tám mươi chín ngày trước
“CHÚNG MÌNH TÌM RA BẠN GÁI CHO CẬU RỒI”, Alaska nói với tôi. Dẫu vậy, vẫn chưa ai giải thích với tôi về chuyện đã xảy ra với Ban Bồi Thẩm một tuần trước. Dù nó dường như chẳng ảnh hưởng gì đến Alaska, cô đang 1. Đóng cửa ở trong phòng chúng tôi sau khi trời tối, và 2. Ngồi hút thuốc trên cái sofa hầu như chỉ toàn mút. Cô ấy đã nhét khăn dưới khe cửa của chúng tôi và khăng khăng bảo nó an toàn, nhưng tôi vẫn lo về điếu thuốc và “bạn gái.” “Tất cả những gì mình cần làm bây giờ,” cô ấy nói, “là thuyết phục cậu thích nó và nó thích cậu.”
“Hai nhiệm vụ vĩ đại,” Đại Tá chỉ ra. Gã nằm giường tầng trên, đọc sách chuẩn bị cho tiết Quốc Ngữ. Moby-Dick. “Sao mày có thể vừa nói vừa đọc nhỉ?” tôi hỏi.
“Chà, bình thường thì không, nhưng cả cuốn sách lẫn đoạn đối thoại này chẳng có gì là đánh đố trí não hết.” “Mình thích cuốn đó,” Alaska bảo.
“Ừ.” Đại Tá mỉm cười và nhoài người ra ngoài để nhìn cô ấy từ phía trên. “Dĩ nhiên. Một con cá voi trắng khổng lồ là hình ảnh ẩn dụ cho tất cả mọi thứ. Cậu sống vì những ẩn dụ cao sang ấy mà.”
Mặt Alaska không hề biến sắc. “Thế, Bé Bự, cậu nghĩ gì về khối Xô Viết cũ?”
“Ưm. Mình biết ơn nó?”
Cô ấy gạt tàn thuốc vào ống đựng bút chì của tôi. Tôi suýt phản đối, nhưng thôi kệ luôn. “Cậu biết con bé trong lớp toán học dự bị không,” Alaska nói, “giọng rất khẽ, nói cái này, không phải cái này. Biết nó không?”
“Ừ. Lara. Em ấy ngồi trên đùi mình lúc đến McDonald’s.”
“Phải. Mình biết. Và nó thích cậu. Cậu tưởng nó đang lẩm bẩm về toán học, trông khi rõ ràng nó đang nói về việc làm tình với cậu một cách nóng bỏng. Đấy là lí do cậu cần mình.”
“Ngực nhỏ ấy tuyệt phết,” Đại Tá nói mà không rời mắt khỏi con cá voi.
“ĐỪNG CÓ ĐÁNH GIÁ CƠ THỂ CỦA PHỤ NỮ!” Alaska hét to.
Giờ gã mới ngẩng đầu lên. “Xin lỗi nhé. Ngực nhọn.”
“Chẳng khá hơn chút nào!”
“Có chứ,” gã nói. “Tuyệt là từ để đánh giá cơ thể một phụ nữ. Nhọn chỉ là sự quan sát. Chúng nhọn thật mà. Ý tôi là, lạy Chúa.”
“Cậu hết thuốc chữa rồi,” cô ấy độp lại. “Thì con bé nghĩ cậu rất dễ thương, Bé Bự ạ.”
“Tốt.”
“Chả nghĩa lí gì. Vấn đề của cậu là nếu cậu bắt chuyện với nó thì cậu sẽ ‘ừa ưm ừm’ tới chết.”
“Đừng khó khăn với nó quá,” Đại Tá cắt ngang, như thể gã là mẹ tôi. “Quỉ thần ơi, tôi hiểu rõ cơ thể cá voi rồi. Giờ tiếp tục được chưa, Herman?”
“Nên cuối tuần này Jake sẽ đến Birmingham, và chúng mình sẽ hẹn hò ba cặp. A, ba cặp rưỡi, vì Takumi cũng sẽ ở đó. Không áp lực gì mấy đâu. Cậu sẽ không phá hỏng chuyện được, vì mình sẽ ở đó suốt.”
“Được.”
“Bồ của tôi là ai?” Đại Tá hỏi.
“Bạn gái cậu là bồ cậu còn gì.”
“Được rồi,” gã bảo, đoạn nghiêm mặt, “nhưng tụi tôi không hòa thuận cho lắm.”
“Thế thứ Sáu nhé? Cậu có kế hoạch gì cho thứ Sáu chưa?” rồi tôi bật cười, vì Đại Tá và tôi không có kế hoạch gì cho thứ Sáu này, hoặc thứ Sáu nào khác trong suốt quãng đời còn lại.
“Mình không nghĩ thế.” Cô ấy mỉm cười. “Giờ bọn mình phải đi rứa chén trong căn-tin đây, Chipper. Lạy Chúa, mình đã hi sinh biết bao.”
tám mươi bảy ngày trướcCUỘC HẸN BA CẶP RƯỠI CỦA CHÚNG TÔI bắt đầu khá thuận lợi. Tôi đang ở trong phòng Alaska vì mục tiêu tìm bạn gái, cô ấy đã đồng ý ủi cái áo sơ-mi màu xanh lá có nút cài ở cổ cho tôi thì Jake xuất hiện. Với mái tóc vàng dài đến ngang vai, hàng râu lởm chởm trên má, và kiểu phong trần giả tạo có thể khiến bạn thành người mẫu catalogue, Jake hoàn hảo đến từng đường nét, đúng như mong đợi của mọi người về bạn trai của Alaska. Cô ấy nhẩy lên và quặp chân vào người anh ta (Cầu trời đừng ai làm thế với mình, tôi thầm nghĩ, mình sẽ ngã mất). Tôi nghe Alaska đề cập đến hôn, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cô ấy hôn cho đến tận khi ấy: Trông lúc anh ta ôm eo Alaska, cô ấy ngả người về trước, đôi môi căng mọng hé mở, đầu hơi nghiêng sang bên, và quấn lấy anh ta trong nụ hôn nồng cháy đên mức tôi nghĩ mình phải nhìn đi chỗ khác nhưng không thể. Một lúc lâu sau, cô ấy buông tay khỏi Jake và giới thiệu tôi.
“Đây là Bé Bự,” cô ấy nói. Jake và tôi bắt tay.
“Anh đã nghe nhiều về cậu.” Anh ta nói bằng giọng miền Nam lơ lớ, một trong số những giọng tôi đã nghe ở ngoài McDonald’s, “Anh mong cuộc hẹn tối nay của cậu được suôn sẻ, vì anh không muốn cậu cướp Alaska khỏi tay anh đâu.”
“Chúa ơi, anh đáng yêu quá,” Alaska nói trước khi tôi kịp trả lời, cô ấy hôn anh ta lần nữa. “Mình xin lỗi.” Cô ấy cười. “Mình không thể ngừng hôn bạn trai của mình được.’’
Tôi mặc cái áo sơ-mi xanh mới ủi vào, và ba chúng tôi đến gặp Đại tá, Sara, Lara và Takumi rồi tới phòng thế thao để xem trận Culver Creek Vô Danh đấu với học viện Harsden, một trường tư thục Ở Mountain Brook, khu ngoại ô giàu nhất Birmingham. Đại Tá ghét bọn Harsden bằng căm phẫn cháy bỏng hơn cả ngàn mặt trời. “Thứ duy nhất tao ghét hơn lũ nhà giàu,” gã bảo tôi trong lúc đến phòng thể thao, “chính là bọn ngu. Và cả đám Harsden đều giàu, và chúng đều ngu đến độ không đậu nổi vào Creek.”
Vì đúng ra chúng tôi phải hẹn hò các thứ, nên tôi nghĩ mình sẽ ngồi xem cạnh Lara, nhưng trong lúc tôi cố chen qua Alaska để tới chỗ Lara, Alaska liếc nhìn tôi và vỗ lên chỗ trống cạnh cô ấy trên hàng ghế khán giả.
“Mình không được ngồi cạnh bạn gái à?” Tôi hỏi.
“Bé Bự, một trong hai ta là con gái. Người còn lại chưa bao giờ sờ soạng ai. Nếu mình là cậu, mình sẽ ngồi xuống, tỏ ra dễ thương, và giữ nguyên vẻ cô đơn dễ chịu thường ngày.”
“Được. Cậu nói gì cũng được.”
Jake bảo, “Đó đích xác là chiến thuật cưa cẩm Alaska của anh đấy.”
“Ôi chaoo,” cô ấy xuýt xoa, “thương quá! Bé Bự, mình đã kể cậu nghe chuyện Jake đang thu âm một album với ban nhạc của ảnh chưa? Họ ngầu lắm. Như Radiohead kết hợp với Flaming Lips vậy. Mình đã kể cậu nghe chuyện mình đặt tên cho họ chưa, Hickman Territory?” Nói đoạn, cô ấy nhận ra mình hơi ngớ ngẩn: “Mình đã kể cậu nghe chuyện hàng của Jake khủng như ngựa và ảnh là một anh người yêu hoàn mĩ, chiều chuộng thế nào chưa?”
“Cưng à, lạy Chúa.” Jake mỉm cười. “Không phải trước mặt bọn trẻ.”
Tôi muốn ghét bỏ Jake, dĩ nhiên, nhưng trong lúc nhìn họ ở bên nhau, cười nói và lần mò khắp người nhau, tôi đã không ghét bỏ anh ta. Tôi muốn trở thành anh ta, hẳn rồi, nhưng tôi cố nhớ lại rằng mình đang vờ hẹn hò với người khác.
Siêu sao của học viện Harsden là một gã Goliath cao hai mét tên Travis Eastman mà mọi người kể cả mẹ hắn, tôi nghi vậy gọi là Quái Thú. Lần đầu tiên Quái Thú được ném phạt, Đại Tá đã không kìm được mà chửi thề trong lúc khích tướng:
“Mày nợ bố mày tất cả đấy, thằng mọi rợ khốn kiếp, ngu đần!”
Quái Thú quay lại và liếc gã, Đại Tá suýt nữa là bị đuổi sau lần ném phạt đầu tiên, nhưng gã cười với trọng tài và nói, “Xin lỗi!”
“Trận này tao muốn ở lâu hơn,” gã nói với tôi.
Mở đầu trận thứ hai, với đội Creek thất thế trước tỉ số cách biệt khá bất ngờ là hai mươi bốn điểm và Quái Thú đang đứng ở biên ném phạt, Đại Tá nhìn Takumi và nói, “Tới giờ rồi.” Takumi cùng Đại Tá đứng lên khi đám đông đồng loạt, "Suỵt...'’
“Tao không biết giờ có phải lúc thích hợp để nói cho mày không,” Đại Tá gào lên với Quái Thú, “nhưng Takumi đây đã bắt bồ với bạn gái mày ngay trước trận đấu.”
Cả khán phòng bật cười ngoại trừ Quái Thú, gã rời khỏi vạch ném và bình thản cầm bóng tiến về phía chúng tôi.
“Tao nghĩ giờ chạy được rồi,” Takumi đề nghị.
“Tao chưa bị đuổi mà,” Đại Tá trả lời.
“Gặp mày sau,” Takumi nói.
Tôi không biết ấy là vì nỗi lo chung khi hẹn hò (dù bạn gái trên danh nghĩa đang ngồi cách tôi những năm người) hay nỗi lo cụ thể về chuyện bị Quái Thú nhìn trừng trừng về phía mình, nhưng vì lẽ gì đó, tôi đã bỏ chạy theo Takumi. Tôi tưởng hai thằng đã thoát nạn trong lúc quẹo ra khỏi hàng ghế, nhưng rồi tôi nhìn thấy, trong góc nhìn của mình, một khối cam đang dần trở nên lớn hơn, lớn hơn, như mặt trời lao vun vút về phía tôi.
Tôi nghĩ: Mình nghĩ nó sẽ đập trúng mình.
Tôi nghĩ: Mình phải né thôi.
Nhưng giữa thời gian nghĩ và làm, bóng đã đập vào một bên mặt tôi. Tôi ngã xuống, gáy đập mạnh xuống sàn. Sau đó tôi đứng lên ngay lập tức, ra vẻ không sao, rồi rời khỏi phòng.
Danh dự đã giúp tôi gượng dậy trong phòng thể thao, nhưng ngay sau khi ra ngoài, tôi đã ngồi phịch xuống.
“Tao bị chấn động não rồi,” tôi tuyên bố, hoàn toàn chắc chắn vào kết quả tự chẩn đoán.
“Mày ổn mà,” Takumi nói trong lúc chạy bổ về phía tôi. “Mau biến khỏi đây trước khi tụi mình bị giết.”
“Tao xin lỗi,” tôi nói. “Nhưng tao không đứng nổi. Tao bị chấn động não dạng nhẹ.”
Lara chạy ra và ngồi xuống cạnh tôi.
“Anh không sao chứ?”
“Anh bị chấn động não,” tôi đáp.
Takumi ngồi với tôi và nhìn vào mắt tôi. “Mày biết chuyện gì đã xảy ra với mày không?”
“Quái Thú ném trúng tao.”
"Mày biết mình đang ở đâu không?”
“Một cuộc hẹn hò ba cặp rưỡi.”
"Mày khỏe re,” Takumi kết luận. ‘‘Đi thôi.”
Rồi tôi ngả người về trước và nôn ra quần của Lara. Tôi không thể giải thích vì sao mình đã không ngả ra sau hay sang một bên. Tôi ngả về trước và chĩa thẳng miệng về phía cái quần jean của em, một chiếc quần jean tuyệt đẹp, ôm sát mông, loại quần con gái hay mặc khi muốn mình trông thật đẹp nhưng lại không có vẻ như mình có ý làm thế và nôn tứ tung lên đấy.
Hầu hết là bơ đậu phộng, nhưng cũng kèm vài hạt bắp. “Ôi!” Em ré lên, bất ngờ và có phần hốt hoảng.
“Ôi lạy Chúa,” tôi nói. “Anh xin lỗi.”
“Tao nghĩ chắc mày bị chấn động não rồi,” Takumi nói, như thể ý này chưa từng được đề cập.
“Tao đang có hai triệu chứng buồn nôn và nhức đầu thường gặp do chấn động não dạng nhẹ,” tôi lải nhải. Trông lúc Takumi đến gặp Đại Bàng và Lara đi thay quần, tôi nằm trên vỉa hè bê-tông. Đại Bàng trở lại với giáo viên y tế, cô bảo tôi đã bị chấn động não, đoạn Takumi chở tôi tới bệnh viện với Lara ngồi phía trước. Hình như tôi đã nằm ở ghế sau và chậm rãi lặp đi lặp lại những từ này “Những. Triệu. Chứng. Thường. Gặp. Do. Chấn. Động. Não.”
Nên cuộc hẹn của tôi diễn ra ở bệnh viện với Lara và Takumi. Bác sĩ bảo tôi về nhà và ngủ thật nhiều, nhưng phải chắc chắn có ai đó gọi tôi dậy bốn tiếng một lần.
Tôi nhớ mang máng Lara đã đứng ở cửa, căn phòng tối om và khung cảnh bên ngoài tối om và mọi thứ ôn hòa và dễ chịu nhưng hơi quay cuồng, thế giới đập thật mạnh xung quanh như tiếng bass điên loạn. Và tôi nhớ mang máng Lara đã cười với tôi từ phía cửa, một nụ cười mơ hồ rực rỡ, như đang hứa hẹn đáp án cho câu hỏi chưa từng được đưa ra. Câu hỏi ấy, câu hỏi chúng ta luôn tự vấn từ khi bọn con gái thôi đáng ghét, câu hỏi quá đơn giản để không phải phức tạp hóa: Cô ấy thích mình hay thích mình? Đoạn tôi đánh một giấc mê man và ngủ đến tận ba giờ sáng, lúc Đại Tá gọi tôi dậy.
“Cổ đá tao,” gã bảo.
“Tao bị chấn động não,” tôi đáp.
“Biết rồi. Nên tao mới kêu mày dậy. Chơi game không?” “Được. Nhưng tắt tiếng nhé. Đầu tao đau quá.”
“Ờ. Nghe nói mày nôn ra người Lara. Ga-lăng dữ.”
“Đá mày?” Tôi hỏi, cố gượng dậy.
“Ờ. Sara bảo Jake là tao chào cờ vì Alaska. Đúng mấy chứ đó. Theo thứ tự đó. Và tao kiểu, ‘Nè, giờ thì anh không có chào cờ vì cái gì cả. Em có thể kiếm tra nếu thích,’ và Sara nghĩ tao quá nham nhở, tao đoán thế, vì sau đó cổ nói cổ thừa biết tao đã ngủ với Alaska. Điều này, tình cờ thay, lại rất nực cười. Tao. Không. Ngoại. Tình,” gã nói, cuối cùng trò chơi đã tải xong và tôi nghe được loáng thoáng trông lúc im lặng lái một chiếc xe chở hàng vòng quanh Talladega. Vòng quay làm tôi buồn nôn, nhưng tôi cứ tiếp tục.
“Nên, tóm lại là, Alaska phát rồ lên.” Gã bắt chước giọng Alaska khi đó, khiến nó chói tai và nhức đầu hơn. “'Không đứa con gái nào được nói xấu đứa con gái nào! Mày đã xâm phạm hiệp định giữa con gái với con gái! Làm sao chúng ta vượt lên ách gia trưởng bằng cách đâm sau lưng nhau hả!?’ Và cứ thế. Rồi Jake bênh Alaska, nói rằng nó sẽ không bao giờ ngoại tình vì nó rất yêu anh ta, xong tao mới bảo, ‘Đừng để ý Sara. Cô ấy chỉ thích bắt nạt người khác thôi.’ Rồi Sara hỏi tao sao tao chưa bao giờ bênh cô ấy, và tranh cãi sao đó thì tao gọi cổ là con quỉ mất trí, dẫn đến kết quả không tốt lắm. Rồi bồi bàn yêu cầu tụi tao rời đi, và tụi tao đang đứng giữa bãi đậu xe và cổ nói, ‘Tôi chịu đủ rồi,’ và tao chỉ nhìn cổ chằm chằm và cổ nói, ‘Chuyện chúng ta chấm dứt.”’
Sau đó gã im lặng. “Chuyện chúng ta chấm dứt?” tôi nhắc lại.
Tôi đang mê sảng và nghĩ cách tốt nhất là lặp lại câu cuối cùng của những gì Đại Tá vừa nói để gã cứ tiếp tục.
“Ừ. Thế đó. Mày biết đau nhất là gì không, Bé Bự? Tao thật sự quan tâm cổ. Ý tao là, tụi tao vô vọng rồi. Khắc khẩu như chó với mèo. Vậy đó. Ý tao là, tao đã nói tao yêu cổ. Lần đầu tiên của tao là với cổ.”
“Lần đầu tiên của mày là với cổ?”
“Phải. Phải. Tao chưa nói với mày hả? Cổ là người con gái duy nhất tao ngủ cùng. Tao không biết nữa. Dù tụi tao cãi nhau, kiểu, chín mươi tư phần trăm thời gian, tao vẫn buồn lắm.”
“Mày vẫn buồn lắm?”
“Buồn hơn tao nghĩ, mà thôi. Ý tao là, tao biết trước rồi. Cả năm nay tụi tao chẳng có phút giây yên ổn. Kể từ lúc tao đến đây, ý tao là, tụi tao chỉ trích nhau liên miên. Đáng ra tao nên đối xử tốt hơn với cổ. Tao không biết. Buồn thật đấy.”
“Buồn thật đấy,” tôi lặp lại.
“Ý tao là, nhớ một người mà mày thậm chí còn chẳng hòa hợp nổi thì rất ngu. Nhưng, tao không biết nữa, cũng vui phết, mày biết không, có người để cãi nhau ấy.”
“Cãi nhau,” tôi nói, đoạn ngơ ngác, không lái xe nổi nữa, rồi bổ sung, “rất vui.”
“Phải. Giờ tao không biết mình nên làm gì. Ý tao là, quen cổ vui phết. Tao là một thằng điên, Bé Bự ạ. Tao phải làm gì đây?”
“Mày có thể cãi nhau với tao,” tôi nói. Tôi đặt điều khiển xuống và dựa vào cái ghế sofa đầy mút và thiếp đi. Trông lúc lơ mơ, tôi nghe Đại Tá nói, “Tao không giận mày được, thằng quỷ ốm nhom vô hại này.”
tám mươi bốn ngày trướcBA NGÀY SAU, trận mưa bắt đầu. Đầu tôi vẫn đau, và cục u cỡ lớn ở thái dương bên trái của tôi, Đại Tá nghĩ, trông như bản đồ địa hình thu nhỏ của Macedonia, nơi trước đó tôi còn không biết là một địa điểm chứ đừng nói tới một đất nước. Và trong lúc cùng Đại Tá đi trên bãi cỏ khô cằn sắp chết khô vào thứ Hai hôm ấy, tôi nói, “Tao đoán mưa một chút cũng tốt,” và Đại Tá ngẩng lên nhìn những đám mây thấp tè đang ùn ùn kéo tới đầy đe dọa, và rồi gã nói, “Chậc, tốt hay không thì chắc như đinh đóng cột là chúng ta sẽ thấy thôi.”
Và đúng thật. Hai mươi phút sau khi lớp Tiếng Pháp bắt đầu, Madame O’Malley đang chia động từ tin thành câu giả định. Queje croie. Que tu croies. Qu’il ou qu’elle croie. Bà ấy lặp đi lặp lại, như thể nó không phải động từ mà là kinh Phật. Qụe je croie; que tu croies; qu’il ou qu’elle croie. Đúng là một câu nực cười để lặp lại hết lần này đến lần khác: Tôi sẽ tin, bạn sẽ tin, anh ấy hoặc cô ấy sẽ tin. Tin cái gì? Tôi nghĩ, và ngay lúc đó, cơn mưa kéo tới
Nó đến bất thình lình theo dòng lũ chảy xiết, giống như Chúa đã nổi giận và muốn cuốn phăng chúng tôi. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, trời mưa tầm tã. Mưa dày đặc đến mức tôi không thể nhìn thấy bên kia kí túc xá, đến mức mặt hồ dâng lên đập vào cái xích đu gỗ, nhấn chìm nửa bãi biển nhân tạo. Đến ngày thứ ba, tôi kệ luôn cây dù và đi loanh quanh với tình trạng thường xuyên ướt đẫm. Mọi thứ ở căn-tin có vị axit trong nước mưa và tất cả mùi hôi mùi mốc ẩm và chuyện tắm rửa trở nên vô ích một cách buồn cười vì áp suất nước của cả thế giới tốt hơn vòi sen nhiều.
Và mưa biến chúng tôi thành lũ ẩn sĩ. Đại Tá dành tất tật những giờ-không-vào-lớp để ngồi trên sofa, đọc niên giám hoặc chơi game, và tôi không chắc gã muốn nói chuyện hay gã chỉ muốn ngồi trên đống mút màu trắng và yên phận uống ambrosia.
Sau “cuộc hẹn” tai họa của cả hội, tôi nghĩ tốt nhất là mình không nên nói chuyện với Lara trong bất kì trường hợp nào, sợ rằng tôi sẽ bị chấn động não và/hoặc nôn vào người em, dù em đã bảo với tôi trong lớp toán học dự bị ngày hôm sau rằng “không chao đâu."
Và tôi chỉ gặp Alaska trong lớp và không tài nào bắt chuyện với cô ấy, vì cô ấy đến lớp nào cũng trễ và ra về ngay khi chuông reo, trước khi tôi kịp đóng nắp bút và gấp vở lại. Vào đêm mưa thứ năm, tôi bước vào căn-tin, sẵn sàng quay về phòng và ăn burri-chiên hâm nóng thay cho bữa tối nếu Alaska và/hoặc Takumi không ở đó (tôi biết rõ Đại Tá đang ở Phòng 43, ăn tối với sữa và vodka). Nhưng tôi đã ở lại, vì tôi thấy Alaska đang ngồi một mình, lưng tựa vào ô của sổ chằng chịt vết mưa. Tôi chộp đại một đĩa đậu bắp chiên lớn và ngồi xuống cạnh cô.
“Quỉ thần ơi, cứ như không bao giờ tạnh vậy,” tôi nói, ý bảo cơn mưa.
“Phải,” cô ấy đáp. Mái tóc ướt đẫm của cô ấy rủ xuống và che gần hết khuôn mặt. Tôi ăn một ít. Có ấy ăn một ít.
“Cậu thế nào rồi?” Cuối cùng tôi hỏi.
“Mình thật sự không muốn trả lời bất kì câu hỏi nào có chữ thế nào, khi nào, ở đâu, tại sao hoặc chuyện gì đâu. ”
“Chuyện gì thế?” Tôi thắc mắc.
“Có chữ chuyện gì. Mình không trả lời đâu. Được rồi, mình nên đi thôi.” Cô ấy mím môi và chậm rãi thở dài, như cách Đại Tá phà ra vòng khói.
“Cái gì mà…” Rồi tôi dừng lại và đổi từ. “Mình đã làm gì à?” Tôi hỏi.
Cô ấy gom hết khay thức ăn và đứng dậy trước khi trả lời. “Dĩ nhiên là không, cưng à.”
Chữ “cưng” của cô ấy thật trịch thượng, không phải lãng mạn, giống như cậu trai đang trải qua cơn cuồng phong đầu tiên trong đời không thể hiểu nổi rắc rối của cô bất kể chúng; là gì đi nữa. Tôi phải cố lắm mới không đảo mắt trước câu nói đó, dù có thế cô ấy còn không để ý trong lúc bước khỏi căn-tin với mái tóc ướt đẫm trên mặt.
bảy mươi sáu ngày trước“TAO THẤY KHÁ HƠN RỒI.” Đại Tá nói vào ngày thứ chín của cơn bão trong lúc ngồi xuống cạnh tôi trong lớp tôn giáo. “Tao đã được ơn linh hiển. Mày nhớ cái đêm cổ đến phòng tao rồi sấn sổ như một con quỷ cái không?” “Ờ. Vở Opera. Cà-vạt hồng hạc.”
“Chuẩn.”
“Thì sao?”
Đại Tá rút ra một quyển sổ đóng gáy, nửa trên đã ướt sũng, và tách từng trang ra tới khi đến đúng chỗ cần tìm. “Ơn linh hiển đấy. Cổ là một con quỷ cái.”
Ông Hyde tập tễnh bước vào lớp, nặng nhọc tựa lên một cây gậy màu đen. Trong lúc đi về ghế của mình, ổng lạnh lùng nhắn nhủ, “Bên gối bị tật của tôi cảnh báo rằng trời có thể mưa. Nên các em cẩn thận đấy.” Ông đứng trước ghế, cẩn thận ngả ra sau, đoạn nắm lấy nó bằng hai tay, rồi ngồi phịch xuống ghế với một quãng thở đứt hơi, gấp gáp như đàn bà đau đẻ.
"Tuy còn hai tháng nữa mới đến hạn, nhưng hôm nay các em sẽ nhận được chủ đề luận văn của học kỳ. Giờ, tôi khá chắc là các em đã đọc thời khóa biểu của môn này nhiều và kỹ đến mức thuộc nằm lòng.” Ông nhếch mép. “Nhưng nhớ lấy: Luận văn chỉ chiếm năm mươi phần trăm số điểm. Tôi khuyến khích các em học hành cho đàng hoàng. Nào, giờ đến Chúa Giê-su.”
Ông Hyde giảng về Phúc Âm Mác-cô, cuốn sách tôi đã không đọc cho đến ngày hôm trước, dù tôi theo đạo Thiên Chúa. Tôi đoán mình đã tới nhà thờ chừng, ừm, bốn lần. Thế là nhiều hơn nhà thờ Hồi Giáo hay giáo đường Do Thái rồi.
Ông bảo rằng ở thế kỉ thứ nhất, vào thời Chúa Giê-su, có vài đồng xu La Mã in hình Hoàng Đế Augustus, và dưới hình của ông ta khắc dòng chữ Filius Dei. Con Trai của Chúa Trời.
“Chúng ta đang nói về,” ổng giải thích, “thời thánh thần có con trai. Không khó để trở thành con trai của Chúa Trời. Phép màu, ít nhất vào thời gian và địa phương đó, là Giê-su một thường dân, một người Do Thái, một kẻ vô danh trong đế chế chuyên trị bởi hoàng tộc lại chính là con trai của vị Chúa Trời ấy, Chúa Trời toàn năng của Abraham và Moses. Con trai của Chúa Trời không phải hoàng đế. Thậm chí không phải một giáo sĩ uyên bác. Một thường dân và một người Do Thái. Một kẻ vô danh giống như các em. Trong khi Đức Phật đặc biệt vì ngài đã từ bỏ xuất thân giàu sang và cao quí để được khai sáng, Giê-su đặc biệt vì ngài không giàu sang hay xuất thân cao quí nhưng lại kế thừa địa vị thanh cao nhất: Vua của những vị Vua. Hết giờ. Các em có thể lấy bản sao của bài thi cuối kì trên đường ra. Đừng để mắc mưa đấy.” Phải đến khi đứng dậy ra về, tôi mới nhận ra Alaska đã cúp tiết sao cô ấy lại có thể cúp ngay tiết học duy nhất xứng đáng chứ? Tôi cầm theo một bản sao cho cô.
Bài thi cuối kì: Câu hỏi quan trọng nhất mà nhân loại phải trả lời là gì? Cẩn thận chọn ra câu trả lời, và phân tích xem Hồi Giáo, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo đã tìm cách giải đáp nó thế nào.
‘’Tao mong ông già khốn khổ ấy sống hết năm học,” Đại Tá nói trong lúc cả hai dầm mưa chạy về nhà, “vì tao đang bắt đầu có hứng với môn này. Câu hỏi quan trọng nhất của mày là gì?”
Sau ba mươi giây chạy bộ, tôi đã hết hơi. “Chuyện gì... sẽ xảy ra... khi chúng ta qua đời?”
“Lạy Chúa, Bé Bự, nếu mày không ngừng chạy, mày sẽ biết ngay thôi.” Gã đi chậm lại. “Câu hỏi của tao là: Tại sao người tốt lại bị đày đọa quá nhiều trong đời? Quỷ thần ơi, Alaska đấy à?”
Cô ấy lao hết tốc lực về phía chúng tôi, và cô đang thét lên, nhưng tôi không thể nghe được gì qua tiếng mưa rào, cho tới khi cô ấy ở gần hai đứa đến nỗi tôi có thể thấy nước bọt của cô văng tung tóe.
“Lũ khốn ấy làm ngập phòng mình. Tụi nó làm hỏng gần một trăm cuốn sách! Quỉ tha ma bắt bọn khốn Chiến Binh Ngày Thường. Đại Tá, tụi nó chọc thủng một lỗ trong máng xối và nối một ống nhựa từ đấy vào cửa sổ phía sau vào phòng mình! Căn phòng ngập hết rồi. Cuốn Tướng Quân giữa Mê Hồn Trận của mình hỏng bét rồi.”
“Khá đấy chớ,” Đại Tá tấm tắc, như một nghệ sĩ khen ngợi tác phẩm của một nghệ sĩ khác.
“Ê!” cô ấy quát to.
“Xin lỗi. Đừng lo, bồ tèo,” gã bảo. “Chúa sẽ trừng trị kẻ xấu xa. Và trước khi Ngài làm điều đó. Chúng ta sẽ trả đũa.”
sáu mười bảy ngày trướcRA ĐÂY LÀ CẢM GIÁC CỦA NOAH. Bạn thức dậy vào một buổi sáng và Chúa đã tha thứ cho bạn và bạn đi loanh quanh nheo mắt cả ngày vì đã quên mất ánh nắng mặt trời ấm áp và thô ráp trên da như thế nào, tựa cái hôn của bốn bạn lên má, và cả thế giới rực rỡ và trong lành hơn bao giờ hết, như thể trung tâm Alabama đã bị ném vào máy giặt trong hai tuần và được gột rửa bằng thuốc tẩy cực mạnh với thành phần làm sáng màu, và giờ bãi cỏ xanh hơn và món burri-chiên giòn hơn.
Tôi ở lại khu phòng học trưa hôm đó, nằm sấp trên bãi cỏ vừa mới khô ráo và đọc sách cho tiết lịch sử nước Mỹ, Nội Chiến, hoặc như dân quanh đây hay gọi là Chiến Tranh Giữa Các Tỉnh Bang. Với tôi, nó là trận chiến đã sản sinh hàng ngàn lời trăng trối tuyệt vời. Như Tướng Albert Sidney Johnston, người, khi được hỏi là ông có bị thương không, đã trả lời rằng, “Có, và tôi sợ chết khiếp.” Hoặc Robert E. Lee, người, nhiều năm sau chiến tranh, trong cơn hấp hối mê sảng, đã tuyên bố, “Đánh vào lều!”
Tôi đang ngẫm nghĩ vì sao những vị tướng Liên Minh lại có lời trăng trối hay hơn mấy ông ở Liên Bang (lời trăng trối của Ulysses S.Grant, “Nước,” nghe hơi quê mùa) thì nhận ra một bóng người đang đứng choán cả mặt trời. Lâu rồi tôi mới thấy bóng ai, và nó làm tôi hơi giật mình. Tôi ngẩng lên.
“Tao đem đồ ăn vặt cho mày,” Takumi nói, quăng cái bánh yến mạch nhân kem lên cuốn sách của tôi.
“Rất giàu dinh dưỡng.” Tôi mỉm cười.
“Mày có yến mạch. Mày có bột. Mày có kem. Tháp dinh dưỡng chứ còn khỉ gi nữa.”
“Chuẩn rồi.”
Và rồi tôi không biết phải nói gì. Takumi biết rất nhiều về hip-hop; tôi biết rất nhiều về những lời trăng trối và trò chơi điện tử. Cuối cùng, tôi nói, “Tao không tin được là bọn nó dám làm ngập phòng Alaska.”
“Ờ,” Takumi nói, không nhìn vào tôi. “Chẹp, tụi nó có lí do riêng. Mày phải hiểu rằng với tất cả mọi người, kể cả bọn Chiến Binh Ngày Thường, Alaska nổi tiếng phá phách. Ý tao là, năm ngoái, tụi tao đỗ một chiếc Volkswagen Beetle trong thư viện. Nên nếu tụi nó có lý do để thử và trả đũa cô ấy, tụi nó sẽ làm tới. Và chiêu trò ma lanh phết, vụ đổ nước từ máng xối vào phòng cổ ấy. Ý tao là, tao không muốn thừa nhận...”
Tỏi bật cười. “Ờ. Khó qua mặt đấy.” Tôi tháo gói bánh và cắn một miếng. Ưmm... hàng trăm calo ngon lành mỗi miếng.
“Cổ sẽ nghĩ cách gì đó thôi,” cậu ta nói. “Bé Bự,” đoạn tiếp tục. “Hừmm, Bé Bự, mày cần một điếu thuốc. Đi dạo đi.”
Tôi thấy lo lắng, tôi vẫn hay như thế mỗi khi có ai gọi tên tôi hai lần với chữ hừmm ở giữa. Nhưng tôi đứng dậy, để sách lại phía sau, và đi về phía Trũng Hút Thuốc. Nhưng ngay khi tới bìa rừng, Takumi đã né xa con đường đất. “Tao không chắc là Trũng an toàn,” cậu ta báo. Không an toàn? Tôi nghĩ. Nó là nơi hút thuốc an toàn nhất trên toàn thể vũ trụ. Nhưng tôi chỉ đi theo cậu ta qua bụi cây dày đặc, len lỏi qua hàng thông và những bụi gai nguy hiểm cao ngang ngực. Giây lát sau, cậu ta ngồi xuống. Tôi cúp tay quanh bật lửa để bảo vệ nó trước luồng gió thoảng qua rồi đốt thuốc.
“Alaska mách lẻo vụ Marya,” cậu ta lên tiếng. “Nên Đại Bàng có thể cũng biết về Trũng Hút Thuốc. Tao không biết. Tao chưa bao giờ thấy ổng đi xuống đó, nhưng ai biết cổ đã mách ổng những gì.”
“Khoan, sao mày biết?” tôi hỏi, cảm thấy mơ hồ.
“Chậc, thứ nhất, tao tự tìm ra. Và thứ hai, Alaska thú nhận chuyện đó. Ít nhất cổ đã kể tao nghe một phần sự thật, là hồi cuối năm ngoái, có đêm cổ đã lén ra khỏi trường sau khi tắt đèn để đến thăm Jake và bị phát hiện. Cổ nói mình rất cẩn thận không có đèn pha hay gì hết nhưng Đại Bàng bắt được cổ, và cổ có một chai rượu trong xe, nên cổ chết chắc. Và rồi Đại Bàng dắt cổ vô nhà ổng và đề nghị y chang những gì ổng nói với cả đám học sinh lúc bị tóm cổ. ‘’Hoặc khai hết những gì em biết hoặc trở về phòng và thu dọn hành lý." Nên Alaska òa lên rồi bảo ổng là Marya và Paul xỉn quắc cần câu và đang ở trong phòng Cổ. Và có Chúa mới biết cổ đã nói thêm cái gì. Thế là Đại Bàng thả cổ đi, vì ổng cần lũ mách lẻo làm việc cho ổng. Cổ rất thông minh, thiệt luôn, vì đã mách lẻo một trong số đám bạn, tại chưa ai từng nghĩ đến việc đổ tội cho bạn mình. Đấy là lí do Đại Tá chắc mẩm thủ phạm là Kevin và đồng bọn của nó. Tao cũng không nghĩ đấy là Alaska, tới khi tao nhận ra cổ là người duy nhất trong trường biết được Marya đang làm gì. Tao đã nghi ngờ bạn cùng phòng của Paul, Longwell một trong những thằng đã biến mày thành tiên cá không tay. Hóa ra đêm đó nó ở nhà. Dì của nó qua đời. Tao kiểm tra mục tin buồn trên báo rồi. Hollis Burnis Chase cái tên khá ấn tượng cho một bà dì.” “Vậy là Đại Tá không biết?” tôi hỏi lại, sững sờ. Tôi dập tắt điếu thuốc, dù vẫn hút chưa xong, vì tôi thấy rùng mình. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ Alaska phản bội. Ẩm ương, đúng. Nhưng không phải một đứa mách lẻo.
“Không, và nó không được biết, vì nó sẽ điên lên và khiến cổ bị đuổi học. Đại Tá rất coi trọng ba cái quỉ danh dự và trung thành này, nếu mày vẫn chưa biết.”
Tao biết rồi.
Takumi lắc đầu, đưa tay gạt bỏ lá cây để bấu vào lớp đất còn ướt bên dưới. “Tao chỉ không hiểu vì sao cổ sợ bị đuổi học như vậy. Tao ghét bị đuổi học, nhưng mày tự làm tự chịu. Tao không hiểu.”
“Ờ, rõ ràng là cổ không thích nhà mình.”
“Phải. Cổ chỉ về nhà vào dịp Giáng Sinh và nghỉ hè, khi Jake ở đó. Nhưng sao cũng được. Tao cũng đâu thích về nhà. Nhưng tao sẽ không bao giờ cho Đại Bàng thỏa mãn.” Takumi nhặt lấy một cành con và cắm nó xuống mặt đất đỏ nhão nhoẹt. “Nghe này, Bé Bự. Tao không biết Alaska và Đại Tá sẽ bày trò gì để kết thúc vụ này, nhưng tao chắc chắn chúng ta đều sẽ bị kéo vào. Tao kể hết cho mày để mày biết trước mình đang dính vào cái gì, vì nếu mày bị bắt, mày nên tự gánh nhận hậu quả thì hơn."
Tôi nghĩ đến Florida, đến “bạn cùng trường” của tôi, và lần đầu tiên nhận ra tôi sẽ nhớ Creek thế nào nếu phải rời xa nó. Tôi nhìn xuống cái cành con của Takumi đang dựng đứng giữa bùn và nói, “Thề với Chúa là tao sẽ không mách lẻo.”
Cuối cùng tôi đã hiểu được cái ngày ở Ban Bồi Thẩm: Alaska muốn chứng tỏ rằng chúng tôi có thể tin cô ấy. Sống sót ở Culver Creek đồng nghĩa với lòng trung thành, và cô ấy đã tảng lờ nó. Nhưng rồi cô ấy lại hướng dẫn tôi. Cô ấy và Đại Tá đã nhận tội thay tôi để chỉ cho tôi đường đi nước bước, để tôi biết phải làm thế nào khi thời điểm đến.
năm mươi tám ngày trướcKHOẢNG MỘT TUẦN SAU, tôi thức dậy lúc 6:30–6:30 vào ngày thứ Bảy! Trong giai điệu du dương của Decapitation: tiếng súng tự động nổ đùng đoàng, át cả tiếng nhạc nền nặng âm bass đầy đe dọa của trò chơi. Tôi lăn qua và thấy Alaska kéo điều khiển lên cao và về phía bên phải, như thể nó sẽ giúp cô thoát khỏi cái chết trước mắt. Tôi cũng có thói quen xấu tương tự.
“Cậu tắt tiếng được không?”
“Bé Bự," cô ấy nói, vờ ra vẻ, “âm thanh là một phần trải nghiệm nghệ thuật của trò chơi điện tử này. Tắt tiếng Decapitation chẳng khác nào đọc lướt tác phẩm Jane Eyre.
Đại Tá dậy chừng nửa tiếng trước. Cậu ấy dòm hơi bực bội, nên mình bảo cậu ấy sang phòng mình ngủ đi.”
“Có lẽ mình sẽ sang đấy ngủ chung,” tôi lờ đờ nói.
Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, cô ấy cất một tràng, “Nghe nói Takumi kể với cậu rồi. Ờ, mình mách lẻo Marya đấy, và mình xin lỗi, và mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Mặt khác, cậu có ở đây vào Lễ Tạ ơn không? Vì mình thì có đấy.”
Tôi quay lưng lại về phía tường và kéo mền trùm kín đầu. Tôi không biết mình nên tin Alaska hay không, và tôi rõ ràng đã chịu đủ bản tính khó đoán của cô – lạnh lùng hôm nay, ngọt ngào hôm sau; lả lơi khó cưỡng trong thoáng chốc, khó chịu dễ ghét giây tiếp theo. Tôi thích Đại Tá hơn: ít nhất khi gã cáu kỉnh, gã vẫn có lí do.
Để chứng minh sức mạnh của sự mệt mỏi, tôi đã thiếp đi nhanh chóng, tự thuyết phục mình rằng tiếng gào rú của bọn quái vật giãy chết và tiếng hét hào hứng của Alaska khi giết chúng không là gì hơn ngoài một bản nhạc êm dịu để mơ mòng. Tôi tỉnh giấc nửa tiếng sau, khi cô ấy ngồi xuống giường tôi, mông cô tì vào hông tôi. Quần lót của cô ấy, quần jean, tấm mền, quần nhung và quần đùi của tôi chen giữa hai đứa, tôi nghĩ. Năm lớp vải, nhưng tôi vẫn cảm thấy nó, hơi ấm bồn chồn từ những đụng chạm – một phản ảnh nhạt nhòa của tia lửa khi hai đôi môi chạm vào nhau, nhưng vẫn là một phản ảnh. Và trong một thoáng gần như ấy, ít nhất tôi đã đủ quan tâm. Tôi không chắc mình có thích cô ấy hay không, và tôi không biết liệu mình có thể tin cô ấy, nhưng ít nhất tôi đủ quan tâm để tìm ra. Cô ấy ngồi trên giường tôi, đôi mắt to tròn màu xanh lục đang nhìn tôi chằm chằm. Bí ẩn thường trực đến từ nụ cười ranh mãnh, gần như một cái nhếch mép của cô ấy. Năm lớp vải giữa chúng tôi.
Cô ấy nói tiếp như thể tôi đã thức nãy giờ. “Jake phải học thi. Nên anh ấy không muốn mình về Nashville. Ảnh bảo ảnh không thể tập trung vào âm nhạc trong lúc ngắm mình. Mình bảo mình sẽ mặc áo burka, nhưng ảnh không tin, nên mình sẽ ở lại đây.”
“Mình rất tiếc,” tôi bảo.
“Ồ, đừng lo. Mình có hàng đống thứ để làm. Có một trò cần lên kế hoạch. Nhưng mình nghĩ cậu cũng nên ở lại. Thật ra, mình đã soạn sẵn một danh sách.”
“Một danh sách?”
Cô ấy đút tay vào túi và lôi ra một tờ ghi chú được gấp dày cộm và bắt đầu đọc.
"Danh sách: Lí do Bé Bự nên ở lại Creek vào Lễ Tạ ơn, Alaska Young soạn.”
"Một. Vì cậu ấy là một học sinh tận tụy, Bé Bự đã thiếu thốn vô vàn trải nghiệm tuyệt diệu của Culver Creek, bao gồm nhưng không giới hạn A. uống rượu với mình ở trong rừng, và B.dậy sớm vào thứ Bảy để ăn sáng tại McKhông-Nuốt-Nổi rồi lái xe quanh khu thượng lưu Birmingham, hút thuốc và bàn về việc khu thượng lưu ấy chán điên như thế nào, chưa kể C. đi dạo khuya và nằm trên sân bóng đầy sương và đọc sách của Kurt Vonnegut dưới ánh trăng.
“Hai. Dù bà ấy không xuất sắc trong lĩnh vực giảng dạy Pháp văn, Madame O’Malley nhồi gà tây rất ngon, và bà mời tất cả học sinh ở lại trường đến ăn bữa tối Tạ ơn. Thường chỉ có mình và nhỏ học sinh trao đổi người Hàn Quốc, nhưng không sao. Bé Bự sẽ được chào đón.
“Ba. Mình không có cái Ba nào, nhưng Một và Hai là tuyệt vời lắm rồi.”
Một và Hai nghe rất hấp dẫn, dĩ nhiên, nhưng chủ yếu tôi thích ý nghĩ chỉ có cô ấy và tôi trong trường. “Mình sẽ nói chuyện với cha mẹ. Khi họ thức dậy,” tôi bảo. Cô ấy dụ tôi ra sofa ngồi, và chúng tôi chơi Decapitation cùng nhau, tới khi cô ấy đột ngột quăng điều khiển.
“Mình không tán tỉnh cậu. Mình chỉ kiệt sức thôi,” Alaska nói, đoạn đá bay dép đi trong nhà. Cô ấy kéo chân lên cái sofa đầy mút, rúc chúng vào phía sau một tấm đệm, rồi nhích sang để gối đầu lên lòng tôi. Quần nhung của tôi. Quần đùi. Hai lớp vải. Tôi có thể cảm nhận gò má ấm áp của cô ấy trên đùi.
Có những thời điểm thích hợp, thậm chí đúng lúc, để chào cờ khi ai đó kề sát mặt vào thân dưới bạn.
Đây không phải là một trong những thời điểm đó.
Nên tôi dừng nghĩ về những lớp vải và hơi ấm, tắt tiếng TV, và tập trung vào trò Decapitation.
Vào 8:30, tôi tắt game và luồn ra từ bên dưới Alaska. Cô ấy quay sang nằm ngửa, vẫn còn say ngủ, nếp nhăn quần nhung của tôi hằn trên má cô.
Tôi thường chỉ gọi cho cha mẹ vào trưa Chủ Nhật, nên khi nghe giọng tôi, mẹ lập tức kích động. “Chuyện gì thế? Miles? Con không sao chứ?”
“Con ổn, thưa mẹ. Con nghĩ, nếu mẹ cho phép, con nghĩ con sẽ ở lại đây vào dịp Lễ Tạ ơn. Nhiều đứa bạn con ở lại”–nói dối–“và con có một đống việc phải làm”–nói dối nhân đôi. “Con không ngờ mấy môn học khó đến vậy, mẹ ơi”–sự thật.
“Ôi, con yêu. Chúng ta rất nhớ con. Và có một con gà tây khổng lồ đang chờ con. Và món xốt việt quất con có thể ăn thỏa thích.”
Tôi ghét xốt việt quất, nhưng chẳng hiểu sao trước giờ mẹ tôi cứ nhất quyết tin rằng nó là món ăn ưa thích của tôi, dù mỗi một dịp Tạ ơn tôi đều lễ phép từ chối múc nó vào đĩa.
“Con biết, mẹ. Con cũng nhớ cha mẹ. Nhưng con thật sự rất muốn theo kịp chương trình ở đây”–sự thật–“và cảm giác, ưm, có bạn thật thích”– sự thật.
Tôi biết cái cớ bạn bè sẽ khiến mẹ tôi đồng ý, và đúng thật. Nên tôi được mẹ cho phép ở lại trường sau khi hứa rằng sẽ ở cạnh họ từng phút tùng giây vào dịp nghỉ Giáng Sinh (làm như tôi có kế hoạch nào khác vậy).
Tôi dành cả buổi sáng trước máy tính, chuyển đổi qua lại giữa bài tập môn tôn giáo và Quốc Ngữ. Chỉ còn hai tuần học trước hai kì kiểm tra, một sắp tới và một sau Lễ Tạ ơn và tới giờ, đáp án khá khẩm nhất mà tôi nghĩ ra cho câu hỏi “Chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta sau khi chết?” là “À, chuyện gì đó. Có thể.”
Đại Tá bước vào phòng lúc trưa, kẹp cuốn toán học nâng cao dày cộm trong tay.
“Tao mới gặp Sara,” gã nói.
“Mày thấy thế nào?”
“Tệ hại. Cổ nói cổ vẫn còn yêu tao. Lạy Chúa, 'em yêu anh’ đúng là liều thuốc dẫn đến chia tay. Nói ‘em yêu anh’ trong lúc đi ngang kí túc xá chắc chắn sẽ dẫn đến chuyện nói ‘em yêu anh’ lúc đang làm tình. Nên tao chỉ biết bỏ chạy.” Tôi cười lớn. Gã lôi ra một cuốn sổ và ngồi xuống bàn.
“Ờ. Haha. Nghe Alaska nói mày sẽ ở lại đây.”
“Ờ. Tuy tao thấy hơi tội lỗi vì đã bỏ rơi cha mẹ.”
“Ờ thì. Nếu mày ở đây vì muốn được hôn hít gì với Alaska thì tao mong mày sẽ không làm thế. Nếu mày kéo nó khỏi tảng đá tên là Jake ấy, Chúa phù hộ tất cả chúng ta. Đấy sẽ là một núi rắc rối, tao nói thật. Và theo đúng luật, tao không thích dính vào rắc rối.”
“Đấy không phải vì tao muốn hôn hít cổ.”
“Chờ chút.” Gã chộp lấy cây bút chì và hào hứng ghi chép trên giấy như thể vừa giải được một bài toán khó, đoạn gã lại ngước lên nhìn tôi. “Tao mới làm vài phép toán, và tao đã kết luận được rằng mày là thằng xạo sự.”
Và gã nói đúng. Sao tôi có thể bỏ rơi cha mẹ, những người đã tử tế đến mức trả học phí cho tôi ở Culver Creek, những người đã luôn yêu thương tôi, chỉ vì tôi có lẽ đã thích một cô gái đang có bạn trai? Sao tôi có thể để họ một mình với một con gà tây cỡ lớn và một đống xốt việt quất khó ăn? Nên giữa tiết ba, tôi gọi cho mẹ ở chỗ làm. Tôi muốn bà nói rằng tôi được phép, tôi đoán, ở lại Creek trong dịp Lễ Tạ ơn, nhưng tôi không ngờ bà lại phấn khích thông báo rằng bà và cha tôi đã mua vé máy bay đến Anh ngay sau khi tôi vừa gọi và dự định sẽ ăn mùng Lễ Tạ Ơn tại một lâu đài trong lần trăng mật thứ hai của họ.
“Ồ, tuyệt–tuyệt quá,” tôi nói, và rồi nhanh chóng cúp máy vì tôi không muốn bà nghe thấy tôi khóc. Tôi đoán Alaska đã nghe tôi dập máy từ phòng mình, vì cô ấy mở cửa lúc tôi quay lưng đi, nhưng cô không nói gì. Tôi băng qua khuôn viên kí túc xá, rồi đi thẳng tới sân bóng, càn vào mấy bụi cây trong lúc đi xuyên rừng, đến khi dừng lại bên bờ Culver Creek ngay phía dưới cầu. Tôi ngồi xuống một tảng đá, vùi chân xuống lớp bùn giữa con lạch và ném sỏi về phía mặt nước cạn trong veo, và chúng đáp xuống cùng tiếng tõm rỗng tuếch, khó mà nghe được giữa dòng chảy ầm ầm đổ xuống hạ nguồn. Anh nắng xuyên qua những tán lá thường và lá kim như dải đăng-ten ở phía trên đầu, hắt lên mặt đất những chiếc bóng lốm đốm.
Tôi nghĩ đến một thứ mình nhớ ở nhà, phòng làm việc của cha tôi với dãy kệ sách âm tường, cao từ sàn đến trần nhà chất đầy tiểu sử, và cái ghế da khiến tôi khó chịu vừa đủ để không thấy buồn ngủ khi đọc. Tôi thật ngớ ngẩn khi buồn bã đến vậy. Tôi đã bỏ rơi họ, nhưng lại có cảm giác bị bỏ rơi. Dẫu vậy, tự dưng tôi nhớ nhà kinh khủng.
Tôi nhìn lên phía cây cầu và thấy Alaska ngồi trên một trong những cái ghế xanh ở Trũng Hút Thuốc, và dù tôi muốn ở một mình, tôi lại nghe bản thân mình cất tiếng, “Này.” Rồi, khi cô ấy không quay sang nhìn, tôi hét to, “Alaska!” Cô ấy bước tới.
“Mình đang tìm cậu,” cô ấy nói, ngồi cạnh tôi trên tảng đá.
“Này.”
“Mình thật sự xin lỗi, Bé Bự,” cô ấy bảo, và vòng tay ôm lấy tôi, dựa đầu vào vai tôi. Tôi chợt nhận ra cô ấy thậm chí còn không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng cô ấy vẫn có vẻ rất chân thành.
“Mình phải làm gì dây?”
“Cậu sẽ ăn mừng Lễ Tạ Ơn với mình, ngốc ạ. Ở đây.”
“Thế tại sao cậu không về nhà nghỉ lễ?” tôi hỏi có ấy.
“Vì mình sợ những bóng ma, Bé Bự à. Và nhà thì đầy rẫy chúng.”
năm mươi hai ngày trướcSAU KHI MỌI NGƯỜI RỜI ĐI; sau khi mẹ của Đại Tá xuất hiện trong một chiếc xe hai khoang cũ mèm và gã ném cái túi thể thao cỡ bự của mình lên ghế sau; và sau khi gã nói, “Tao không giỏi nói lời tạm biệt. Hẹn gặp mày sau một tuần nữa. Đừng làm những gì tao sẽ không làm”; và sau khi một chiếc limousine màu xanh đến đón Lara, bố em là vị bác sĩ duy nhất tại một thị trấn nhỏ ở phía nam Alabama; và sau khi tôi đi cùng Alaska trên chuyến xe não nề không cần đạp cái phanh chết tiệt chở Takumi ra sân bay; và sau khi sân trường chìm vào sự im lặng đáng sợ, không tiếng sập cửa và chơi nhạc và cười đùa và la hét; sau tất cả chuyện đó:
Chúng tôi đi xuống sân bóng, và cô ấy dắt tôi ra ngoài rìa cánh đồng, nơi dẫn vào rừng cây, đúng như lộ trình tôi đã đi để bị ném xuống hồ. Bóng Alaska trải dài dưới ánh trăng tròn, và bạn có thể nhìn rõ đường cong từ eo đến hông của cô ấy trong bóng tối, và lát sau cô ấy dừng lại rồi nói, “Đào lên.”
Và tôi hỏi, “Đào?” và cô ấy đáp, “Đào.” Và chúng tôi cứ như thế một lúc, rồi tôi quì xuống và đào xuyên qua lớp đất mềm ở bìa rừng, và trước khi tôi kịp đào sâu hơn, tay tôi cào phải thủy tinh, và tôi lần mò quanh đống thủy tinh đến khi lôi ra một chai rượu màu hồng Strawberry Hill, đó là tên của nó, tôi đoán nếu rượu không có vị như giấm với một chút hương mật phong, rất có thể nó sẽ mang vị dâu.
“Mình có một cái thẻ căn cước giả,” cô ấy nói, “nhưng nó tào lao. Nên mỗi lần tới tiệm bán rượu, mình cô mua mười chai này và vài chai vodka cho Đại Tá. Và khi thẻ căn cước cuối cùng cũng hiệu quả, mình đã đủ phần cho cả học kì. Rồi mình đưa vodka cho Đại Tá, và cậu ấy bỏ chúng ở chỗ nào tùy thích, còn mình lấy chai của mình và chôn đi.”
“Vì cậu là một tên cướp biển,” tôi nói.
“Aye, matey. Chính xác đấy. Nhưng học kì này lượng tiêu thụ rượu đã tăng lên một chút, nên ngày mai chúng ta phải đi một chuyến. Đây là chai cuối cùng.” Cô ấy bật nắp, không có nút bần, nhấp một ngụm, rồi chuyền nó cho tôi. "Đừng lo về Đại Bàng tối nay,” cô ấy nói. “Ông chỉ mừng vì cả đám gần như biến hết. Chắc giờ ổng đang tự sướng lần đầu tiên trong tháng.”
Tôi thoáng lo lắng trong lúc cầm lấy cổ chai, nhưng tôi muốn tin cô ấy, và tôi đã làm thế. Tôi uống một hớp nhỏ, và ngay sau khi nuốt xuống, tôi cảm thấy cơ thể phản ứng lại vị mật gắt họng trong rượu. Nó trào ngược lên thực quản của tôi, nhưng tôi nuốt cái ực, và đấy, xong rồi, tôi đã làm được. Tôi đang uống rượu trong trường.
Nên chúng tôi nằm trên bãi cỏ cao giữa sân bóng và rừng cây, chuyền cái chai cho nhau và ngửa cổ nhấp món rượu ngon đến nhăn mặt. Như đã hứa trong danh sách, cô ấy đem theo một cuốn sách của Kurt Vonnegut, Vòng dây của Mèo, và cô ấy đọc lên cho tôi nghe, giọng nói khẽ khàng hòa vào tiếng ếch kêu ồm ộp và tiếng châu chấu đáp đất xung quanh. Tôi không nghe rõ nội dung bằng ngữ điệu trong chất giọng của cô. Rõ ràng cô ấy đã nghiền ngẫm cuốn sách này rất nhiều lần, cô đọc nó trôi chảy và tự tin, và tôi có thể nghe cô cười giữa lúc đọc và âm thanh của nụ cười ấy khiến tôi nghĩ rằng có lẽ tôi sẽ thích tiểu thuyết hơn nếu Alaska Young đọc chúng cho tôi nghe. Một lát sau, cô ấy đặt sách xuống, và tôi thấy ấm áp nhưng chưa say hẳn với chai rượu nằm giữa chúng tôi, ngực tôi chạm vào nó và ngực cô ấy chạm vào nó nhưng không phải hai chúng tôi chạm vào nhau, và rồi cô ấy đặt tay lên chân tôi.
Tay cô ấy chỉ ở trên đầu gối tôi một chút, lòng bàn tay áp sát mềm mại trên lớp quần jean và ngón trỏ của cô di từng vòng tròn chậm rãi, biếng nhác đang dần lan rộng vô đùi trong của tôi, và duy nhất một lớp vải ngăn cách chúng tôi, lạy Chúa, tôi muốn cô ấy. Và tôi nằm đó, giữa bãi cỏ cao vút, tĩnh lặng, bên dưới bầu trời đầy sao, lắng nghe nhịp thở đều đặn vừa đủ nghe từ cô ấy giữa tĩnh lặng ồn ào của bọn ễnh ương, châu chấu, những chiếc ô-tô vun vút không ngưng trên đại lộ 1-65, đoạn tôi nghĩ giờ hẳn là lúc thích hợp để nói Ba Từ Đặc Biệt. Và tôi buộc mình không nói ra trong lúc nhìn lên bóng đêm ngàn sao, tự nhủ rằng cô ấy cũng cảm thấy thế, rằng bàn tay của cô đặt trên chân tôi sống động và sâu sắc hơn bỡn cợt đơn thuần, và thây kệ Lara và thây kệ Jake vì mình, Alaska Young ạ, mình yêu cậu và không còn gì quan trọng hơn thế và tôi hé môi định nói và trước khi tôi kịp thở ra câu ấy, cô ấy đã nói, “Không phải về sự sống hay cái chết đâu, mê hồn trận ấy.”
“Ưm, được. Thế là gì?”
“Đau khổ,” cô ấy đáp. “Phạm phải sai lầm và sai lầm xảy đến với cậu. Đấy là vấn đề. Bolivar muốn nói về đau đớn, không phải về người sống hay kẻ chết. Cậu làm sao để thoát khỏi mê hồn trận của nỗi đau?”
"Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. Và tôi nhận ra cô ấy đã bỏ tay khỏi người tôi.
“Không có gì hết. Nhưng lúc nào cũng có đau khổ, Bé Bự ạ. Bài tập về nhà hoặc bệnh sốt rét hoặc một người bạn trai ở xa trong khi cậu đang có một anh chàng đẹp trai nằm cạnh bên. Đau khổ ở khắp vũ trụ. Đấy là một trong những điều mà các tín đồ Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo đều phải lo nghĩ.”
Tôi quay sang cô ấy. “Ồ, vậy chắc lớp học của Tiến Sĩ Hyde cũng không hoàn toàn nhảm nhí.” Và cả hai chúng tôi nằm nghiêng, cô ấy mỉm cười, mũi chúng tôi gần chạm nhau, đôi mắt thao láo của tôi dán lên người Alaska, mặt cô ấy ửng đỏ vì rượu, và tôi lại mở miệng nhưng lần này không phải để nói, và cô ấy vươn tay đặt một ngón lên môi tôi và nói, “Suỵt. Suỵt. Đừng làm hỏng điều đó.”
năm mươi mốt ngày trướcSÁNG HÔM SAU, tôi không nghe tiếng gõ cửa, ấy là nếu có tiếng nào. Tôi chỉ nghe thấy, “DẬY ĐI! Cậu biết mấy giờ rồi không?!”
Tôi nhìn đồng hồ và lờ đờ lẩm bẩm, “Bảy giờ ba mươi sáu phút.”
“Không, Bé Bự. Là giờ mở tiệc! Chúng ta chỉ còn bảy ngày trước khi mọi người quay lại. Chúa ơi, mình không biết phải nói có cậu ở đây tuyệt đến thế nào. Lễ Tạ ơn năm ngoái, mình dành cả tuần để nặn một cây nến khổng lồ từ sáp thừa của mấy cây nến nhỏ. Trời ơi, chán gần chết. Mình đếm cả ô gạch trên trần nhà, sáu mươi bảy ô hàng dọc, tám mươi bốn ô hàng ngang. Đau khổ thế đấy! Đúng là tra tấn tinh thần.”
“Mình thật sự rất mệt. Mình…” Tôi nói, rồi cô ấy cắt ngang.
“Bé Bự tội nghiệp. Ôi, Bé Bự thiệt tội nghiệp. Cậu có muốn mình leo lên giường chung rồi ôm cậu không?”
“Chà, nếu cậu đề nghị.”
“KHÔNG! DẬY! DẬY MAU!”
Alaska dẫn tôi đến phía sau chái nhà bên dãy phòng của Chiến Binh Ngày Thường 50 tới 59 và dừng trước một cửa sổ, áp sát hai tay lên đó, và đẩy nó hé lên một nửa, đoạn trèo vào trong. Tôi theo sau.
“Cậu thấy gì, Bé Bự?”
Tôi nhìn thấy một phòng kí túc xá, vẫn bốn bức tường than xỉ, cùng kích thước, thậm chí cùng cách sắp xếp như phòng tôi. Sofa của họ đẹp hơn, và họ có một cái bàn cà phê thực thụ thay vì BÀN CÀ PHÊ. Họ có hai tấm poster trên tường. Một có hình mây tờ một trăm đô-la chất thành đống với dòng chữ MỘT TRIỆU ĐẦU TIÊN LÀ MỘT TRIỆU KHÓ NHẤT. Trên bức tường đối diện là hình một cái xe Ferrari màu đỏ. “Ưm, mình thấy một căn phòng kí túc xá.”
“Cậu chẳng nhìn gì cả, Bé Bự. Lúc mình vào phòng cậu, mình thấy hai gã mê game. Lúc mình quan sát phòng mình, mình thấy một cô gái yêu sách.” Cô ấy đi đến chỗ sofa và nhặt một chai soda bằng nhựa lên. “Nhìn này,” cô ấy bảo, và tôi thấy một chất lỏng màu nâu nồng mùi được rót đầy một nửa bên trong. Nước bọt sau khi nhai xì gà. “Tụi nó nhai xì gà. Và rõ ràng là tụi nó chẳng sạch sẽ gì khi làm thế. Nên liệu tụi nó có để ý việc chúng ta tè lên bàn chải đánh răng của tụi nó không? Không để ý lắm đâu, chắc chắn đấy. Nhìn đi. Nói cho mình nghe bọn này thích gì.” “Thích tiền,” tôi nói, chí lên tấm poster. Cô ấy giơ hai tay lên, tuyệt vọng.
“Tụi nó đều thích tiền, Bé Bự. Được, vào phòng tắm đi. Nói mình biết cậu thấy gì trong đấy.”
Trò chơi làm tôi hơi bực, nhưng tôi đi vào phòng tắm còn cô ấy ngồi xuống cái ghế sofa mời gọi ấy. Bên trong buồng tắm, tôi bắt gặp một tá dầu gội và dầu xả. Trong tủ thuốc, tôi tìm thấy một lọ hình trụ đựng gì đó ghi chú Rexvind. Tôi mở nắp, chất gel màu xanh có hương hoa và cồn tầy rửa, như mùi một tiệm hót tóc sang trọng. (Bên dưới bồn rửa mặt, tôi tìm thấy cả một tuýp Vaseline lớn đến mức chỉ có thể dùng cho một việc mà tôi không buồn ngẫm tới.) Tôi quay về phòng và hào hứng thông báo, “Tụi nó phát cuồng mái tóc của mình.”
“Chính xác!" cô ấy hét lên. “Lục giường tầng trên đi.” Một lọ gel STAWET được đặt chông chênh trên tấm ván mỏng đầu giường. “Kevin không thức dậy với cái đầu rổ quạ lỉa chỉa ấy, Bé Bự. Nó dùng keo vuốt. Nó thích kiểu tóc ấy. Tụi nó để mấy chai dưỡng tóc ở đây, Bé Bự, vì tụi nó có cả mớ ở nhà. Cả lũ đều có. Và cậu biết vì sao không?”
“Vì tụi nó muốn bù đắp cho thằng nhỏ bé tí của tụi nó?” Tôi hỏi.
"Ha ha. Không. Đấy là lí do tụi nó là lũ khốn cơ bắp. Tụi nó cuồng đầu tóc vì tụi nó không đủ thông minh để thích cái gì thú vị hơn. Nên chúng mình sẽ đánh vào chỗ đau nhất: da đầu.”
“Đượccc… thôii,” tôi nói, không biết chính xác mình phải làm gì để chọc phá da đầu của người khác.
Alaska đứng dậy và bước tới của sổ rồi cúi xuống thò người ra. “Đừng nhìn mông mình,” cô ấy bảo, và tôi nhìn mông cô ấy, hiện đa