Hồng... Hãy quên cô gái mất tích đã lâu AnaRose Simmons hay cậu anh trai nuôi gắn chặt với chiếc xe lăn Samuel Hayes đi. Tôi thấy Charlie Sgarzi còn thích hợp hơn đấy.”

“Cô có hiểu như thế có nghĩa là hắn giết chính mẹ đẻ mình không. Cũng đứa con trai ấy ngủ trên sô pha hàng đêm, mua về cho bà ấy món súp yêu thích, đáp ứng tất cả mọi yêu cầu của bà ấy? Đây là nghi phạm chính của chúng ta sao?”

Họ đã xuống đến chân cầu thang, cả hai cùng thở hổn hển một chút.

“Đó là vì cuốn sách chết tiệt của hắn.” D.D. đáp. “Tất cả những việc này bắt đầu khi Charlie quyết định viết một cuốn best-seller tức thì nhằm hỗ trợ tiền thuốc thang cho mẹ. Ngoại trừ...” Cô thận trọng sờ lên vai trái, khi một ý tưởng mới chợt đến với cô. “Chết tiệt, Phil, chúng ta chính là tiểu thuyết của Charlie! Hắn không viết về em họ hắn, đó là tin tức của ngày hôm qua, và các trang web rao bán đồ lưu niệm của bọn sát nhân cho chúng ta biết gì về các tội ác cũ nhỉ? Họ không trả tiền cho những kẻ sát nhân sắp nổi tiếng, cũng như những tên được thừa nhận trên toàn quốc nhưng không được truyền thông để ý. Do đó, Charlie đã tạo ra một kẻ săn mồi New England[*] vĩ đại nhất kể từ thời Harry Day: Sát Thủ Hoa Hồng. Cam đoan làm dân chúng phải khiếp sợ, thu hút phần lớn giới truyền thông, và một ngày nào đó sớm thôi, hắn sẽ kiếm được khoản trả trước bảy con số cho bản miêu tả của người trong cuộc về kẻ sát nhân giết chết chính mẹ đẻ của hắn. Charlie không phải đang viết về Donnie và về khu phố cũ đâu. Hắn đang viết về chúng ta đấy.”

Big Dig là công trình điều hướng đường cao tốc băng qua trung tâm thành phố Boston vào một đường hầm dài 2,4 km. Ngoài ra, Big Dig còn có thêm một số đường hầm bổ sung và một cây cầu. Dự án này kéo dài 15 năm từ năm 1992 và có tổng chi phí xây dựng là 26 tỷ USD.

Heavy metal là một thể loại nhạc Rock phát triển vào cuối những năm 1960 và đầu 1970, chủ yếu ở Anh và Mỹ.

New England: Một vùng của Mỹ, nằm trong góc đông bắc, giáp Đại Tây Dương, Canada và New York, bao gồm sáu tiểu bang.