Bốn mươi bảy ngày trước
VÀO SÁNG THỨ TƯ, tôi tỉnh dậy với cái mũi nghẹt cứng và một Alabama hoàn toàn mới, một nơi khô cứng và lạnh lẽo. Trong lúc đi đến phòng Alaska vào sáng hôm đó, bãi cỏ đóng băng trong sân kí túc xá kêu răng rắc dưới chân tôi. Bạn không thấy sương giá nhiều ở Florida–và tôi nhảy lên xuống như đang giậm trên màng xốp hơi. Rốp. Rốp. Rốp.
Alaska đang dốc ngược một cây nến cháy màu xanh, nhỏ sáp xuống một cái núi lửa tự tạo lớn hơn trông như quả núi lửa sặc sỡ trong đồ-án-hồi-cấp-hai.
“Đừng để phỏng nhé,” tôi nói khi ngọn lửa lan dần lên tay cô ấy.
“Đêm về nhanh. Một ngày hóa mong manh,” cô nói mà không buồn ngẩng đầu.
“Chờ đã, mình đã đọc qua nó rồi. Gì đấy?” tôi hỏi.
Bằng tay còn lại, Alaska chộp lấy một cuốn sách và ném nó về phía tôi. Cuốn sách rơi ngay chân tôi. “Thơ,” cô ấy đáp. “Edna St. Vincent Millay. Cậu đọc rồi à? Mình ngạc nhiên đấy.”
“Ồ, mình đọc tiểu sử của bà ấy rồi! Nhưng không có lời trăng trối của bà ta. Mình hơi bứt rứt. Tất cả những gì mình nhớ là bà ta đã quan hệ rất nhiều.”
“Mình biết. Bà ấy là người hùng của mình,” Alaksa nói không chút mỉa mai. Tôi bật cười, nhưng cô ấy không để tâm. “Cậu không thấy lạ khi thích đọc tiểu sử của những tác gia vĩ đại hơn là tác phẩm do họ viết à?”
“Không!'' tôi tuyên bố. “Chỉ vì họ thú vị không có nghĩa mình sẽ thích họ lẩm bẩm về buổi đêm.’’
“Nó nói về nỗi buồn, đồ ngốc.”
“Ồoooo, thật sao? À, chẹp, thế thì tuyệt vời,” tôi trả lời. Cô ấy thở dài. “Được rồi. Tuyết có thể rơi vào mùa đông mà mình ghét, nhưng ít nhất mình có một người bạn giỏi châm biếm. Ngồi xuống đi, được không?”
Tôi khoanh chân ngồi xuống cạnh Alaska và đầu gối chúng tôi chạm nhau. Cô ấy lòi ra một cái thùng nhựa trong chứa đầy nến từ dưới gầm giường. Cô nhìn chúng một lát, đoạn đưa tôi một cây nến trắng kèm bật lửa.
Chúng tôi dành cả buổi sáng để đốt nến và thi thoảng đốt thuốc từ mấy cây nến đang cháy sau khi nhét khăn xuống khe hơ dưới cửa phòng cô ấy. Sau hai tiếng, chúng tôi đã đổ thêm gần nửa mét trên đỉnh núi lửa nhiều màu của cô.
“Ngọn St. Helens trên axit,” cô ấy nói.
Lúc 12:30, sau hai tiếng nghe tôi đòi đến McDonald’s, Alaska quyết định đã đến giờ ăn trưa. Khi chúng tôi bắt đầu đi bộ về phía bãi đỗ xe của học sinh, tôi nhìn thấy một chiếc xe lạ. Một chiếc xe nhỏ màu xanh lá cây. Một chiếc hai khoang. Mình đã thấy chiếc xe đó rồi, tôi nghĩ. Ở đâu nhỉ? Và rồi Đại Tá nhảy ra và chạy tới gặp chúng tôi.
Thay vì, kiểu, tôi không biết nữa, “xin chào” hay đại loại thế, Đại Tá lại nói, “Tao được giao nhiệm vụ mời mày đến ăn Lễ Tạ ơn ở Chez Martin.”
Alaska thì thầm vào tai tôi, và rồi tôi bật cười và nói, “Tao được giao nhiệm vụ nhận lời mời của mày.” Nên chúng tôi đến nhà Đại Bàng, bảo ổng rằng tụi tôi sẽ ăn gà tây theo kiểu dã chiến, và lái đi trong chiếc hai khoang.
Đại Tá giải thích cho chúng tôi trên chuyến xe hai tiếng về phía nam. Tôi bị nhét vào ghế sau vì Alaska đòi ngồi ở trước. Bình thường cô ấy sẽ lái, nhưng khi không làm tài xế, cô ấy sẽ là nữ hoàng đòi-ghế-trước trên toàn thế giới. Mẹ của Đại Tá nghe nói chúng tôi ở lại trường và không thể chịu được việc bỏ rơi hai đứa vô gia đình vào dịp Lễ Tạ ơn. Đại Tá dường như không thích thú ý tưởng này lắm–“Tao sẽ phải ngủ ở trong lều,” gã nói, và tôi cười khanh khách.
Ngoại trừ việc gã phải ngủ trong lều thật, một mái vòm màu xanh cỡ bốn người có hình giống nửa trái trứng, nhưng vẫn là một cái lều. Mẹ của Đại Tá sống trong một cái nhà xe, kiểu nhà bạn hay thấy gắn liền với một cái xe tải chở hàng lớn, có điều căn nhà này đã cũ kĩ và rệu rã trên nền bê-tông xỉ, và chắc chắn không thể móc vào một cái xe tải mà không phải tháo rời. Nó thậm chí còn không phải một cái nhà di động cỡ bự. Tôi không thể đứng thẳng mà không cốc đầu lên trần. Giờ tôi đã hiểu vì sao Đại Tá lùn tịt, gã đâu được phép cao hơn nữa. Bên trong cơ bản là một căn phòng dài ngoằng, với một chiếc giường đôi ở trước, một bếp cá nhân, và khu vực sinh hoạt ở phía sau với một cái TV và phòng tắm nhỏ, nhỏ đến mức để tắm vòi sen, bạn gần như phải ngồi hẳn trên bồn cầu.
“Chẳng nhiều nhặn gì,” mẹ của Đại Tá (“Cô Dolores, không phải Martin”) bảo chúng tôi. “Nhưng các cháu sẽ có một con gà tây bằng cỡ nhà bếp.” Cô cười giòn tan. Đại Tá xua chúng tôi ra khỏi nhà xe ngay lập tức sau chuyến tham quan chóng vánh, và chúng tôi đi dạo quanh khu vực gần đó, một dãy nhà xe và nhà di động trên con đường đất.
“Ờ, giờ mày hiểu vì sao tao ghét lũ nhà giàu rồi đấy.” Và đúng vậy. Tôi không biết Đại Tá lớn lên trong căn nhà tí hon như vậy. Toàn bộ diện tích của nó nhỏ hơn cả phòng kí túc xá của chúng tôi. Tôi không biết phải nói gì với gã, phải làm gì đế gã bớt xấu hổ.
“Tao xin lỗi nếu làm mày khó chịu,” gã nói. “Tao biết vụ này khá mới lạ.”
“Không phải với mình,” Alaska líu lo.
“Ờ, cậu đâu có sống trong nhà di động,” gã bảo cô ấy. “Nghèo là nghèo.”
“Vậy đi,” Đại Tá đáp.
Alaska quyết định đi giúp cô Dolores làm bữa tối. Cô ấy nói để phụ nữ nấu ăn là phân biệt giới tính, nhưng thà được ăn một món phân biệt giới tính ngon lành còn hơn một món dở tệ do bọn đàn ông chuẩn bị. Nên Đại Tá và tôi ngồi trên cái ghế sofa xếp, chơi điện tử và bàn chuyện trên trường.
“Tao viết xong bài tôn giáo rồi. Nhưng tao phải gõ nó lên máy tính của mày lúc tụi mình trở về. Tao nghĩ tao sẵn sàng thi cuối kì rồi, tốt, vì chúng ta phải chửn-bị-bài-chò." “Mẹ mày không biết trò nói líu à?” tôi nhếch mép. “Nếu tao nói nhanh thì không. Quỷ thần ơi, im đi.” Thức ăn, đậu bắp chiên giòn, bắp nướng trên than, và thịt om mềm đến nỗi tuột khỏi cái nĩa nhựa, khiến tôi tin rằng cô Dolores thậm chí còn là một đầu bếp giỏi hơn Maureen. Món đậu bắp của Culver Creek ít dầu và giòn hơn. Cô Dolores cũng là bà mẹ vui tính nhất tôi từng gặp. Khi Alaska hỏi cô ấy làm nghề gì, cô mỉm cười và nói, “Cô là kĩ sư thực phẩm. Nghĩa là đầu bếp nấu món ăn nhanh ở Waffle House đấy các trẻ.”
“Tiệm Waffle House ngon nhất ở Alabama.” Đại Tá mỉm cười, và rồi tôi nhận ra, gã không hề xấu hổ vì mẹ của mình chút nào. Gã chỉ sợ rằng chúng tôi sẽ cư xử như những đứa trưởng giả hợm hĩnh ở trường nội trú. Tôi luôn cảm thấy thái độ tao-ghét-lũ-nhà-giàu của Đại Tá hơi quá khích đến khi nhìn thấy gã ở cùng mẹ. Gã vẫn là Đại Tá mọi khi, nhưng trong một hoàn cảnh khác. Nó làm tôi mong rằng, ngày nào đó tôi cũng có thể gặp được gia đình Alaska.
Cô Dolores khăng khăng bắt tôi và Alaska ngủ chung giường, và cô ấy ngủ trên ghế sofa xếp trong khi Đại Tá ở ngoài lều. Tôi lo gã sẽ lạnh, nhưng thú thực là tôi sẽ không bỏ qua vụ ngủ chung với với Alaska. Chúng tôi có mền riêng, và chưa bao giờ có ít hơn ba lớp vải giữa chúng tôi, nhưng những khả năng khiến tôi thức gần nửa đêm.
Bốn mươi sáu ngày trướcBỮA LỄ TẠ ƠN NGON NHẤT tôi từng có. Không xốt việt quất dở ẹc. Chỉ những miếng thịt trắng thấm mềm, bắp, đậu que được hầm vừa đủ trong mỡ hun khói để khiến chúng có vẻ không tốt cho bạn, bánh quy kèm xốt nước thịt và bánh bí ngô tráng miệng, cùng một ly rượu đỏ cho mỗi người. “Cô biết,” cô Dolores nói, “là chúng ta phải uống rượu trắng với gà tây, giờ cô không biết các trẻ thế nào–nhưng cô đoán là cô cóc quan tâm.”
Chúng tôi bật cười sảng khoái rồi uống rượu, và sau bữa ăn, chúng tôi đều liệt kê ra những điều mình biết ơn. Gia đình tôi luôn làm thế trước bữa ăn, và chúng tôi đều nói cho thật lẹ để được ăn. Nên bốn người chúng tôi ngồi quanh bàn và chia sẻ phúc lành. Tôi biết ơn vì những món ăn ngon và những người bạn tốt, vì có một mái nhà vào dịp Lễ Tạ ơn. “Một mái nhà xe, chí ít là vậy,” cô Dolores đùa.
“Được, đến lượt mình,” Alaska nói. “Mình biết ơn vì vừa mới có được Lễ Tạ ơn tuyệt vời nhất trong suốt một thập kỷ.”
Đoạn Đại Tá bảo, “Con chỉ biết ơn vì có mẹ thôi, mẹ ạ,” và cô Dolores cười lớn và nói, “Ẩu xị quá, nhóc.”
Tôi không biết đích xác câu ấy nghĩa là gì, nhưng dường như ý nó là, “không thỏa đáng,” vì sau đó Đại Tá bổ sung danh sách để thừa nhận rằng gã biết ơn vì là “con người thông minh nhất trong cái khu nhà di động này,” và cô Dolores lại cười rồi nói, “Tốt đấy.”
Và cô Dolores? Cô ấy biết ơn vì điện thoại của cô đã hoạt động trở lại, vì con trai cô đã về nhà, vì Alaska đã giúp cô nấu ăn và vì tôi đã giúp cô bớt lo về Đại Tá, vì công việc của cô ổn định và đồng nghiệp của cô tử tế, vì cô có một chỗ để ngủ và một đứa con trai luôn yêu thương cô.
Tôi ngồi ở ghế sau của chiếc xe hai khoang trên đường về nhà và đấy là cách tôi nghĩ về nó: nhà–rồi thiếp đi giữa khúc ru buồn tẻ trên xa lộ.
Bốn mươi bốn ngày trước“VIỆC KINH DOANH RƯỢU TẠI COOSA hoàn toàn dựa trên nền tảng bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên và chất Cồn cho người lớn.” Alaska nhìn tôi với vẻ bối rối trong lúc lái xe, đặc biệt là vì chúng tôi đang vi vu trên một đường cao tốc nhỏ hẹp, dốc đứng ở phía nam trường học, hướng về Tiệm Rượu Coosa đã nói trước đó. Hôm nay là thứ Bảy, ngày cuối cùng của kì nghỉ. “Một điều tốt, nếu tất cả những gì cậu cần là thuốc lá. Nhưng chúng ta cần rượu. Và họ xét thẻ khi mua rượu, và thẻ căn cước của mình không xài được. Nhưng mình sẽ tán tỉnh nhân viên để qua cửa.” Cô ấy đột ngột rẽ trái không xi–nhan, chạy vào một con đường dốc như vách đá dẫn xuống ngọn đồi có đồng lúa hai bên, và cô ấy siết chặt vô-lăng trong lúc tăng tốc, rồi đợi đến phút cuối cùng mới đạp thắng, ngay trước khi chúng tôi chạm tới chân đồi. Ở đó là một trạm xăng gỗ dán nay đã không còn bán xăng với biển hiệu bạc màu gắn trên nóc: TIỆM RƯỢU COOSA: CHÚNG TÔI ĐÁP ỨNG NHU CẦU TINH THẦN CỦA BẠN.
Alaska đi vào một mình và ra khỏi cửa năm phút sau với hai túi giấy nặng trịch hàng buôn lậu: ba hộp thuốc lá, năm chai rượu, và một chai vodka 750 ml cho Đại Tá. Trên đường về, Alaska hỏi tôi, “Cậu thích trò cốc-cốc không?” “Trò cốc-cốc?” tôi hỏi. “Ý cậu là, ‘cốc-cốc...’”
“Ai đó?” Alaska đáp.
“Ai.”
“Ai Ai?”
“Cậu là gì vậy, cú à?” Tôi kết câu. Quê quá.
“Giỏi lắm,” Alaska nói. “Mình có một câu đây. Cậu bắt đầu đi.”
“Được. Cốc-cốc.”
“Ai đó?” Alaska hỏi.
Tôi ngơ ngác nhìn cô ấy. Chừng một phút sau, tôi hiểu ra, và bật cười.
“Mẹ mình chỉ mình trò ấy năm mình lên sáu. Giờ vẫn buồn cười.”
Nên tôi không thấy ngạc nhiên mấy khi Alaska nức nở đi đến phòng 43 trong lúc tôi đang hoàn thành bài luận văn môn Quốc Ngữ. Cô ấy ngồi xuống ghế sofa, hơi thở của cô vừa có tiếng rên rỉ vừa có tiếng la hét.
“Mình xin lỗi,” cô ấy nói, thổn thức. Nước mũi đang chảy xuống cằm cô.
“Chuyện gì thế?” Tôi hỏi. Cô ấy nhón lấy một tờ khăn giấy Kleenex từ BÀN CÀ PHÊ và lau mặt.
“Mình không...” Alaska bắt đầu, rồi tiếng nấc ập đến như sóng thần, cô ấy khóc to và giống con nít đến mức làm tôi sợ, và tôi đứng dậy, ngồi xuống cạnh cô ấy, và vòng tay ôm lấy cô. Alaska quay đi, vùi đầu vào miếng mút trên ghế sofa. “Mình không hiểu sao mình lại phá hỏng mọi chuyện,” cô ấy bảo.
“Hả, như vụ với Marya? Có lẽ cậu chỉ sợ thôi.”
“Sợ không phải là cái cớ hay!” Alaska hét vào ghế. “Sợ là cái cớ mọi người vẫn luôn dùng!” Tôi không biết “mọi người” là ai, hoặc “luôn dùng” là khi nào, và dù tôi muốn thông cảm cho cơn mơ hồ của cô ấy, thì vẻ giả tạo này bắt đầu trở nên đáng ghét hơn.
“Tại sao giờ cậu mới thấy buồn về chuyện đó?”
“Không chỉ về chuyện đó, về tất cả. Nhưng mình đã kể với Đại Tá ở trong xe.” Cô ấy sụt sịt nhưng có vẻ đã thôi nức nở. “Lúc cậu đang ngủ ở ghế sau. Và Đại Tá nói cậu ấy sẽ không bao giờ rời mắt khỏi mình trong khi bày trò nữa. Rằng cậu ấy không tin mình ở được một mình. Và mình không trách cậu ấy. Mình thậm chí còn không tin nổi bản thân.”
“Phải can đảm mới có thể nói với cậu ấy,” tôi nói.
"Mình can đảm, chỉ là không đúng lúc. Cậu có thể, ừm,” rồi Alaska ngồi bật dậy và nhích về phía tôi, và tôi giơ tay lên trong lúc cô ấy ngả vào lồng ngực gầy nhom của tôi và khóc. Tôi thấy tội nghiệp cô ấy, nhưng do cô ấy tự chuốc lấy. Cô ấy đâu cần mách lẻo.
“Mình không muốn làm cậu buồn, nhưng có lẽ cậu cần kể cho chúng mình lí do cậu mách lẻo Marya. Cậu sợ về nhà hay sao?”
Alaska đẩy tôi ra và ném cho tôi Anh Nhìn Kết Tội mà Đại Bàng chắc sẽ tự hào, và tôi có cảm giác cô ấy ghét tôi hoặc ghét câu hỏi của tôi hoặc cả hai, đoạn cô ấy nhìn sang chỗ khác, ra ngoài cửa sổ, hướng về phía sân bóng, và nói, “Mình không có nhà.”
“À, cậu có một gia đình,” tôi chỉnh lại. Alaska vừa kể cho tôi nghe về mẹ của cô ấy sáng nay. Làm sao một cô gái mới nói ra câu đùa ba tiếng trước lại trở thành một mớ sướt mướt thế này?
Vẫn nhìn tôi chằm chằm, Alaska nói. “Mình đã cố để không sợ, cậu biết đấy. Nhưng mình vẫn phá hỏng mọi thứ. Mình vẫn làm sai.”
“Được,” tôi bảo cô ấy. “Không sao đâu.” Tôi còn không biết cô ấy đang nói gì nữa. Những khái niệm mơ hồ nối tiếp nhau.
“Cậu không biết cậu yêu ai hả, Bé Bự? Cậu yêu đứa con gái làm cậu cười và cho cậu xem phim khiêu dâm và uống rượu với cậu. Cậu không yêu con quỷ cái mất trí, ẩm ương.” Và nói thật, có gì đó đúng như vậy.
giáng sinhCHÚNG TÔI ĐỀU VỀ NHÀ vào kì nghỉ Giáng Sinh, kể cả người từng ngụ ý là mình vô gia cư như Alaska.
Tôi được tặng một cái đồng hồ xịn và ví tiền mới. “Quà cho người lớn,” cha gọi chúng thế. Nhưng hầu như tôi chỉ học bài trong suốt hai tuần đó. Giáng Sinh không hẳn là một kì nghỉ, trước sự thật rằng nó là cơ hội cuối cùng để chúng tôi ôn tập cho kì thi, vốn sẽ bắt đầu vào ngày chúng tôi trở lại. Tôi tập trung vào môn toán học dự bị và sinh học, hai môn đe dọa nghiêm trọng đến mục tiêu đạt điểm trung bình 3.4 của tôi. Tôi ước tôi có thể nói mình thích học, nhưng đại khái tôi chỉ muốn được vào một đại học danh giá.
Nên là, tôi dành phần lớn thời gian ở nhà để học toán và ôn từ vựng tiếng Pháp, cũng như tôi đã làm trước khi vào Culver Creek. Thật sự, ở nhà hai tuần chính là toàn bộ cuộc đời tôi trước khi vào Culver Creek, ngoại trừ việc cha mẹ nhạy cảm hơn. Họ nhắc chuyến đi London rất ít. Tôi nghĩ họ thấy tội lỗi. Đấy là điều thú vị ở các bậc phụ huynh. Mặc dù tôi đã ở lại Culver Creek hồi Lễ Tạ ơn vì tôi muốn thế, cha mẹ tôi vẫn thấy tội lỗi. Thật tốt khi bạn có những người thấy tội lỗi vì bạn, dù tôi mong sống mà không nhìn mẹ khóc trong mỗi buổi ăn gia đình hơn. Bà sẽ nói, “Mẹ là một người mẹ tồi,” và tôi lẫn cha sẽ phủ nhận ngay lập tức, “Không, không phải.”
Kể cả cha tôi, người rất tình cảm nhưng không, ờ, đa cảm, cũng thi thoảng, khi chúng tôi đang xem Gia đình Simpson, nói rằng ông nhớ tôi. Tôi bảo tôi cũng nhớ ông, và đúng thế. Hơi hơi. Cha mẹ tôi đúng là người tốt. Chúng tôi đi xem phim và chơi bài, và tôi kể họ nghe những câu chuyện chọn lọc để không làm họ hoảng hốt, và họ lắng nghe. Cha tôi, làm nghề buôn bán bất động sản nhưng đọc sách nhiều hơn bất cứ ai tôi biết, bàn với tôi về những cuốn sách tôi đọc trong giờ Quốc Ngữ, và mẹ tôi bắt tôi ngồi trong bếp với bà và học cách nấu những món ăn đơn giản mì ống, trứng khuấy, vì giờ tôi đã “sống một mình.” Không cần biết đến việc tôi không có, hoặc muốn có, một căn bếp. Không cần biết đến việc tôi không thích trứng hoặc mì ống và phô mai. Thể nào đến năm mới tôi cũng biết nấu.
Lúc tôi rời nhà, cả hai đều khóc, mẹ tôi giải thích đây chỉ là hội chứng chim rời tổ, rằng cả hai đều rất tự hào về tôi, rằng họ yêu tôi rất nhiều. Điều đó làm cổ họng tôi nghẹn lại, và tôi không quan tâm đến Lễ Tạ ơn nữa. Tôi đã có một gia đình rồi.
tám ngày trướcALASKA BƯỚC VÀO ngay ngày đầu tiên trở lại từ kì nghỉ Giáng Sinh và ngồi cạnh Đại Tá trên sofa. Đại Tá đang cày chăm chỉ, phá kỉ lục tốc độ trên trò Playstation.
Cô ấy không nói là nhớ chúng tôi, hoặc mừng vì gặp lại chúng tôi. Cô chỉ nhìn cái ghế và nói, “Cậu thật sự cần một cái ghế mới.”
“Đừng kêu réo gì lúc tôi đang đua xe,” Đại Tá đáp. “Lạy Chúa. Jeff Gordon phải chịu đựng cái quỷ này hả?”
“Mình có ý này,” cô ấy bảo. “Tuyệt lắm. Chúng ta cần một trò khai mào trùng với đòn tấn công Kevin và lũ tay sai của hắn,”cô nói.
Tôi đang ngồi trên giường, đọc sách chuẩn bị cho bài thi lịch sử Mỹ ngày mai.
“Trò khai mào?” Tôi hỏi.
“Một trò được thiết kế để dụ ban giám hiệu rơi vào trạng thái an toàn giả,” Đại Tá trả lời, khó chịu vì bị phân tâm. “Sau trò khai mào, Đại Bàng sẽ tưởng khối mười một đã xong việc và không trở tay kịp khi nó tới thật.” Hằng năm, khối mười một và mười hai sẽ bày trò vào một thời điểm trong năm, thường là mấy trò khá quê, như đốt pháo ống trong sân kí túc lúc năm giờ sáng Chủ Nhật.
“Lúc nào cũng có trò khai mào à?” Tôi hỏi.
“Không, đồ ngu,” Đại Tá đáp. “Nếu lúc nào cũng có trò khai mào, thì Đại Bàng sẽ chờ hai trò quậy. Lần cuối cùng trò khai mào được thực hiện là–ừm. Ồ, phải: 1987. Trò khai mào khi đó là cắt điện cả trường, và rồi trò quậy thật sự là bỏ năm trăm con dế vào ống dẫn nhiệt trong lớp học. Thi thoảng mày vẫn có thể nghe chúng kêu.”
“Trò học vẹt của mày công nhận, trời đất, dữ dội quá,” tôi tán thưởng.
“Hai người như một cặp vợ chồng lâu năm ấy.” Alaska mỉm cười. “Rùng cả mình.”
“Cậu chẳng biết đến nửa phần sự thật,” Đại Tá nói. “Cậu phải thấy thằng nhóc này cố chui vào giường tôi mỗi đêm kìa.”
“Ê!”
“Quay lại chủ đề nào!” Alaska bảo. “Trò khai mào. Cuối tuần này, vì có trăng non. Chúng ta sẽ ở chuồng bò. Cậu, mình, Đại Tá, Takumi, và một món quà đặc biệt cho cậu, Bé Bự, Lara Buterskaya.”
“Em Lara Buterskaya mình đã nôn lên người?”
“Nó chỉ xấu hổ thôi. Nó vẫn thích cậu.” Alaska bật cười. “Nôn ọe làm cậu trông yếu đuối.”
“Ngực rất nhọn,” Đại Tá nói. “Cậu đem Takumi đến cho tôi à?”
“Cậu cần phải độc thân một thời gian.”
“Cũng đúng,” Đại Tá gật gù.
“Cứ chơi game thêm vài tháng đi, ’ cô ấy bảo.
“Sự kết hợp tay, mắt ấy sẽ có ích khi cậu đến cấp thứ ba.
“Quỷ thần ơi, lâu rồi chưa nghe ai nhắc tới mấy cấp độ ấy, tôi nghĩ mình quên cấp thứ ba rồi,” Đại Tá đáp lại.
“Tôi sẽ đảo mắt với cậu, nhưng tôi không thể rời mắt khỏi màn hình.”
“Hôn kiểu Pháp, Sờ Soạng, Dùng Ngón Tay, Làm Tình. Nghe như cậu học nhảy cóc lớp ba ấy,” Alaska nói.
“Tôi học nhảy cóc lớp ba thật,” Đại Tá trả lời.
“Thế,” tôi chen ngang, “trò khai mào của chúng ta là gì?”
“Đại Tá và mình sẽ nghĩ cách. Cậu không cần dính vào rắc rối, chưa đâu.”
“Ồ. Được. Ưm, vậy mình đi hút thuốc đây.”
Tôi rời phòng. Đây không phải lần đầu tiên Alaska gạt tôi khỏi trò vui, dĩ nhiên, nhưng sau khi trải qua rất nhiều việc cùng nhau hồi Lễ Tạ ơn, tôi thấy thật nực cười khi cô ấy lên kế hoạch bày trò với Đại Tá mà không có tôi. Áo thun của ai ướt đẫm nước mắt cô ấy? Của tôi. Ai đã nghe cô ấy đọc Vonnegut? Tôi. Ai là người nghe câu đùa cốc– cốc tệ nhất thế giới? Tôi. Tôi đi đến quầy tạp hóa Sunny Konvenience phía bên kia trường và hút thuốc. Chuyện này chưa bao giờ diễn ra với tôi ở Florida, cái kiểu u-buồn-rất-cấp-ba về chuyện ai thích ai hơn này, và tôi căm ghét bản thân vì đã để nó diễn ra ngay bây giờ. Mày không cần phải quan tâm cô ấy, tôi tự nhủ. Thây kệ cô ta.
Bốn ngày trướcĐẠI TÁ KHÔNG CHỊU HÉ NỬA LỜI về trò khai mào, ngoại trừ việc nó được gọi là Đêm Chuồng Bò, và đấy là khi tôi thu xếp quần áo, tôi phải chuẩn bị đồ cho hai ngày.
Thứ Hai, thứ Ba và thứ Tư là cực hình. Đại Tá luôn ở cùng Alaska, và tôi chưa bao giờ được mời. Nên tôi dành thật nhiều thời gian để ôn thi cuối kì, điều này đã khiến điểm trung bình của tôi cải thiện đáng kể. Và tôi cuối cùng cũng viết xong bài luận văn tôn giáo.
Đáp án cho câu hỏi của tôi vừa đủ thẳng thắn, thật sự. Hầu hết tín đồ Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo tin vào thiên đàng và địa ngục, dù có rất nhiều bất đồng trong cả hai tôn giáo về việc, chính xác là, cái gì sẽ đưa bạn đến một trong hai nơi đó sau khi chết. Phật Giáo thì phức tạp hơn–vì học thuyết nhà Phật về vô ngã, nghĩa là con người không có linh hồn bất biến. Thay vào đó, họ là một khối năng lượng, và khối năng lượng ấy chỉ là phù du, chuyển hóa từ cơ thể này sang cơ thể khác, liên tục luân hồi cho đến khi được khai sáng.
Tôi chưa bao giờ thích viết kết bài cho luận văn, bạn chỉ lặp lại những gì bạn đã nói với mấy cụm từ như Tóm lại, và Kết luận. Tôi không làm thế, thay vào đó tôi nói về lí do vì sao tôi nghĩ đây là một câu hỏi quan trọng. Con người, tôi nghĩ, muốn sự an toàn. Họ không chịu được ý nghĩ cái chết chỉ là một hố đen hư vô, không thể chịu được ý nghĩ những người yêu thương không còn tồn tại, và thậm chí không thể tưởng tượng được bản thân không còn tồn tại. Cuối cùng tôi quyết định rằng con người tin vào sự sống sau cái chết vì họ không thể chịu nổi điều ngược lại.
ba ngày trướcTHỨ SÁU, sau bài thi toán học dự bị thành công bất ngờ đã đưa kỳ kiểm tra đầu tiên của tôi ở Culver Creek gần hơn với kết thúc, tôi xếp quần áo (“Nghĩ kiểu thời thượng New York ấy,” Đại Tá khuyên. “Tông đen. Nhạy cảm. Thoải mái, nhưng ấm áp.”) và túi ngủ của tôi vào ba-lô, và chúng tôi đón Takumi ở phòng cậu ta rồi đi bộ đến nhà Đại Bàng. Đại Bàng đang mặc bộ trang phục duy nhất của ổng và tôi tự hỏi liệu có phải ổng sở hữu ba mươi cái áo sơ-mi trắng cài nút và ba mươi cái cà-vạt đen giống nhau trong tủ không. Tôi tưởng tượng ổng thức dậy vào mỗi sáng, nhìn tủ đồ chăm chú, và suy nghĩ. ừmmm... ừmmm... áo sơ-mi trắng và cà-vạt đen thế nào nhỉ? Đàn ông cần cưới vợ là đây.
“Em sẽ đưa Miles và Takumi về nhà ở New Hope vào cuối tuần,” Đại Tá bảo ổng.
“Miles thích New Hope đến thế à?” Đại Bàng hỏi tôi.
“Ô hô! Sắp tới sẽ có vũ hội ở khu nhà xe!” Đại Tá bảo. Gã có thể nói giọng miền Nam khi gã muốn, dù cũng như bao người ở Culver Creek, gã không hay làm thế.
“Chờ tôi gọi mẹ trò đã,” Đại Bàng nói với Đại Tá. Takumi nhìn tôi với vẻ hốt hoảng khó giấu, và tôi cảm giác bữa trưa–gà chiên–đang nhộn nhạo trong bụng. Nhưng Đại Tá chỉ mỉm cười. “Dĩ nhiên.”
“Chip và Miles và Takumi sẽ ở nhà bà?... Vâng, thưa bà.... Ha!... Được. Chào bà.” Đại Bàng ngước lên nhìn Đại Tá. “Mẹ của trò là một người phụ nữ tuyệt vời.” Đại Bàng cười.
“Chuẩn rồi ạ. Đai Tá nhăn nhở. “Hẹn gặp thầy Chủ Nhật.”
Trong lúc chúng tôi đi bộ đến bãi đỗ xe của phòng thể dục, Đại Tá nói, “Tao gọi mẹ hôm qua và nhờ bà nói dối giúp tao, và bà thậm chí còn không hỏi tại sao. Bà chỉ nói, ‘mẹ tin con, con trai,’ và dĩ nhiên là thế rồi.” Một khi cách xa nhà của Đại Bàng, chúng tôi quẹo phải gấp vào rừng cây.
Chúng tôi đi bộ trên con đường đất trên cầu và trở về chuồng bò trong trường, một kiến trúc xiêu vẹo dột nát trông giống lều chứa củi bị bỏ hoang hơn chuồng bò. Họ vẫn trữ cỏ khô trong đó, dù tôi không biết để làm gì. Đâu phải chúng tôi có giờ học cưỡi ngựa hay đại loại thế. Đại Tá, Takumi và tôi. Tôi trước, xếp túi ngủ lên trên những kiện rơm mềm nhất. 6:30 tối.
Alaska đến ngay sau đó, cô ấy bảo Đại Bàng là mình sẽ tới nghỉ cuối tuần với Jake. Đại Bàng không buồn kiểm tra thực hư, vì mỗi tháng Alaska sẽ dành ít nhất một cuối tuần ở đó, và ổng biết bố mẹ cô ấy không bao giờ quan tâm. Nửa tiếng sau Lara xuất hiện. Em bảo Đại Bàng là em sẽ lái xe tới Atlanta để gặp một người bạn cũ từ Romania. Đại Bàng gọi bố mẹ của Lara để cho họ biết rằng em sẽ nghỉ cuối tuần ở ngoài trường, và họ không phản đối.
“Họ tin em.” Em ấy mỉm cười.
“Thi thoảng giọng em nghe không lơ lớ nữa,” tôi nói, câu này khá ngu, nhưng vẫn tốt hơn chuyện nôn lên người em nhiều.
“Chỉ mỗi âm i nhẹ thôi.”
“Tiếng Nga không có i nhẹ à?” tôi hỏi.
“Tiếng Romania,” em chỉnh lại. Hóa ra Romania cũng là một thứ tiếng. Ai mà biết? Chỉ số nhạy cảm về văn hóa của tôi sẽ tăng vọt nếu tôi sắp sửa nằm chung túi ngủ với Lara.
Mọi người ngồi trên túi ngủ, Alaska đang hút thuốc với vẻ bất cần rõ rệt trước kết cấu rất dễ bắt lửa chung quanh, đoạn Đại Tá lôi ra một tờ giấy máy tính và đọc nó.
“Mục tiêu của lễ hội tối nay là để chứng minh một lần cho mãi mãi, rằng chúng ta giỏi bày trò như lũ Chiến Binh Ngày Thường giỏi thất bại. Nhưng chúng ta cũng có cơ hội để làm cuộc đời của Đại Bàng trở nên khổ sở, một thú vui luôn được hoan nghênh. Thế nên,” gã nói, dừng lại như chờ một hồi trống, “đêm nay chúng ta sẽ chiến đấu trên mặt trận ba tiền tuyến:
“Tiền tuyến thứ nhất: Trò khai mào: chúng ta sẽ, sắp tới đây, đốt lửa dưới mông Đại Bàng.
“Tiền tuyến thứ hai: Cách Mạng Trọc Đầu: Khi Lara đơn phương thực hiện một nhiệm vụ trả thù tinh tế và độc ác đến mức nó chỉ có thể là đứa con tinh thần của, ờ, tao.” “Ê!” Alaska cắt ngang. “Nó là ý tưởng của mình.” “Được, được rồi. Là ý tưởng của Alaska.” Gã bật cười.
“Và cuối cùng, Tiền tuyến thứ ba: Báo Cáo Tiến Trình: Chúng ta sẽ thâm nhập vào mạng lưới máy tính của trường và dùng kho dữ liệu điểm của họ gửi thư đến nhà của bọn Kevin để báo rằng tụi nó sắp rớt mấy môn.’’
“Chúng ta chắc chắn sẽ bị đuổi học,” tôi nói.
“Tao mong mày không đem thằng bạn châu Á theo cùng vì nghĩ rằng nó là một thiên tài tin học. Vì tao không phải đâu,” Takumi nói.
“Chúng ta sẽ không bị đuổi học và tao là thiên tài tin học. Tụi mày là chân chạy việc và đánh lạc hướng. Chúng ta sẽ không bị đuổi học vì không có tội nào đáng bị đuổi học ở đây–à, trừ năm chai rượu Stravvberry Hill trong ba-lô của Alaska, và chúng sẽ được giấu kĩ. Chúng ta chỉ, mày biết đấy, quậy tung một trận thôi.”
Kế hoạch được vạch ra, và không có chỗ cho sai sót. Đại Tá dựa dẫm quá mức vào sự đồng bộ hoàn hảo, đến mức nếu một trong chúng tôi làm sai dù chỉ chút xíu thì toàn bộ nỗ lực sẽ đi tong.
Gã đã in sẵn hướng dẫn riêng cho từng đứa, bao gồm thời điểm chính xác tới từng giây. Đồng hồ của chúng tôi được đồng bộ, trang phục toàn màu đen, ba-lô đeo trên người, hơi thở hiển hiện trong khí lạnh, tâm trí chúng tôi đầy ắp từng phút chi tiết của kế hoạch, tim đập loạn xạ, chúng tôi cùng nhau rời khỏi chuồng bò một khi trời đã tối mịt, lúc ấy tầm bảy giờ. Năm đứa chúng tôi hiên ngang đi thành hàng, tôi chưa bao giờ thấy ngầu hơn. Cơ Hội lớn đang ở trước mắt, và chúng tôi bất bại. Kế hoạch có thể sai sót, nhưng chúng tôi thì không.
Sau năm phút, chúng tôi chia nhau đến các địa điểm. Tôi kết hợp với Takumi. Chúng tôi là nhóm đánh lạc hướng. “Tụi mình là đội Hải Quân chết tiệt,” cậu ta nói. “Chiến đầu tiên. Chết đầu tiên,” tôi lo lắng đồng tình. “Chuẩn luôn.”
Cậu ta dừng lại và mở ba-lô.
“Không phải ở đây,” tôi cản. “Bọn mình phải tới nhà Đại Bàng.”
“Tao biết. Tao biết. Chỉ…chờ chút.” Cậu ta lôi ra một dải băng buộc đầu dày cộm. Dải băng màu nâu, với một cái đầu cáo nhồi bông ở phía trước. Cậu ta đội nó lên. Tôi bật cười. “Cái quái gì thế?”
“Nón cáo của tao.”
“Nón cáo của mày?”
“Phải, Bé Bự. Nón cáo của tao.”
“Sao mày lại đội cái nón cáo của mày?” Tôi hỏi.
“Vì không ai có thể bắt được con quỷ cáo.”
Hai phút sau, chúng tôi đã ngồi xổm sau hàng cây cách cửa sau của Đại Bàng mười lăm mét. Tim tôi đập mạnh như tiếng trống techno.
“Ba mươi giây,” Takumi thì thầm, và tôi cảm thấy nỗi hoang mang rùng rợn như đã từng vào đêm đầu tiên với Alaska, khi cô ấy nắm lấy tay tôi và thì thầm chạy đi chạy đi chạy đi chạy đi chạy đi. Nhưng tôi đứng yên.
Tôi nghĩ: Mình chưa đủ gần.
Tôi nghĩ: Ổng sẽ không nghe thấy.
Tôi nghĩ: Ổng sẽ nghe thấy và sẽ chạy ra liền và chúng tôi sẽ không có cơ hội nào nữa.
Tôi nghĩ: Hai mươi giây. Tôi đang thở gấp.
“Nè, Bé Bự,” Takumi thì thầm, “mày làm được mà bồ tèo. Chỉ chạy thôi.”
“Phải.” Chỉ chạy thôi. Đầu gối mình rất tốt. Phổi mình rất ổn. Chỉ chạy thôi.
“Năm,” cậu ta đếm. “Bốn. Ba. Hai. Một. Đốt đi. Đốt đi. Đốt đi.”
Pháo hoa bừng lên với một tiếng xèo, nó nhắc tôi nhớ đến ngày Quốc Khánh mỗi năm với gia đình. Chúng tôi đứng yên trong một phần triệu giây, nhìn chằm chằm ngòi lửa, bảo đảm là nó đang cháy. Và giờ, tôi nghĩ. Giờ. Chạy đi chạy đi chạy đi chạy đi chạy đi. Nhưng cơ thể tôi không cử động đến khi nghe Takumi khẽ-hét-lên, “Đi mau đi mau đi mau đi chết tiệt mau.”
Và chúng tôi bỏ chạy.
Ba giây sau, một tràng lốp bốp nổ ra. Nghe chúng, với tôi, giống như tiếng súng tự động trong trò Decapitation, ngoại trừ việc chúng lớn hơn. Chúng tôi đã chạy xa cỡ hai mươi bước rồi, và tôi tưởng màng nhĩ của mình sắp thúng.
Tôi nghĩ: Chà, chắc chắn ổng sẽ nghe thấy.
Chúng tôi băng qua sân bóng và chạy vào rừng cây, lao vút lên đồi với định hướng mơ màng. Trong bóng tối, những nhành cây gãy và những tảng đá phủ rêu xuất hiện vào những lúc không ngờ nhất, và tôi trượt chân và té ngã liên tiếp và lo rằng Đại Bàng sẽ bắt kịp, nhưng tôi cứ gượng dậy và chạy kế Takumi, xa khỏi dãy phòng học và kí túc xá. Chúng tôi chạy như dân thầu cần sa. Tôi chạy như một con báo đốm. À thì, như một con báo đốm hút rất nhiều thuốc. Và rồi, sau đúng một phút chạy hộc tốc, Takumi dừng lại và mở bung ba-lô.
Đến lượt tôi đếm ngược. Tôi nhìn chằm chằm đồng hồ. Sợ chết khiếp. Bây giờ chắc chắn ổng đã ra ngoài. Chắc chắn ổng đang chạy. Không biết ổng chạy nhanh không. Ông già khú đế, nhưng ổng sẽ tức điên.
“Năm bốn ba hai một,” và tiếng xèo. Lúc đó chúng tôi không dừng lại, chỉ chạy, vẫn hướng về phía tây. Thở dốc. Tôi tự hỏi mình có thể tiếp tục suốt ba mươi phút không. Pháo hoa phát nổ.
Tiêng lốp bốp ngưng bặt, và một giọng nói gào to, “DỪNG LẠI NGAY!” Nhưng chúng tôi không dùng lại. Dừng lại không có trong kế hoạch.
“Tao là con quỷ cáo,” Takumi thì thầm, với cậu ta và với tôi. “Không ai bắt được con cáo.”
Một phút sau, tôi ngồi xuống đất. Takumi đếm ngược. Ngòi lửa cháy bừng. Chúng tôi lại chạy.
Nhưng nó bị tịt. Chúng tôi đã lường trước một cây pháo xịt, còn đem theo hẳn một dây pháo dự bị. Nhưng thêm một cây nữa thì Đại Tá và Alaska sẽ mất bớt một phút. Takumi quì xuống đất, châm ngòi, và chạy. Tiếng nổ bắt đầu. Pháo hoa bùmbùmbùm cùng nhịp với tiếng tim tôi.
Khi pháo hoa kết thúc, tôi nghe, “DỪNG LẠI HOẶC TÔI SẼ GỌI CẢNH SÁT!” và dù giọng nói ở rất xa, tôi có thể cảm thấy Ánh Nhìn Kết Tội của ổng chiếu xuống tôi.
“Heo không thể ngăn cáo; tao rất nhanh,” Takumi nói với chính mình. “Tao làm thơ trong khi chạy, thiệt quá lanh.”
Đại Tá đã cảnh báo chúng tôi về vụ gọi cảnh sát, bảo chúng tôi đừng lo. Đại Bàng không thích đưa cảnh sát vào trường. Danh tiếng xấu. Nên chúng tôi bỏ chạy. Trên và dưới và qua mọi thể loại cây cối và bụi rậm và cành cây. Chúng tôi té ngã. Chúng tôi đứng dậy. Chúng tôi bỏ chạy. Nếu ổng không thể lần theo chúng tôi dựa vào pháo hoa, ổng chắc chắn có thể lần theo tiếng chúng tôi lẩm bẩm chết tiệt khi trượt chân vì gỗ mục và đâm đầu vào những bụi thạch nam.
Một phút. Tôi quì xuống, đốt pháo, chạy. Bùm.
Rồi chúng tôi rẽ sang hướng bắc, nghĩ rằng chúng tôi đã bỏ xa cái hồ. Đây là chìa khóa của kế hoạch, chúng tôi càng chạy xa trong khuôn viên bao nhiêu, Đại Bàng sẽ đuổi theo chúng tôi xa bấy nhiêu, ổng đuổi theo chúng tôi xa bao nhiêu, ổng sẽ ở xa phòng học bấy nhiêu, đấy là nơi Đại Tá và Alaska đang thực hiện phép màu. Và chúng tôi định sẽ vòng ngược lại gần lớp học và quẹo sang phía tây dọc con lạch đến khi tới cây cầu bắc trên Trũng Hút Thuốc, nơi nối liền đuờng lớn và đi bộ trở lại chuồng bò, thắng lợi vẻ vang.
Nhưng ngặt một nỗi: Chúng tôi dò đường hơi sai một tẹo. Chúng tôi không băng qua cái hồ; thay vào đó chúng tôi đang nhìn chằm chằm vào một cánh đồng rồi mới tới cái hồ. Quá gần dãy phòng học nên chẳng thể chạy đi đâu khác ngoài men theo bờ hồ, tôi nhìn Takumi, đang chạy ngay sau tôi, và cậu ta chỉ nói, “Thả thêm một cây đi.”
Nên tôi khuỵu xuống, đốt pháo, và chúng tôi bỏ chạy. Giờ chúng tôi đang chạy qua một bãi đất trống, và nếu Đại Bàng đang đuổi ở phía sau, ổng có thể thấy chúng tôi. Chúng tôi chạy tới phần phía nam của cái hồ và bắt đầu chạy dọc bờ. Cái hồ không lớn lắm-có lẽ chừng một phần tư dặm, nên chúng tôi không phải chạy lâu trước khi nhìn thấy nó.
Con thiên nga.
Nó bơi về phía chúng tôi như bị quỷ nhập. Cánh nó đập điên cuồng, và rồi nó đã ở trước mặt chúng tôi ở trên bờ, phát ra tiếng kêu không giống với thứ gì trên đời, như phần tệ nhất của tiếng thở giãy chết và phần tệ nhất của tiếng con nít khóc, và không còn cách nào khác, nến chúng tôi chỉ biết cắm đầu chạy. Tôi đâm sầm vào con thiên nga khi chạy hết tốc lực và thấy nó cắn vào mông mình. Rồi tôi chạy khập khễnh thấy rõ, vì mông tôi nóng như lửa đốt, và tôi nhủ thầm, nước dãi thiên nga có quái gì mà nóng dữ vậy?
Dải pháo thứ hai mươi ba là pháo xịt, làm phí mất của chúng tôi một phút. Vào khoảnh khắc ấy, tôi rất cần một phút. Tôi đang ngắc ngoải. Cảm giác phỏng rộp ở mông bên trái đã chuyển thành cơn đau nhức dữ dội, buốt hơn thập phần mỗi lần chân trái tôi đáp đất, nên tôi chạy như một con linh dương bị thương đang cố trốn khỏi một bầy sư tử. Tốc độ của chúng tôi, không cần nói, đã giảm thiểu đáng kể. Chúng tôi không còn nghe thấy Đại Bàng từ khi băng qua hồ, nhưng tôi không nghĩ ổng đã quay lại. Ổng đang cố dụ chúng tôi mất cảnh giác, nhưng sẽ chẳng ích gì. Đêm nay, chúng tôi bất bại.
Kiệt sức, chúng tôi dừng lại khi còn ba dải pháo và mong rằng mình đã câu giờ đủ cho Đại Tá. Chúng tôi chạy thêm vài phút đến khi tìm thấy gò đất của con lạch. Trời tối om và im lặng đến nỗi dòng chảy tí hon dường như đang thét gào, nhưng tôi vẫn nghe được tiếng thở dốc dồn dập của chúng tôi trong lúc đổ sụp xuống nền đất ẩm ướt và đá cuội bên cạnh con lạch. Chỉ khi dừng lại tôi mới quay sang nhìn Takumi. Mặt và tay của cậu ta đều trầy xước, đầu con cáo giờ che sụp bên tai trái cậu ta. Nhìn qua tay của mình, tôi mới nhận ra máu đang chảy từ những vết cắt sâu hơn. Đã có, giờ tôi mới nhớ, vài bụi thạch nam đầy gai, nhưng tôi không thấy đau.
Takumi nhổ gai khỏi chân. “Con cáo mệt thấy mồ,” cậu ta nói, đoạn bật cười.
“Con thiên nga cắn mông tao,” tôi bảo cậu ta.
“Tao thấy rồi.” Cậu ta mỉm cười. “Có chảy máu không?” tôi đút tay vào quần để kiểm tra. Không có máu, nên tôi hút thuốc ăn mừng.
“Nhiệm vụ hoàn thành,” tôi nói.
“Bé Bự, bạn tao ơi, chúng ta vô đối.”
Chúng tôi không biết mình đang ở đâu, vì con lạch chảy dài quanh khuôn viên, nên chúng tôi lần theo bờ đá chừng mười phút, phát hiện ra mình đi nhanh gấp đôi chạy, và rồi rẽ trái.
“Trái, mày nghĩ thế à?” Takumi hỏi.
“Tao mù đường rồi,” tôi đáp.
“Con cáo chỉ về bên trái. Nên rẽ trái.” Và, đúng thật, con cáo dẫn chúng tôi về ngay chuồng bò.
“Các anh không chao!” Lara nói khi chúng tôi đi tới. “Em lo lắm. Em thấy Đại Bàng ra khõi nhà. Ổng mặc áo ngủ. Nhìn ổng tức điên.”
Tôi nói, “Chà, nếu lúc đó ổng đang điên, thì giờ anh chẳng muốn gặp ổng chút nào.”
“Chao hai anh đi lâu vậy?” em hỏi tôi.
“Bọn anh đi đường vòng,” Takumi nói. “Hơn nữa, Bé Bự đi như một bà già bị bệnh trĩ vì bị thiên nga cắn vào mông. Alaska với Đại Tá đâu?”
“Em không biết,” Lara nói, và rồi chúng tôi nghe tiếng bước chân từ xa, tiếng lẩm bẩm và bẻ cành. Ngay lập tức, Takumi chộp lấy túi ngủ và ba-lô của chúng tôi và giấu chúng sau đống cỏ khô. Ba đứa tôi chạy ra sau chuồng bò đến bãi cỏ cao ngang hông rồi nằm xuống. Ổng lẩn theo tụi mình đến chuồng bò, tôi nghĩ. Tụi mình đã làm hỏng chuyện.
Nhưng rồi tôi nghe tiếng Đại Tá, rõ ràng và bực bội, gã nói, “Vì danh sách nghi phạm sẽ mất bớt hai mươi ba đứa! Sao mày không thể làm theo kế hoạch hả? Lạy Chúa, mọi người đâu rồi?”
Chúng tôi trở lại chuồng bò, hơi lúng túng vì đã quá khích. Đại Tá ngồi xuống một kiện cỏ khô, chống tay lên gối, cúi đầu, tay đặt trên trán. Suy nghĩ.
“À, dù sao thì, bọn ta chưa bị bắt. Được rồi, trước tiên,” gã nói mà không ngẩng đầu lên, “nói với tao là mọi việc đã diễn ra suôn sẻ đi. Lara?”
Em bắt đầu nói. “Vâng. Tốt ạ.”
“Em nói cụ thể hơn được không, làm ơn?”
“Em nàm như tờ giấy anh chỉ. Em ở lại sau nhà của Đại Bàng đến khi thấy ổng đuổi theo Miles và Takumi, và rồi em chạy ra sau kí túc xá. Và rồi em chui qua cữa sỗ vào phòng Keveen. Rồi em đỗ đồ vô gel và dầu xả, và rồi em nàm y chang với phòng của Jeff và Longwell.”
“Đổ?” Tôi hỏi.
“Thuốc nhuộm công nghiệp số năm màu xanh không pha loãng,” Alaska nói. “Mình mua nó bằng tiền bán thuốc lá cho cậu. Đổ nó lên tóc ướt, và nó sẽ không phai trong vài tháng."
“Bọn mình nhuộm tóc xanh cho tụi nó?”
“À, đúng hơn là,” Đại Tá nói, vẫn nhìn xuống đùi, “tụi nó sẽ tự nhuộm tóc xanh. Nhưng chúng ta đã giúp tụi nó một tay. Tao biết mày và Takumi làm tốt, vì tụi tao ở đây và tụi mày ở đây, nên mày đã hoàn thành công việc. Và tin tốt là ba thằng khốn dám chọc phá chúng ta nay đã có sổ liên lạc báo rằng tụi nó sắp rớt ba môn.”
“Ố ồ. Tin xấu là gì ạ?” Lara hỏi.
“Ôi, coi nào,” Alaska nói. “Tin tốt khác là trong lúc Đại tá lo rằng mình đã nghe thấy gì đó rồi chạy vào rừng, chị đã bảo đảm rằng hai mươi đứa Chiến Binh Ngày Thường khác cũng có sổ liên lạc được gửi về. Chị in bảng điểm ra cho tất cả bọn chúng, nhét chúng vô phong bì in trong ngày ở trường, rồi bỏ chúng vào hòm thư.” Cô ấy quay sang Đại Tá. “Cậu đi lâu thật đấy,” cô ấy bảo. “Đại Tá bé nhỏ: rất sợ bị đuổi học.”
Đại Tá đứng dậy, chồm qua người chúng tôi lúc cả bọn đang ngồi. “Đấy không phải tin tốt! Nó không có trong kế hoạch! Nghĩa là có hai mươi ba đứa được Đại Bàng bỏ qua diện tình nghi. Hai mươi ba đứa có thể phát hiện ra chúng ta và mách lẻo!”
“Nếu chuyện đó xảy ra,” Alaska nói một cách cực kì nghiêm túc, “mình sẽ nhận tội.”
“Phải.” Đại Tá thở dài. “Như cậu đã nhận tội cho Paul và Marya. Cậu sẽ nhận rằng cậu đã đi dạo và đốt pháo trong rừng đồng thời thâm nhập vào hệ thống máy tính và in bảng điểm giả ở văn phòng trường? Vì tôi cá Đại Bàng sẽ thích lắm!”
“Thư giãn đi bồ tèo,” Takumi đấu dịu. “Thứ nhất, chúng ta sẽ không bị bắt. Thứ hai, nếu bị, tao sẽ nhận tội cùng Alaska. Mày có nhiều thứ để mất hơn bất kì ai trong bọn.” Đại Tá chỉ gật đầu. Đấy là sự thật không thể chối cãi: Đại Tá sẽ không còn cơ hội giành học bổng vào trường tốt nếu gã bị đuổi học khỏi Creek.
Không gì khích lệ tinh thần Đại Tá hơn chuyện công nhận tài năng của gã, nên tôi hỏi, “Mày thâm nhập vào hệ thống như thế nào vậy?”
“Tao trèo vô cửa sổ văn phòng của Tiến Sĩ Hyde, bật máy ổng lên, và gõ mật khẩu của ổng vào,” gã nói, mỉm cười. “Mày đoán ra à?”
“Không. Hôm thứ Ba tao vô văn phòng ổng và nhờ ổng in giùm tao bản sao danh sách những cuốn sách nên đọc. Rồi tao nhìn ổng gõ mật khẩu: J3ckylnhyd3."
“Chết tiệt,” Takumi nói. “Tao có thể làm thế.”
“Ờ, nhưng mày sẽ không được đội cái nón gợi tình đó,” Đại Tá đáp rồi cười khanh khách. Takumi kéo băng đội đầu xuống và nhét nó vào túi.
“Kevin sẽ điên tiết vì vụ tóc tai,” tôi bảo.
“À thì, mình cũng điên tiết vì thư viện úng nước của mình. Kevin là một con búp bê bằng hơi,” Alaska nói. “Đâm chúng ta, chúng ta chảy máu. Đâm hắn, hắn nổ tung.”
“Phải,” Takumi tán thành. “Nó là thằng cùi bắp. Kiểu, nó đã cố giết mày còn gì.”
“Ừa, tao đoán thế,” tôi thừa nhận.
“Ở đây có nhiều đứa vậy lắm,” Alaska nói tiếp, vẫn tức tối. “Cậu biết không? Đám búp bê bơm hơi lắm tiền.”
Nhưng dù Kevin đúng là đã cố giết tôi các thứ, hắn cũng không đáng để bị ghét bỏ. Ghét mấy đứa ngầu ngầu rất tốn sức, và tôi đã từ bỏ chuyện đó tù rất lâu rồi. Với tôi, trò này chỉ là trả đũa cho một trò trước đó, như Đại Tá đã nói, quậy tung một trận. Nhưng với Alaska, dường như đấy là một thứ khác, một thứ gì đó sâu xa hơn.
Tôi muốn hỏi cô ấy về điều đó, nhưng cô ấy nằm xuống lại phía sau đống cỏ khô, lần nữa hóa vô hình. Alaska đã nói xong, và khi cô ấy nói xong, thế là hết. Chúng tôi không dỗ dành cô ấy suốt hai giờ, đến khi Đại Tá bật nắp một chai rượu. Chúng tôi chuyền cái chai cho nhau đến khi tôi có thể cảm thấy nó trong dạ dày, chua và ấm.
Tôi muốn thích rượu nhiều hơn thực tế (vốn là mong ước trái ngược với cảm xúc của tôi về Alaska). Nhưng đêm đó, chai rượu rất tuyệt, và hơi ấm của nó trong dạ dày lan tràn khắp người tôi. Tôi không thích thấy mình ngu ngốc hoặc mất kiểm soát, như tôi thích cách rượu làm cho mọi thứ (cười, khóc, tiểu tiện trước mặt bạn bè) dễ dàng hơn. Sao chúng tôi lại uống? Với tôi, đấy chỉ là trò vui, đặc biệt là khi đứng trước nguy cơ bị trục xuất. Ưu điểm về hiểm họa trục xuất thường trực ở Culver Creek là việc nó làm tăng cảm hứng cho từng phút giây lén lút. Khuyết điểm, dĩ nhiên, là khả năng bị đuổi học thật sự.