hai ngày trước
SÁNG HÔM SAU TÔI DẬY SỚM, môi khô khốc và hơi thở hiện rõ trong bầu không khí lạnh băng. Takumi đem theo bếp cắm trại trong ba-lô, và Đại Tá đang khom người trước nó, hâm nóng cà phê uống liền. Mặt trời sáng bừng nhưng vẫn không thể chống lại cái lạnh, và tôi ngồi cạnh Đại Tá nhâm nhi cà phê (“Đặc điểm của cà phê uống liền là ngửi mùi rất thơm nhưng uống vào như mật dạ dày,” Đại Tá nói), và rồi lần lượt, Takumi và Lara và Alaska thức giấc, và chúng tôi dành cả ngày để trốn, nhưng ồn ào. Trốn một cách ồn ào.
Trưa hôm đó ở chuồng bò, Takumi tuyên bố chúng tôi cần thi đọc rap tự do.
“Mày bắt đầu đi, Bé Bự,” Takumi nói. “Đại Tá Tai Ương, mày sẽ là chân beat box của chúng ta.”
“Ê, tao không rap được,” tôi cãi.
“Không sao. Đại Tá cũng không tạo nhạc miệng được. Cứ thử vần điệu chút rồi chuyển qua cho tao.”
Với bàn tay cúp lại trước miệng, Đại Tá bắt đầu tạo nên mấy âm thanh lố bịch nghe giống đang đánh rắm hơn tiếng trống, và tôi, ừm, đọc rap.
“Ưm, chúng ta đang ngồi trong chuồng bò và mặt trời đang dần buông/ khi tao còn là một đứa nhỏ ở Burger King tao đã lên xưng vương/ mẹ ơi, tao không biết vần điệu cái chi chi/ nên tao sẽ nhờ bạn tao Takumi gỡ bí.”
Takumi nối tiếp ngay không chần chừ. “Chết tiệt, Bé Bự, tao không nghĩ mình đã chuẩn bị/ nhưng như phim Ác mộng trên phố Elm có tên Freddy/ tao luôn sẵn trò làm thiên hạ chạy cun cút/ đêm qua tao uống rượu kiểu nấc cụt nấc cụt/ Đại Tá chơi beatbox đỉnh như một choác cần sa/ khi tao cầm micro cánh phụ nữ kích động vì kêu la/ tao quảng bá Nhật Bản cũng ngầu như Birmingham/ khi tao còn con nít họ gọi tao thằng da vàng/ nhưng tao không xấu hổ vì màu da được trao ban/ như vô số cô ả từng xem tao là người tình ủi an.”
Alaska nhảy vào.
“Ô kìa cậu mới vừa khinh thường phái nữ/ mình sẽ đét mông cậu rồi nhét vào máy xay cho nhừ/ cậu nghĩ mình thích Tori và Ani nên không biết làm thơ à/ nhưng mình đọc trôi chảy như Biệt Đội Bắt Ma hạ gục con ma bô lô ba la/ xem phụ nữ như đồ vật đi rồi biết/ cậu sẽ chết và biến mất như Babylon cổ xưa cho mà tiếc.”
Takumi lại tiếp tục.
“Nếu mắt tôi gây chuyện tôi sẽ móc chúng ra/ tôi bám càng con gái như bệnh gút bám tuổi già/ ôi chết tiệt vần điệu gì nát bấy/ Lara mau đọc nối và giúp anh một tay.” Lara đọc thật khẽ và ra chiều bối rối và với âm điệu trật chìa còn hơn tôi. “Tên em là Lara và quê em ở Romania/ cáy này khó quá, um, em từng ghé thăm Albania/ em thích ngồi trên chiếc Geo của chị Alaska/ hai nguyên âm tiếng Anh tốt nhất của em là EO/ em không giõi nói âm i cho lắm/ nhưng nghe cũng lạ lạ đúng không?/ ôi, anh Takumi, em nghĩ là em xong rồi/ mau kết bài đễ mọi người vui thôi.” “Tôi thả những cú bom như Hiroshima, hoặc tốt hơn là Nagasaki/ con gái nghe tôi đọc rap đều tưởng tôi là Rocky/ để đại diện cho quê hương tôi vẫn uống sake/ lũ nhóc không hiểu vần của tôi nên thi thoảng còn cười chê/ người tôi không nhỏ bé nhưng không hẳn đô con/ mà ngẫm lại, khác với Bé Bự tôi cũng không quá gầy còm/ tôi là con quỷ cáo và đây là các đồng đội đã hoạt động cùng nhau/ những bài rap tự do như tôi khi đi giày thể thao. Và chấm hết.” Đại Tá kết thúc bằng beat box kiểu tự do, và chúng tôi tự cho mình một tràng pháo tay.
“Cậu tuyệt lắm, Alaska,” Takumi nói, cười sảng khoái. “Mình làm những gì có thể nhằm đại diện cho các quí cô. Lara đã yểm trợ mình.”
“Vâng, đúng vậy.”
Và rồi Alaska quyết định rằng dù trời chưa tối hẳn nhưng đã đến lúc chúng tôi say bí tí rồi.
“Hai đêm liên tiếp có vẻ hơi đánh đố vận may,” Takumi đề nghị trong lúc Alaska mở rượu.
“Vận may là cho kẻ thất bại.” Cô ấy mỉm cười và đặt chai rượu lên môi. Chúng tôi ăn tối bằng bánh quy rắc muối và một miếng phô mai Cheddar do Đại Tá đưa cho, và món bánh quy rắc muối và phô mai ấy biến thành bữa tối ngon miệng khi nhắm cùng loại rượu màu hồng ấm nóng trong chai. Và khi chúng tôi hết sạch phô mai, chà, càng có nhiều chỗ chứa Strawberry Hill chứ sao.
“Từ từ thôi, không tao nôn mất,” tôi lên tiếng sau khi chúng tôi xử xong chai thứ nhất.
“Xin lỗi nhé, Bé Bự. Tao không biết có người đang banh họng mày và đổ rượu vào đó,” Đại Tá đốp lại, quăng cho tôi một chai Mountain Dew.
“Gọi cái quỷ này là rượu còn nhân từ đấy,” Takumi đùa.
Và rồi, như thể bất thình lình, Alaska tuyên bổ, “Ngày Tuyệt Nhất/ Tệ Nhất!”
“Hả?” Tôi hỏi.
“Tất cả chúng ta sẽ nôn hết nếu chỉ uống rượu. Nên tụi mình sẽ hạn chế lại bằng trò uống phạt. Ngày Tuyệt Nhất/Tệ Nhất.
“Chưa nghe bao giờ,” Đại Tá nói.
“Vì mình mới vừa chế ra nó.” Cô ấy mỉm cười. Cô ấy nằm nghiêng trên hai đụn cỏ khô, nắng chiều rọi sáng màu xanh trong đôi mắt, làn da rám nắng là kỉ niệm cuối cùng của mùa thu. Với đôi môi cô hé nửa, tôi chợt nhận ra Alaska đã say khi phát hiện ánh mắt xa xăm của cô ấy. Ánh nhìn say sưa vượt ngàn dặm, tôi nghĩ, và trong lúc nhìn cô ấy bằng con mê đắm vu vơ, tôi chợt vỡ lẽ rằng, ừa, tôi cũng hơi say rồi.
“Vui quá! Luật chơi thế nào?” Lara hỏi.
“Mọi người kể về ngày tuyệt nhất của mình. Người thắng cuộc không phải uống. Rồi chúng ta lại kể về ngày tệ nhất, và người thắng cuộc cũng không phải uống. Và cứ thế tiếp tục, ngày tuyệt thứ hai, ngày tệ thứ hai, đến khi có người trong số các cậu bỏ cuộc.”
“Làm sao cậu biết đấy sẽ là một trong số chúng tôi?” Takumi hỏi.
“Vì mình là uống rượu giỏi nhất và kể chuyện hay nhất,” cô ấy đáp. Thật khó phản đối logic ấy. “Cậu trước đi, Bé Bự. Ngày tuyệt nhất đời cậu.”
“Ưm. Cho mình một phút để nghĩ được không?”
“Nếu mày cần phải nghĩ thì chắc không tuyệt đến thế,” Đại Tá nói.
“Cái thằng này.”
“Nhạy cảm dữ.”
“Ngày tuyệt nhất của tao là hôm nay,” tôi nói. “Và chuyện là tao thức dậy cạnh một cô gái Hungary cực kì xinh đẹp và trời lạnh như không quá lạnh và tao uống một ly cà phê ấm và ăn Cheerios không sữa và rồi đi dạo quanh rừng với Alaska và Takumi. Chúng tao ném thia lia dọc con lạch, một việc nghe hơi ngu nhưng thật ra không phải. Tao không biết nữa. Như mặt trời bây giờ, với những chiếc bóng trải dài và luồng sáng dịu nhẹ mày hay thấy khi mặt trời chưa lặn hẳn? Đấy là luồng sáng khiến mọi thứ tốt hơn, đẹp hơn, và hôm nay mọi thứ dường như đều ở dưới luồng sáng đó. Ý tao là. Tao chẳng làm gì cả. Nhưng chỉ ngồi đây, dù tao đang nhìn Đại Tá mài dao, hay gì đó. Gì cũng được. Một ngày tuyệt vời. Ngày hôm nay. Ngày tuyệt nhất đời tao.”
“Anh nghĩ em đẹp sao?” Lara nói, và bật cười xấu hổ. Tôi nghĩ, giờ nhìn em ấy được rồi, nhưng tôi không thể. “Và em là người Romaneea!”
“Câu chuyện đó hay hơn mình tưởng nhiều,” Alaska nói, “nhưng mình vẫn sẽ đánh bại cậu.”
“Tới đi cưng,” tôi nói. Một ngọn gió thổi qua, luống cỏ cao bên ngoài chuồng bò nghiêng mình theo nó, và tôi kéo túi ngủ lên vai để giữ ấm.
“Ngày tuyệt nhất đời mình là ngày 9 tháng Một, năm 1997. Mình tám tuổi, và mẹ dắt mình đi sở thú trong chuyến đi với lớp. Mình thích gấu. Mẹ thích khỉ. Ngày tuyệt vời nhất. Hết chuyện.”
“Thế thôi á?!” Đại Tá nói. “Đấy là ngày tuyệt nhất cả đời cậu?!”
“Ừa.”
“Em thít chuyện,” Lara nói. “Em cũng thít lũ khỉ nữa.” “Quê quá,” Đại Tá bảo. Tói nghĩ nó chẳng quê bằng sự mơ hồ cố ý của Alaska, thêm một ví dụ về vẻ bí ẩn của cô ấy trượt dài. Có điều, dù biết là cố ý, tôi vẫn không thể ngăn mình tự hồi: Sở thú có cái khỉ gì hay? Nhưng trước khi tôi kịp hỏi, Lara đã cất tiếng.
“Rồi, tới lượt em,” Lara. “Dẽ ẹc. Ngày em đến đây. Em biết tiếng Anh và ba mẹ em thì không, chúng em xuống khỏi máy bay và họ hàng của em đến đón, các cô và các chú em chưa bao giờ gặp, ở sân bay, và ba mẹ em rất hạnh phúc. Hồi đó em mười hai tuổi, và em luôn là út cưn ở nhà, nhưng đấy là ngày đầu tiên ba mẹ cần và đối xử với em như một người lớn. Vì họ không biết tiếng, đúng không? Họ cần em để gọi món ăn và dịch mẫu đơn đóng thuế và nhập cư và mọi thứ khát, và đấy là ngày họ thôi đối xử với em như con ních. Hơn nữa, ở Romania, chúng em rất nghèo. Và ở đây, nhà em khá dả.” Rồi em cười.
“Được lắm.” Takumi mỉm cười, chụp lấy chai rượu. “Tao thua. Vì ngày tuyệt nhất đời tao là ngày tao mất đời giai tân. Và nếu tụi mày nghĩ tao sẽ kể cho nghe chuyện đó thì tụi mày phải ép tao uống say hơn thế này cơ.” “Không tệ,” Đại Tá nói. “Không tệ đâu. Muốn biết ngày tuyệt nhất của tao không?”
"Trò chơi là thế mà, Chip,” Alaska nói, bực dọc thấy rõ. “Ngày tuyệt nhất đời tao chưa diễn ra. Nhưng tao biết nó. Tao thấy nó mỗi ngày. Ngày tuyệt nhất đời tao là ngày tao mua cho mẹ tao một căn nhà khổng lồ chết tiệt. Và không phải một căn ở trong rừng, mà ở trung tâm Mountain Brook, với bố mẹ của cả lũ Chiến Binh Ngày Thường. Với bố mẹ của cả lũ tụi bay. Và tao cũng không mua trả góp. Tao sẽ mua nó bằng tiền mặt, và tao sẽ chở mẹ tao tới đó, và tao sẽ mở cửa xe cho mẹ tao và bà sẽ bước xuống và nhìn căn nhà ấy, căn nhà với hàng rào trắng và hai tầng và tất cả, mày biết đấy và tao sẽ đưa bà chìa khóa căn nhà và tao sẽ nói, “Cảm ơn mẹ.” Quỷ thần ơi, bà giúp tao điền đơn đến đây. Và bà để tao đi học ở trường này, và đấy không phải là một điều dễ dàng khi mày có xuất thân như tụi tao, khi mày để con trai mày đi học xa. Nên đấy là ngày tuyệt nhất đời tao.”
Takumi nghiêng chai rượu và nuốt ực vài lần, rồi đưa nó cho tôi. Tôi uống, và cả Lara, và Alaska ngửa cổ dốc ngược chai rượu, nhanh chóng uống hết một phần tư cuối cùng trong chai.
Trong lúc cô ấy mở nắp chai tiếp theo, Alaska cười với Đại Tá. “Cậu thắng vòng này. Giờ ngày tệ nhất của cậu là khi nào?”
“Ngày tệ nhất là khi bố tao bỏ đi. Ổng già rồi, giờ chắc ổng cỡ bảy mươi và ổng đã già sẵn khi ổng cưới mẹ tao, và ổng vẫn ngoại tình. Và khi mẹ tao bắt gặp, bà giận điên người, nên ổng đánh mẹ tao. Và rồi mẹ tao đuổi cổ ổng, và ổng bỏ đi. Lúc đó tao ở đây, và mẹ tao gọi, và bà đã không kể với tao toàn bộ câu chuyện ngoại tình và đánh đập và tất cả mãi cho đến tận sau này. Bà chỉ nói ổng bỏ đi và không quay lại nữa. Và từ đó đến nay tao không gặp ổng. Nguyên ngày hôm ấy tao đã đợi ổng gọi điện và giải thích, nhưng ổng không bao giờ làm thế. Tao nghĩ ít nhất ổng sẽ nói tạm biệt hay đại loại. Đấy là ngày tệ nhất.”
“Chết tiệt, mày lại thắng tao rồi.” Tôi nói. “Ngày tệ nhất của tao là năm lớp bảy, khi Tommy Hewiit tè lên đồ thể thao của tao và thầy dạy thể thao nói tao phải mặc đồng phục hoặc bị rớt môn. Lớp bảy đúng không? Còn nhiều thứ khác tệ hơn. Nhưng hồi đó nó là chuyện lớn, và tao khóc tức tưởi và cố giải thích cho thầy biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng thật xấu hổ, và ổng chỉ quát và quát và quát đến khi tao tròng cái quần soóc và áo thun thấm nước tiểu vào người. Đấy là ngày tao hết quan tâm xem người khác làm gì. Tao chỉ không còn quan tâm nữa, về chuyện làm kẻ thua cuộc hoặc không có bạn hoặc bất cứ thứ gì tương tự. Nên tao đoán nó cũng tốt cho tao về mặt nào đấy, nhưng giây phút ấy thật kinh khủng. Ý tao là, mày cứ tưởng tượng tao chơi bóng chuyền hay chi đấy trong bộ đồ ướt nhẹp nước tiểu trong khi thằng Tommy Hevviit rêu rao với mọi người về chuyện nó đã làm. Đấy là ngày tệ nhất.”
Lara đang cười. “Em xin lỗi, Miles.”
“Không sao,” tôi nói. “Chỉ cần kể tiếp anh nghe để anh có thể cười vào nỗi đau của em,” và tôi mỉm cười, và chúng tôi cùng cười vang.
“Ngày tệ nhất của em chắc cũng là ngày tuyệt nhất. Vì em bõ lại mọi thứ. Ý em là, nghe hơi ngốc xít, nhưng nó bao gồm cả tuổi thơ của em nữa, vì đa số những đứa mười hai tuổi không, anh biết đấy, không phải tìm hiễu mẫu đơn W-2.”
“Mẫu đơn W-2 là gì?” Tôi hỏi.
“Vấn đề là ở đó. Nó dung đẽ khai thuế. Nên. Cùng ngày.” Lara luôn phải lên tiếng cho ba mẹ của mình, tôi nghĩ, và có lẽ em chưa bao giờ học cách lên tiếng cho bản thân. Và tôi cũng không giỏi lên tiếng cho bản thân. Chúng tôi có một điểm chung, vào lúc đó, một kiểu tính cách tôi không tương đồng với Alaska hay bất kì ai khác, dù về cơ bản Lara và tôi không thể miêu tả nó cho nhau. Nên có lẽ chỉ vì ánh mặt trời chưa-lặn-hẳn chiếu trên những lọn tóc tối màu gọn xoăn bồng bềnh của em ấy, nhưng vào giây phút ấy, tôi đã muốn hôn em, và chúng tôi không cần phải trò chuyện mới có thể hôn nhau, và chuyện nôn lên quần em ấy và hàng tháng trời tránh mặt nhau đã tan biến.
“Tới lược anh, Takumi.”
“Ngày tệ nhất đời tao," Takumi nói. “Ngày 9 tháng Sáu, năm 2000. Bà ngoại tao qua đời ở Nhật. Bà qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi, và đáng ra tao sẽ đến thăm bà vào hai hôm sau. Tao sẽ ở với bà và ông ngoại suốt mùa hè, thế mà tao lại bay sang để dự đám tang, và lần duy nhất tao thật sự nhìn thấy bà, ý tao là ngoài những tấm ảnh, là ở đám tang của bà. Tang lễ bà diễn ra theo truyền thống Phật Giáo, và họ hỏa táng bà, nhưng trước khi làm thế thì bà đang ở trên, chà—ừm, cũng không hẳn là Phật Giáo. Ý tao là, tôn giáo ở đó hơi phức tạp, nên có một chút Phật Giáo lai Shinto, nhưng tụi bây không quan tâm đâu, vấn đề là bà đang ở trên một cái, kiểu, giàn thiêu hay gì đó. Và đấy là lần duy nhất tao thấy bà, ngay trước khi họ hỏa táng bà. Đấy là ngày tệ nhất.”
Đại Tá đốt một điếu thuốc, quăng nó cho tôi, và đốt một điếu cho riêng gã. Thật kì quặc, khi gã đoán ra được tôi đang muốn hút thuốc. Chúng tôi giống như một cặp vợ chồng già. Trong thoáng chốc, tôi nghĩ, Quăng thuốc lá quanh một chuồng bò đầy cỏ khô là điều dại dột vô cùng, nhưng rồi phút giây cảnh giác trôi qua, và tôi hết sức cố gắng để không búng tàn thuốc lá lên đụn cỏ nào.
“Chưa rõ ai là người chiến thắng,” Đại Tá nói. “Vẫn còn chỗ trống. Tới lượt cậu, bồ tèo.”
Alaska nằm ngửa, hai tay đặt sau đầu. Cô ấy nói thật khẽ và thật nhanh, nhưng ngày yên ả đang dần chuyển sang đêm tĩnh lặng—côn trùng giờ đã bay đi khi mùa đông đến và chúng tôi có thể nghe tiếng cô rất rõ.
“Ngày mẹ dẫn mình đến sở thú nơi bà thích khỉ và mình thích gấu, hôm đó là thứ Sáu. Mình trở về từ trường học. Mẹ ôm mình và bảo mình vào phòng làm bài tập để lát nữa còn xem TV. Mình đi vào phòng, và mẹ ngồi xuống ở bàn bếp, mình đoán, và rồi bà hét lên, và mình chạy ra, và bà đã ngã xuống. Bà đang nằm trên sàn, ôm đầu và co giật. Rồi mình hoảng lên. Đáng ra mình nên gọi 911, nhưng mình chỉ la hét và gào khóc đến khi mẹ ngừng co giật, và mình nghĩ bà đã thiếp đi và cái đau giờ không còn nữa. Nên mình chỉ ngồi trên sàn với bà đến khi bố về nhà chừng một tiếng sau, và ông thét to, ‘Sao mày không gọi 911?’ và cố hô hấp nhân tạo cho mẹ, nhưng lúc ấy bà đã chết lâu rồi. Phình mạch máu. Ngày tệ nhất. Mình thắng. Các cậu uổng đi.”
Và chúng tôi uống.
Không ai nói gì trong một phút, và rồi Takumi hỏi, “Bố cậu trách cậu?”
“Chà, sau lần đầu tiên đó thì không. Nhưng ừa. Sao lại không chứ?”
“Thì, cậu là một đứa trẻ,” Takumi phản bác. Tôi cũng quá ngạc nhiên và bối rối không thể góp lời, cố gán ghép câu chuyện này vào những gì tôi đã biết về gia đình của Alaska. Mẹ của cô ấy chỉ cô trò cốc-cốc lúc Alaska sáu tuổi. Mẹ cô ấy tùng hút thuốc nhưng giờ thì không, dĩ nhiên.
“Ừ. Mình là một đứa trẻ. Một đứa trẻ có thể gọi 911. Chúng làm thế suốt. Đưa rượu cho mình,” cố ấy nói, nghiêm nghị và vô cảm. Cô uống mà không nhấc đầu khỏi đụn cỏ khô.
“Tôi rất tiếc,” Takumi nói.
“Sao cậu chưa bao giờ nói với tôi?” Đại Tá hỏi, giọng nói nhẹ nhàng.
“Chưa bao giờ có dịp.” Và rồi chúng tôi thôi hỏi nhau. Nói cái quái gì giờ?
Trong thinh lặng kéo dài theo sau đó, khi chúng tôi chuyền tay nhau chai rượu và dần trở nên say hơn. Tôi chợt nghĩ về Tổng thống William McKinley, tổng thống thứ ba của nước Mỹ bị ám sát. Ông sống thêm vài ngày sau khi bị bắn, và khi ông sắp chết, vợ ông bắt đầu khóc than và gào thét, “Em cũng muốn đi! Em cũng muốn đi!” và với chút tàn hơi cuối cùng, McKinley quay sang bà nói lời trăng trối: “Tất cả chúng ta đều sẽ đi.”
Đấy là tâm điểm trong cuộc đời Alaska. Khi cô ấy khóc và nói với tôi mình đã làm hỏng mọi chuyện, giờ tôi đã hiểu ý của cô ấy. Và khi cô ấy nói cô đã hại mọi người, giờ tôi đã biết cô ấy ám chỉ ai. Là tất cả mọi thứ và tất cả mọi người trong cuộc đời cô ấy, và tôi không thể ngăn mình tưởng tượng: tôi tưởng tượng một con bé tám tuổi gầy gò với mười đầu ngón tay đen nhẻm, cúi đầu nhìn mẹ mình lên cơn co giật. Rồi cô ấy ngồi xuống với bà mẹ đã-chết- hoặc-có-lẽ-không của mình, tôi tưởng tượng bà đã tắt thở nhưng chưa hẳn lạnh lẽo. Và giữa giây phút hấp hối và chết đi, một Alaska nhỏ bé đã ngồi với mẹ cô ấy trong im lặng. Và rồi qua thinh lặng lẫn cơn say, tôi thoáng nhìn thấy cô ấy ngày hôm đó. Hẳn cô ấy đã cảm thấy rất bất lực, tôi nghĩ, rằng điều duy nhất mình có thể làm, nhấc máy lên và gọi xe cấp cứu chưa bao giờ xuất hiện trong đầu. Sẽ có ngày chúng ta nhận ra rằng cha mẹ không thể cứu lấy bản thân họ hay chúng ta, rằng những người lội qua dòng thời gian rồi sẽ bị sóng cuốn ra biển—rằng, tóm lại, tất cả chúng ta đều sẽ đi.
Nên Alaska trở nên bốc đồng, nỗi khiếp đảm thụ động chuyển thành những hoạt động không ngừng. Khi Đại Bàng dọa trục xuất, có lẽ cô ấy thốt ra tên Marya vì đấy là người đầu tiên xuất hiện trong đầu, vì lúc đó cô ấy không muốn bị đuổi học và không thế nghĩ xa hơn. Alaska sợ hãi, hẳn vậy. Nhưng quan trọng hơn, có lẽ cô ấy e ngại nỗi sợ khiến mình bất động một lần nữa.
“Tất cả chúng ta đều sẽ đi,” McKinley đã nói với vợ của ông, và hẳn là thế. Đấy là mê hồn trận đầy khổ sở. Tất cả chúng ta đều sẽ đi. Tìm đường thoát ra mê hồn trận ấy.
Tôi không nói bất kì điều gì với cô ấy. Lúc đó và cả sau này. Chúng tôi không bao giờ nói thêm lời nào về nó. Thay vào đó, nó chỉ trở thành một ngày tệ nhất khác, dầu là ngày tệ nhất của một lũ say, và khi màn đêm kéo tới, chúng tôi lại tiếp tục, uống rượu và giỡn hớt.
Đêm đó, sau khi Alaska tự chọt ngón tay vào cổ họng và nôn ra trước mặt chúng tôi vì cô ấy say quá không thể vào rừng, tôi đã nằm xuống trên túi ngủ. Lara đang nằm cạnh tới, trong túi ngủ của em, vốn sắp chạm vào túi của tôi. Tôi đưa tay về phía mép túi và đẩy nhẹ để nó hơi đè lên cái của em. Tôi áp tay mình vào tay em. Tôi cảm thấy nó, dù có hai cái túi ngủ giữa chúng tôi. Kế hoạch của tôi, mà tôi nghĩ là rất tài tình, là rút tay ra và đút nó vào trong túi ngủ của em, và rồi nắm tay em. Đấy là một kế hoạch tốt, nhưng khi tôi cố lấy tay ra khỏi túi ngủ thật thì lại vung vẩy như cá mắc cạn, và suýt trật khớp vai. Em ấy đang cười không phải với tôi, là cười vào mặt tôi, nhưng chúng tôi vẫn không nói gì. Đã không thể quay đầu, tôi đánh liều trượt tay vào túi ngủ cúa em, và em nén tiếng khúc khích trong lúc mấy đầu ngón tay tôi lướt dọc một đường từ khuỷu tay đến cổ tay em.
“Nhột quá” em thì thầm. Cố tỏ ra hấp dẫn là thế đấy.
“Xin lỗi,” tôi lẩm bẩm.
“Không sao, nhột nhưng thít lắm,” em nói, và nắm lấy tay tôi. Em đan tay hai đứa vào nhau rồi siết nhẹ. Đoạn em lăn qua và hun tôi. Tôi chắc miệng em có vị rượu ôi, nhưng tôi không để ý, và tôi chắc miệng tôi có vị rượu ôi và thuốc lá, nhưng em không để ý. Chúng tôi đang hôn nhau.
Tôi nghĩ: Chuyện này thật tuyệt.
Tỏi nghĩ: Mình hôn không tệ. Không tệ chút nào.
Tôi nghĩ: Rõ ràng mình là người hôn giỏi nhất vũ trụ.
Đột nhiên em bật cười và tách ra khỏi tôi. Em rút một tay ra khỏi túi ngủ và lau mặt. “Anh chảy nước dãi lên mũi em,” em ấy nói, rồi lại cười.
Tôi cũng cười, cố gây ấn tượng rằng kiểu hôn chảy-dãi-lên-mũi của tôi là cố ý cho vui. “Anh xin lỗi.” Mượn hệ thống cấp bậc của Alaska mà nói thì, tôi chưa bao giờ đạt hơn năm cái cấp một trong đời, nên cố đổ lỗi cho sự thiếu kinh nghiệm. “Anh chưa quen với chuyện này lắm,” tôi bào chữa.
“Chảy nước dãi nhưng thít lắm,” em ấy vừa cười vừa nói, và hôn tôi lần nữa. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã chui hẳn khỏi túi ngủ, im lặng hôn nhau. Em nằm trên người tôi, và tôi đưa tay ôm trọn vòng eo thon gọn của em. Tôi cảm nhận được ngực em đè lên ngực tôi, và em chậm rãi di chuyển trên tôi, hai chân kẹp lấy tôi. “Người anh tuyệt quá,” em nói.
“Em thật đẹp,” tôi nói, và mỉm cười với em. Trong bóng tối, tôi có thể thấy rõ đường nét khuôn mặt em và đôi mắt to tròn chớp nhắm, đôi hàng mi em gần như run rẩy phủ trên trán tôi.
“Hai người đang hôn hít làm ơn im lặng được không?” Đại Tá hỏi to từ túi ngủ của gã. “Bọn không hôn hít tụi tao đang xỉn quắc cần câu và mệt lắm đây.”
“Đa số là. Xỉn quắc cần câu,” Alaska chậm rãi nói, nhu thể việc phát âm rất tốn sức.
Chúng tôi hầu như chua bao giờ trò chuyện, Lara và tôi, và chúng tôi không có cơ hội trò chuyện nữa vì Đại Tá. Nên chúng tôi lặng lẽ hôn nhau và khẽ cười bằng miệng và mắt. Sau khi hôn quá nhiều và bắt đầu thấy chán, tôi thì thầm, “Em có muốn làm bạn gái anh không?” Và em đáp, “Vâng, rất sẵn lòng,” và mỉm cười. Chúng tôi ngủ chung trong túi ngủ của Lara, có hơi chật một chút, thành thật mà nói, nhưng vẫn thoải mái. Tôi chưa bao giờ nằm cạnh ai lúc ngủ. Đấy là kết thúc hoàn hảo cho ngày tuyệt nhất đời tôi.
một ngày trướcSÁNG HÔM SAU, cụm từ được tôi dùng hú họa vì bình minh còn chưa lên, Đại Tá lay tôi dậy. Lara nằm gọn trong vòng tay, em cuộn tròn rúc vào người tôi.
“Chúng ta phải đi thôi, Bé Bự. Tới lúc dọn dẹp rồi.” “Mày ơi. Tao đang ngủ.”
“Mày có thể ngủ sau khi chúng ta điểm danh xong. TỚI GIỜ VỀ RỒI!” gã hét to.
“Rồi rồi. Đừng hét. Tao nhức đầu.” Và thật vậy. Tôi cảm thấy món rượu hôm qua trong cuống họng và đầu tôi nhức như buổi sáng sau hôm chấn động não. Miệng tôi có mùi như thể một con chồn hôi đã chui vào trong đó và chết. Tôi cố không thở ra gần Lara trong lúc em mơ màng chui ra khỏi túi ngủ.
Chúng tôi thu dọn đồ đạc nhanh chóng, ném mấy cái chai rỗng vào đống cỏ cao, xả rác là một nhu cầu xúi quẩy ở Creek, vì không ai muốn ném một chai rượu rỗng vô thùng rác trong trường và đi khỏi chuồng bò. Lara nắm tay tôi rồi ngượng nghịu buông ra. Alaska trông như giẻ rách, nhưng vẫn đòi đổ hết mấy giọt Strawberry Hill cuối cùng vào ly cà phê uống liền nguội ngắt trước khi ném chai rượu ra sau lưng.
“Lấy độc trị độc,” cô ấy nói.
“Cậu thấy thế nào?” Đại Tá hỏi thăm.
“Tệ hơn nhiều bữa khác.”
“Còn vật vờ hả?”
“Như một gã truyền giáo nghiện rượu vào sáng Chủ Nhật.”
“Có lẽ cậu không nên uống nhiều quá,” tôi đề nghị.
“Bé Bự.” Cô ấy lắc đầu và nhấp một ngụm cà phê pha rượu. “Bé Bự, cậu phải biết rằng mình là một đứa bất hạnh cùng cực.”
Chúng tôi đi sóng đôi xuống mặt đường xói lở trên đường về trường. Ngay sau khi tới chỗ cây cầu, Takumi khựng lại, nói “ư-ô,” quì xuống đặt tay trên đất, và nôn ra một bãi vàng hồng lẫn lộn.
“Tống hết ra,” Alaska nói. “Cậu sẽ ổn thôi.”
Cậu ta nôn xong, đứng dậy, và nói, “Cuối cùng tôi đã tìm ra một thứ có thể chặn chân con cáo. Con cáo không thể tiêu hóa Strawberry Hill.”
Alaska và Lara trở về phòng họ, định sẽ báo danh với Đại Bàng chốc nữa, trong khi Takumi và tôi đứng sau Đại Tá lúc gã gõ cửa nhà Đại Bàng lúc 9:00 sáng.
“Các trò về sớm thế. Đi vui chứ?”
“Vâng ạ,” Đại Tá đáp.
“Mẹ trò thế nào, Chip?”
“Bà vẫn khỏe, thưa thầy. Bà mạnh lắm.”
“Bà ấy cho các trò ăn ngon không?”
“Ô có ạ,” tôi nói. “Cô ấy muốn vỗ béo em.”
“Trò cần thế đấy. Chúc các trò một ngày tốt lành.”
“Chà, tao nghĩ ổng không nghi ngờ gì đâu,” Đại Tá trên đường quay lại Phòng 43. “Nên có thể chúng ta thật sự thoát nạn rồi.” Tôi nghĩ đến chuyện qua gặp Lara, nhung rồi khá mệt, nên chỉ lết về giường và ngủ qua cơn vạ vật.
Ngày hôm đó không có gì bận rộn. Đáng ra tôi nên làm những điều kiệt xuất. Đáng ra tôi nên ghi vài dấu ấn trong đời. Nhưng vào ngày hôm đó, tôi ngủ mười tám trên hai mươi bốn tiếng có lẽ.
ngày cuối cùngSÁNG HÔM SAU, thứ Hai đầu tiên của học kì mới, Đại Tá ra khỏi phòng tắm lúc đồng hồ báo thức của tôi reng.
Trong lúc tôi mang giày, Kevin gõ cửa một lần rồi mở tung cánh cửa, bước vào trong.
“Đẹp trai đó,” Đại Tá thản nhiên nói. Kevin giờ để tóc húi cua, một mẩu tóc nhỏ màu xanh ở hai bên đầu, ngay phía trên tai. Môi dưới của hắn trề ra, cữ nhai thuốc sáng đầu tiên. Hắn đi tới chỗ BÀN CÀ PHÊ của chúng tôi, nhặt một lon nước ngọt lên và nhổ toẹt vào nó.
“Suýt nữa mày đã không chơi được tao. Tao phát hiện ra nó trong dầu xả và quay vào phòng tắm ngay lập tức. Nhưng tao không để ý gel vuốt tóc. Tóc thằng Jeff không lên màu chút nào. Nhưng Longwell và tao, tụi tao phải cắt kiểu quân đội. May phước là tao có tông-đơ.”
“Hợp với mày đó,” tôi nói, dù không phải. Tóc ngắn làm gương mặt hắn nổi bật hơn, đặc biệt là đôi mắt nhỏ như hột đậu quá-gần-nhau, vốn không phải là điểm nhấn tốt. Đại Tá đang cố tỏ ra bặm trợn, sẵn sàng cho bất cứ hành động nào của Kevin nhưng thật khó để tỏ ra bặm trợn khi bạn chỉ đang quấn mỗi cái khăn màu cam.
“Đình chiến?”
“Chà, rắc rối của mày chưa kết thúc, tao e là thế,” Đại Tá nói, ý chỉ bảng điểm đã-gửi-đi-nhưng-chưa-được-nhận.
“Được rồi. Nếu mày nói vậy. Tao đoán chúng ta sẽ nói chuyện khi mọi thứ kết thúc.”
“Tao đoán thế,” Đại Tá đáp. Lúc Kevin bước ra, Đại Tá nói với theo, “Đem cái lon mày đã nhổ nước bọt ra, thằng khốn mất vệ sinh.” Kevin chỉ đóng cửa lại sau lưng. Đại Tá chộp lấy cái lon, mở cửa, và ném nó về phía Kevin, lệch mất một khoảng lớn.
“Thiệt tình, tha cho nó đi.”
“Chưa đình chiến đâu, Bé Bự.”
Trưa hôm ấy tôi ở với Lara. Chúng tôi rất tình tứ, dù không biết nhiều về nhau và hiếm khi nói chuyện. Nhưng chúng tôi hôn nhau. Có đoạn em ấy bóp mông tôi, và tôi đại khái hơi giật mình. Tôi đang nằm xuống, nhưng tôi đã giật mình theo kiểu hay nhất mà một đứa đang nằm có thể làm, và em nói, “Xin lỗi,” và tôi trả lời, “Không, anh không sao. Hơi nhức vì bị thiên nga cắn thôi.”
Chúng tôi đến phòng TV cùng nhau, và tôi khóa cửa. Chúng tôi đang xem phim Gia đình Brady, Lara chưa xem bao giờ. Tập chúng tôi xem, khi gia đình Brady ghé thăm mỏ vàng ở thị trấn bỏ hoang và họ đều bị một lão già mất trí với bộ râu xồm xoàm làm nghề đãi vàng nhốt trong xà lim, đặc biệt dơ tệ, và khiến chúng tôi cười rất nhiều. Âu cũng tốt, vì chúng tôi chẳng có mấy chuyện để nói.
Ngày đầu tiên của học kì có rất ít bài để làm, nhưng em vẫn đọc sách cho môn Quốc Ngữ. Tôi cầm lấy cuốn tiểu sử của một nhà cách mạng người Argentina tên Che Guevara, ông được họa trên một tấm poster dán tường, tủ giá sách của bạn cùng phòng của Lara. Tôi đọc từ trang cuối, tôi vẫn hay làm thế với tiểu sử. Tôi không có ý định đọc hết cuốn, và dễ dàng tìm ra lời trăng trối của ông ta. Bị quân đội Bolivia bắt, Guevara nói, “Bắn đi, lũ hèn nhát. Tụi mày sẽ chỉ giết được một người đàn ông.” Tôi nhớ đến lời trăng trối của Simón Bolívar trong tiểu thuyết của García Márquez—“Làm sao ta thoát khỏi mê hồn trận này đây!” Những nhà cách mạng người Nam Phi, dường như đều chết cùng tinh hoa của họ. Tôi đọc to lời trăng trối ấy cho Lara. Em ấy quay sang nằm nghiêng, gối đầu lên ngực tôi.
“Sao anh thích những lời trăng trối dữ vậy?”
Kì lạ làm sao, tôi chưa bao giờ thật sự để ý tới lí do. “Anh không biết,” tôi nói, đặt tay lên hông em. “Thi thoảng chỉ vì chúng hài hước. Như trong Nội Chiến, một đại tướng tên Sedgwick đã nói, ‘Chúng không thể bắn trúng một con voi từ khoảng cách này’ và rồi ổng bị bắn.” Em bật cười. “Nhưng phần lớn thời gian, con người chết theo cách họ đã sống. Và những lời trâng trối cho anh biết rất nhiều về họ lúc sinh thời, và tại sao họ trở thành những nhân vật được người khác viết tiểu sử. Em hiểu không?”
“Vâng,” em đáp.
“Vâng?” Chỉ vâng thôi sao?
“Vâng,” em nói, rồi quay lại đọc sách.
Tôi không biết phải nói chuyện với em thế nào. Và tôi khó chịu với việc cố gắng, nên sau một lúc, tôi đứng dậy rồi đi.
Tôi hôn em chào tạm biệt. Tôi có thể làm thế, ít nhất là vậy.
Tối hôm ấy, Đại Tá và tôi tới phòng Alaska để ăn mừng chiến thắng Đêm Chuồng Bò. Cô ấy và Đại Ta đá ăn mừng khá bộn suốt mấy ngày qua, và tôi không có hứng nốc rượu Strawberry Hill, nên tôi ngồi nhai bánh quy cây trong lúc Alaska và Đại Tá uống rượu từ ly giấy có hình bông hoa.
“Tối nay chúng ta không từ chai, cưng ạ,” Đại Tá nói. “Chúng ta phải sang chảnh hơn!”
“Đây là cuộc thi uống rượu kiểu miền Nam cổ xưa,” Alaska đáp lại. “Chúng ta sẽ đãi Bé Bự một bữa tối đúng kiểu miền Nam: Chúng ta sẽ uống hết ly giấy này đến ly giấy khác đến khi người uống ít hơn thua.”
Và đấy đại khái là những gì họ đã làm, chỉ dừng lại để tắt đèn lúc 11:00 để Đại Bàng khỏi ghé qua. Họ trò chuyện chút đỉnh, nhưng hầu như là nốc rượu, và tôi quên luôn đoạn đối thoại rồi nheo mắt nhìn xuyên đêm, dòm mấy cái gáy sách trong Thư Viện Cuộc Đời của Alaska. Kể cả khi bỏ đi những cuốn cô ấy đã mất trong trận lụt nhỏ, tôi vẫn có thể thức tới sáng để đọc qua hàng đống tựa chất ngẫu nhiên. Một tá bông tulip trắng trong bình hoa bằng nhựa được đặt bừa trên một trong những chồng sách, và khi tôi hỏi, cô ấy chỉ nói, “Ngày kỉ niệm của Jake và mình,” và tôi không thèm tiếp tục chủ đề ấy nữa, nên trở lại dòm tựa sách, và tôi đang tự hồi mình có nên học lời trăng trối của Edgar Allan Poe không (nói cho bạn biết: “Chúa cứu rỗi linh hồn tội nghiệp của tôi”) thì Alaska nói, “Bé Bự thậm chí còn không nghe chúng ta.”
Và tôi đáp. “Mình đang nghe đây.”
“Chúng mình nói về Nói Thật hay Thách Đố. Hồi lớp bảy cậu chơi chán rồi hay vẫn có hứng?”
“Chưa bao giờ chơi qua,” tôi nói. “Hồi lớp bảy mình không có bạn.”
“A, vậy chốt luôn!” cô ấy hét lên, hơi lớn tiếng so với việc trời đã khuya và cũng so với việc cô ấy đang uống rượu công khai trong phòng. “Nói Thật hay Thách Đố!” “Được rồi,” tôi đồng ý, “nhưng mình không hôn Đại Tá đâu đấy.”
Đại Tá ngồi sụp xuống một góc tường. “Không hôn được. Xỉn quá rồi.”
Alaska bắt đầu. “Nói Thật hay Thách Đố, Bé Bự.” “Thách đố.”
“Lại hôn mình nào.”
Nên tôi làm theo.
Nhanh gọn lẹ. Tôi bật cười, hơi bối rối, và cô ấy ngả người về trước rồi nghiêng đầu sang bên, và chúng tôi hôn nhau. Không một lớp vải giữa chúng tôi. Lưỡi chúng tôi quấn quít trong miệng người kia đến khi không còn là miệng của cô ấy hay miệng của tôi mà là miệng của chúng tôi dán chặt vào nhau. Cô ấy có vị thuốc lá và Mountain Dew và rượu và son dưỡng Chap Stick. Tay cô ấy ôm lấy mặt tôi và tôi cảm thấy những ngón tay mềm mại của cô ấy đang lướt dọc quai hàm tôi. Chúng tôi nằm xuống trong lúc hôn nhau. Alaska đè trên người tôi, và tôi bắt đầu cử động bén dưới cô ấy. Tôi tách ra một lúc để nói, “Chuyện gì đang diễn ra thế?” và cô ấy đặt một ngón tay lên môi và chúng tôi hôn nhau lần nữa. Một bàn tay nắm lấy tay tôi và Alaska đặt nó lên bụng cô ấy. Tôi di chuyển chậm rãi ở trên và cô ấy oằn lưng một cách dẻo dai bên dưới tôi.
Tôi lại tách ra. “Còn Lara thì sao? Jake?” Một lần nữa, Alaska suỵt tôi. “Ít lưỡi, nhiều môi,” cô ấy nói, và tôi cố hết sức. Tôi tưởng dùng lưỡi là trọng điểm, nhưng cô ấy mới là chuyên gia.
“Lạy Chúa,” Đại Tá nói khá to. “Quái vật hắc ám, rắc rối, đang tới gần. ’
Nhưng chúng tôi không để tâm. Alaska kéo tay tôi từ hông lên ngực, và tôi cẩn thận rờ rẫm, vuốt ve quanh vùng ngực rồi ôm lấy một bên, bóp nhẹ. “Cậu giỏi lắm,” cô ấy thì thầm. Môi cô ấy chưa từng rời tôi trong lúc nói chuyện. Chúng tôi di chuyển cùng nhau, người tôi kẹp giữa hai chân cô ấy.
“Vui thật đấy,” Alaska thì thầm,” nhưng mình buồn ngủ quá. Lần sau tiếp tục nhé?” cô ấy hôn tôi thêm một lúc, tôi rướn môi cố áp sát vào miệng cô, và rồi cô ấy cục cựa ở bên dưới tôi, gác đầu lên ngực tôi, và thiếp đi ngay lập tức.
Chúng tôi đã không làm tình. Chúng tôi đã không khoả thân. Tôi đã không chạm vào bộ ngực trần của cô ấy, và tay cô ấy chưa bao giờ đưa xuống quá eo tôi. Chẳng còn quan trọng nữa. Trong lúc Alaska ngủ, tôi thì thầm, “Mình yêu cậu, Alaska Young.”
Khi tôi sắp thiếp đi, Đại Tá cất tiếng. “Ê, mày vừa ân ái với Alaska à?”
“Ờ.”
“Chuyện này sẽ kết thúc tệ lắm,” gã tự nói với bản thân.
Rồi tôi chìm vào giấc ngủ. Giấc ngủ say vẫn-còn-dư-vị-của-cô-ấy-trong-miệng, giấc ngủ không hẳn yên bình nhưng đồng thời cũng khó tỉnh giấc. Và rồi tôi nghe điện thoại reng, tôi nghĩ vậy. Và tôi nghĩ, dù tôi không biết rõ, tôi đã thấy Alaska ngồi dậy. Tôi nghĩ mình nghe tiếng cô ấy rời đi. Tôi nghĩ thế. Cô ấy đi bao lâu thì không rõ.
Nhưng rồi cả Đại Tá và tôi đều tỉnh ngủ khi cô ấy trở lại, không cần biết lúc nào, vì cô ấy đã sập của. Alaska khóc nức nở, như buổi sáng sau Lễ Tạ ơn nhưng tệ hơn.
“Mình phải ra khỏi đây!” Cô ấy thét lên.
“Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
“Mình quên mất! Chúa ơi, mình còn làm hỏng chuyện bao nhiêu lần nữa đây?” cô ấy bảo. Tôi thậm chí còn không có thời gian để thắc mắc cô đã quên gì trước khi có gào to, “MÌNH PHẢI ĐI. GIÚP MÌNH RA KHỎI ĐÂY NGAY!”
“Cậu cần đi đâu?”
Alaska ngồi xuống và vùi đầu vào giữa hai chân, khóc tức tưởi. “Cậu chỉ cần đánh lạc hướng Đại Bàng ngay bây giờ để mình chuồn đi thôi. Hai cậu làm ơn.”
Đại Tá và tôi, cùng một lúc, cảm thấy tội lỗi, đồng loạt trả lời, “Được rồi.”
“Nhớ đừng bật đèn,” Đại Tá nói. “Chỉ cần lái thật chậm và đừng bật đèn. Cậu có chắc là mình ổn không?”
“Chết tiệt,” cô ấy thốt lên. “Cậu chỉ việc xử lí Đại Bàng cho mình là được,” cô ấy nói, lại nửa nức nở nửa gào thét kiểu con nít. “Chúa ơi, ôi Chúa ơi, mình thật sự xin lỗi."
“Được,” Đại Tá nói. “Rồ máy xe khi cậu nghe tiếng pháo thứ hai.”
Chúng tôi rời đi.
Chúng tôi đã không nói: Đừng lái xe. Cậu đang say.
Chúng tôi đã không nói: Chúng mình sẽ không để cậu chui vào cái xe đó khi đang hoảng loạn đâu.
Chúng tôi đã không nói: Chuyện này có thể chờ tới ngày mai. Bất cứ chuyện gì—tất cả mọi chuyện đều có thể chờ.
Chúng tôi đi về phòng tắm, chộp lấy ba dải pháo còn thừa từ bên dưới bồn rửa mặt, và chạy đến nhà Đại Bàng. Hai thằng tôi không chắc trò này còn hiệu nghiệm hay không.
Nhưng nó vẫn xài được. Đại Bàng lao ra khỏi nhà ngay sau khi dải pháo thứ nhất bắt đầu nổ, ổng đang chờ chúng tôi, tôi đoán thế và chúng tôi chạy về phía rừng cây và dụ ổng vào đủ sâu để không nghe thấy cô ấy lái xe đi. Đại Tá và tôi vòng ngược lại, lội qua con lạch để tiết kiệm thời gian, trèo vô cửa sổ phía sau Phòng 43, và ngủ như những đứa trẻ.