← Quay lại trang sách

ngày hôm sau

ĐẠI TÁ NGỦ một giấc trằn trọc vì say xỉn, và tôi nằm ngửa trên giường tầng dưới, bờ môi râm ran và rừng rực như vẫn còn hôn, và chúng tôi sẽ ngủ qua giờ học buổi sáng nếu Đại Bàng không đánh thức chúng tôi dậy vào lúc 8:00 với ba tiếng gõ cửa dồn dập. Tôi lăn qua lúc ổng mở cửa, và ánh sáng tràn vào phòng.

“Các trò cần đến phòng thể dục ngay,” ổng nói. Tôi nheo mắt nhìn về phía ổng, cả người Đại Bàng hóa thành vô hình bởi ánh nắng mặt trời gay gắt từ phía sau. “Ngay bây giờ,” ổng thêm vào, và tôi đã hiểu. Chúng tôi xong đời rồi. Bị bắt quả tang. Quá nhiều vi phạm. Uống quá nhiều rượu trong quãng thời gian quá ngắn. Tại sao tối qua họ lại uống chứ? Và rồi tôi nếm được hương vị của cô ấy lần nữa, rượu và khói thuốc lá và son dưỡng và Alaska, và tôi tự hỏi liệu có phải có hôn tôi chỉ vì say. Đừng trục xuất tôi, tôi nghĩ. Đừng. Tôi vừa mới bắt đầu hôn cô ấy thôi.

Và như thể đáp lại lời nguyện cầu của tôi, Đại Bàng nói, “Các trò không gặp rắc rối gì hết. Nhưng các trò cần phải đến phòng thể dục ngay bây giờ.”

Tôi nghe tiếng Đại Tá trở người ở phía trên. “Chuyện gì thế ạ?”

“Một chuyện khủng khiếp đá xảy ra,” Đại Bàng đáp, rồi đóng cửa.

Trong lúc chộp lấy một chiếc quần jean nằm trên sàn, Đại Tá nói, “Mấy năm trước một việc tương tự đã diễn ra. Hồi vợ của Tiến sĩ Hyde chết. Tao đoán giờ người chết là Ông Già. Ông lão đáng thương đúng là không còn mấy hơi thở.” Gã nhìn tôi, đôi mắt hé nửa đỏ lè, và ngáp.

“Mày nhìn hơi vạ vật đấy,” tôi để ý.

Gã nhắm mắt lại. “Ờ, thế thì tao giả vờ giỏi phết, Bé Bự ạ, vì tao đang choáng váng mặt mày đây.”

“Tao đã hôn Alaska.”

“Ờ. Tao không có xỉn đến thế. Đi thôi.”

Chúng tôi băng qua kí túc xá đến phòng thể dục. Tôi thấy có đứa mặc quần thụng, đứa mặc áo len không kèm sơ-mi bên trong, và một đứa mới ngủ dậy tóc tai bù xù. Tất cả giáo viên đều đến gõ cửa trong kí túc xá, nhưng tôi không thấy Tiến Sĩ Hyde. Tôi tưởng tượng ổng nằm chết trong nhà, tự hỏi ai đã tìm thấy ổng, sao họ biết ổng mất tích thậm chí trước khi ổng không đến dạy.

“Tao không thấy Tiến sĩ Hyde,’' tôi bảo Đại Tá.

“Ông già tội nghiệp.”

Lúc chúng tôi đến, phòng thể dục đã đông quá nửa. Một bục giảng đã được đặt giữa sân đấu bóng rổ, gần hàng ghế khán giả. Tôi ngồi ở- hàng sau, với Đại Tá ở ngay phía trước. Tâm trí tôi giằng xé giữa tiếc thương dành cho Tiến sĩ Hyde và nôn nao đối với Alaska, nhớ đến đôi môi cô ấy thì thầm ở thật gần, “Lần sau tiếp tục nhé?”

Và tôi đã không nghĩ tới nó, kể cả khi Tiến sĩ Hyde lết vào phòng thể dục, đi từng bước nhỏ chậm chạp về phía Đại Tá và tôi.

Tôi gõ vai Đại Tá và nói, “Tiến sĩ Hyde đến kìa,” và Đại Tá bảo, “Ôi chết tiệt,” và tôi nói, “Cái gì?” và gã hỏi, “Alaska đâu rồi?” và tôi đáp, “Không,” và gã lại hỏi, “Bé Bự, nó có ở đây hay không?” và rồi cả hai chúng tôi đều đứng lên để lướt mắt qua những gương mặt trong phòng.

Đại Bàng đi đến chỗ bục giảng và nói, “Tất cả có mặt hết rồi chứ?”

“Không,” tôi bảo ổng. “Alaska chưa tới.”

Đại Bàng nhìn xuống. “Tất cả có mặt hết rồi chứ?” “Alaska chưa tới!”

“Được rồi, Miles. Cảm ơn em.”

“Chúng ta không thể bắt đầu mà thiếu Alaska.”

Đại Bàng nhìn thẳng vào tôi. Ông đang khóc, một cách lặng lẽ. Nước mắt chỉ chảy từ mắt xuống cằm và rồi rớt xuống cái quần nhung kẻ của ổng. Ổng nhìn tôi chằm chằm, nhưng không phải Ánh Nhìn Kết Tội. Ổng chớp mắt để nước chảy xuống mặt, Đại Bàng trông như, với vẻ rất chân thành, đang tiếc thương.

“Xin thầy,” tôi van vỉ. “Thầy làm ơn chờ Alaska được không?” tôi cảm nhận được mọi người đang nhìn mình chăm chú, cố hiểu ra chuyện tôi vừa biết, nhưng không tin nổi.

Đại Bàng cúi đầu và cắn môi dưới. “Đêm qua, Alaska Young đã gặp phải một tai nạn thảm khốc.” Đoạn nước mắt ổng rơi lã chã. “Và trò ấy đã tử vong. Alaska đã qua đời.”

Trong một thoáng, tất cả những người ở trong phòng thể dục đều im lặng, và nơi này chưa bao giờ lắng đọng đến thế, kể cả trước khi đối thủ bị Đại Tá nhạo báng đứng trước vạch ném phạt. Tôi nhìn chằm chập vào sau gáy của Đại Tá. Tôi chỉ nhìn, nhìn mái tóc rậm rịt và bù xù của gã. Trong một thoáng, xung quanh im lặng đế mức bạn có thể nghe âm thanh chẳng-phải-tiếng-thở', tiếng máy hút bụi do 190 học sinh bị sốc tới bất động.

Tôi nghĩ: Tất cả là lỗi của mình.

Tôi nghĩ: Tôi thấy không được khỏe.

Tôi nghĩ: Tôi sẽ nôn.

Tôi đứng dậy và chạy ra ngoài. Tôi đến được chỗ thùng rác bên ngoài phòng thể dục, cách cánh cửa đôi chừng một mét rưỡi, và nôn thốc nôn tháo trước những chai nước Gatorade và bánh hamburger McDonald’s ăn dở. Nhưng không có gì trào ra cả. Tôi chỉ thở dốc, cơ bụng của tôi thít chặt và tôi há họng và thốt lên tiếng ụa tận họng, lặp đi lặp lại qui trình ói mửa. Giữa những tiếng nôn và ho, tôi hít vào thật sâu. Môi của cô ấy. Bờ môi lạnh lẽo, đã chết của cô ấy. Lần sau không tiếp tục. Tôi biết cô ấy say. Hoảng loạn. Rõ ràng bạn không thể để một người say và hoảng loạn lái xe. Rõ ràng. Và lạy Chúa, Miles, mày bị cái quái gì vậy? Và rồi, cuối cùng tôi cũng nôn, tóe hết vào thùng rác. Đấy là tất cả dư vị của cô ấy còn trong miệng tôi, đã trôi vào thùng rác. Và lại nôn, nhiều hơn và được rồi, bình tĩnh đi, được rồi, nghiêm túc đấy. Cô ấy chưa chết.

Cô ấy chưa chết. Cô ấy còn sống. Cô ấy còn sống ở đâu đó. Cô ấy ở trong rừng cây. Alaska đang trốn trong rừng cây và có ấy chưa chết, cô ấy chỉ đang trốn thôi. Cô ấy chỉ bày trò với tất cả chúng tôi. Đây chỉ là Trò Đùa Thiên Tài Của Alaska Young. Là Alaska như mọi khi, vui tính và láu cá và không biết lúc nào và làm sao để dừng lại.

Và rồi tôi cảm thấy khá hơn rất nhiều, vì cô ấy vẫn chưa chết.

Tôi quay trở lại phòng thể dục, và mọi người dường như đang ở nhiều trạng thái rã rời. Như một thứ bạn xem trên TV, như chuyên mục đặc biệt về nghi thức an táng của kênh Địa lí Quốc gia. Tôi thấy Takumi đứng cạnh Lara, tay cậu ta đặt trên vai em. Tôi thấy Kevin với quả tóc húi cua, đầu vùi vào gối. Một cô nàng tên Molly Tan, học toán học dự bị với chúng tôi, đang gào khóc, đập nắm tay lên đùi. Tất cả những người tôi đại khái biết qua hoặc không, và tất cả bọn họ đều đau buồn, và rồi tôi nhìn thấy Đại Tá, gã ôm gối vào lòng, nằm nghiêng trên băng ghế, Madame O’Malley ngồi kế gã, vươn tay về phía vai gã nhưng không chạm hẳn vào. Đại Tá đang hét lên. Gã sẽ hít vào, rồi hét. Hít. Hét. Hít. Hét.

Ban đầu, tôi nghĩ rằng đấy chỉ là tiếng la. Nhưng sau vài nhịp thở, tôi nhận ra một âm điệu. Và sau vài nhịp nữa, tôi nhận ra Đại Tá đang nói gì đó. Gã đang hét lên, “Tôi thành thật xin lỗi.”

Madame O’Malley nắm lấy tay gã. “Em không việc gì phải xin lỗi, Chip ạ. Em không thể làm gì hết.” Nhưng giá như bà biết.

Và tôi chỉ đứng đó, nhìn cảnh tượng trước mặt, nghĩ về chuyện cô ấy chưa chết, và tôi thấy một bàn tay đặt lên vai tôi và tôi quay lại nhìn Đại Bàng, và tôi bảo, “Em nghĩ cô ấy đang bày ra một trò chơi ngu ngốc,” và ổng nói, “Không, Miles, không đâu, tôi rất tiếc,” và tôi nhận ra hai má mình đang nóng lên và nói, “Cô ấy rất giỏi. Cô ấy làm được,” và ổng đáp, “Tôi đã nhìn thấy trò ấy. Tôi xin lỗi.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Có người đốt pháo trong rừng,” ổng nói, và tôi nhắm nghiền mắt, sự thật không tránh khỏi trong bi kịch này: Tôi đã giết cô ấy. “Tôi đuổi theo họ, và tôi đoán trò ấy đã lái xe khỏi trường. Lúc đó trễ rồi. Alaska lái trên cao tốc I-65 xuống phía nam thị trấn. Có một chiếc xe tải lớn chở hàng chắn cả hai làn đường. Xe cảnh sát vừa mới đến hiện trường. Trò ấy tông thẳng vào xe tuần tra mà không bẻ lái. Tôi tin rằng Alaska đã rất say. Cảnh sát nói họ ngửi thấy mùi rượu.”

“Làm sao thầy biết?” tôi hỏi.

“Tôi đã thấy trò ấy, Miles. Tôi đã nói chuyện với cảnh sát. Đấy là cái chết tức thời. Ngực trò ấy đập vào vô-lăng. Tôi rất tiếc.”

Và tôi nói, thầy đã thấy cô ấy và ổng bảo ừ và tôi hỏi cô ấy trông thế nào và ổng bảo, chỉ có chút máu chảy ra từ mũi, và tôi ngồi xuống sàn phòng thể dục. Tôi nghe thấy tiếng Đại Tá đang la hét, và tôi cảm thấy mấy bàn tay đặt trên lưng lúc chúi người về trước, nhưng tôi chỉ nhìn thấy cô ấy trần truồng nằm trên một cái bàn kim loại, một dòng máu nhỏ chạy khỏi chiếc mũi mang hình nửa giọt nước, đôi mắt xanh mở to, nhìn về xa xăm, khóe miệng cô ấy cong lên vừa đủ để phảng phất một nụ cười, và cô ấy đã rất ấm khi ôm tôi, bờ môi mềm mại và nóng hổi kề sát miệng tôi.

Đại Tá và tôi trở lại phòng mình trong im lặng. Tôi đang nhìn chằm chằm mặt đất bên dưới mình. Tôi không thể ngưng nghĩ rằng cô ấy đã chết, và tôi không thể ngưng nghĩ rằng cô ấy không thể chết. Người ta không chết dễ như thế. Tôi không thở được. Tôi thấy sợ, như ai đó vừa nói rằng họ sẽ đuổi đánh tôi sau khi tan học và giờ đã là tiết thứ sáu và tôi biết rõ điều gi đang đến. Hôm nay thật lạnh, lạnh như muốn đóng băng và tôi tưởng tượng mình chạy tới chỗ con lạch và cắm đầu nhảy xuống, nó nông đến nỗi đá cứa vào tay tôi và toàn thân tôi chìm vào nước lạnh, giá băng bất chợt chuyển sang tê dại, và tôi sẽ ở yên đó, trôi cùng dòng chảy xuống con sông Cahaba, rồi tới sông Alabama, rồi tới Vịnh Mobile và Vực Thẳm Mexico.

Tôi muốn tan vào bãi cỏ nâu giòn rụm mà Đại Tá và tôi đã giẫm lên trong lúc lặng lẽ đi về phòng. Chân gã thật lớn, quá lớn cho thân hình thấp bé của gã, và đôi giày tennis mới cáu gã mang từ khi đôi cũ bị tè vào trông gần giống giày của một thằng hề. Tôi nghĩ đến đôi dép xỏ ngón đính trên những ngón chân xanh của Alaska khi chúng tôi đung đưa trên xích đu bằng gỗ cạnh bờ hồ. Quan tài sẽ mở nắp chứ? Chuyên gia trang điểm xác chết có tái tạo được nụ cười của cô ấy không? Tôi vẫn nghe thấy Alaska nói: “Vui thật đấy, nhưng mình buồn ngủ quá. Lần sau tiếp tục nhé?”

Lời trăng trối của nhà truyền giáo ở thế kỉ mười chín Henry Ward Beecher là “Giờ sẽ đến phần bí ẩn.” Thi sĩ Dylan Thomas, thích uống rượu ngon, ít nhất là, giống như Alaska, đã nói, “Ta đã uống một mạch mười tám ly whiskey. Ta tin rằng đấy là kỉ lục,” trước khi chết. Nhà soạn kịch yêu thích của Alaska, Eugene O’Neil: “Sinh ra trong phòng khách sạn, và—Chết tiệt—chết đi trong phòng khách sạn.” Thậm chí những người chết vì tai nạn giao thông thi thoảng cũng có lời trăng trối. Công nương Diana đã nói, “Ôi lạy Chúa. Chuyện gì xảy ra vậy?” Siêu sao điện ảnh James Dean thì bảo, “Họ phải thấy chúng ta,” trước khi tông chiếc Porsche của ông vào một cái xe khác. Tôi biết rất nhiều lời trăng trối. Nhưng tôi sẽ không bao giờ biết được lời trăng trối của cô ấy.

Tôi đi vượt gã vài bước trước khi nhận ra Đại Tá đã ngã xuống. Tôi quay lại, và gã đang nằm sấp. “Chúng ta phải đứng dậy, Chip. Chúng ta phải đứng dậy. Chúng ta chỉ cần về phòng thôi.”

Đại Tá trỏ mặt ở dưới đất và nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói, “Tao. Không. Thở. Được.”

Nhưng gã thở được, và tôi biết điều này vì gã đang thở gấp, gã thở như muốn thổi không khí vào người chết. Tôi đỡ gã dậy, và gã ôm lấy tôi và bắt đầu nức nở, lặp lại, “Tôi thành thật xin lỗi,” hết lần này đến lần khác. Trước đó chúng tôi chưa bao giờ ôm nhau, tôi và Đại Tá, và tôi không có gì để nói, vì gã đúng là phải xin lỗi, và tôi chỉ đặt tay lên phía sau đầu gã và nói sự thật duy nhất. “Tao cũng xin lỗi.”

hai ngày sau

ĐÊM ĐÓ TÔI KHÔNG NGỦ. Bình minh đến chậm, và kể cả khi nó đã đến, ánh nắng chiếu rọi qua bức mành và luồng bức xạ heo hắt vẫn không thể sưởi ấm chúng tôi, nên Đại Tá và tôi lặng lẽ ngồi trên sofa. Gã đọc cuốn niên giám.

Đêm trước đó, tôi đã cố chịu lạnh để gọi cho cha mẹ, và lần này khi tôi nói, “A-lô, là con Miles đây,” và mẹ tôi trả lời “Chuyện gì vậy? Mọi thứ ổn chứ con?” thi tôi dõng dạc trả lời bà rằng không, mọi thứ không ổn chút nào. Sau đó cha tôi liền cầm lấy ống nghe.

“Có chuyện gì thế con?” ông hỏi.

“Anh đừng hét,” mẹ tôi nói.

“Anh không hét; là cái điện thoại thôi.”

“Thì nói nhỏ tiếng lại,” mẹ bảo, và tôi mất một lúc mới mở được miệng, và khi mở miệng, tôi phải mất một lúc mới có thể sắp xếp thành câu, bạn của con Alaska đã chết vì tai nạn xe hơi. Tôi nhìn chằm chằm vào những dãy số và tin nhắn viết nguệch ngoạc trên bức tường cạnh bốt điện thoại.

“Ôi, Miles,” mẹ nói. “Mẹ rất tiếc. Con muốn về nhà không?”

“Không,” tôi đáp. “Con muốn ở lại đây... con không tin được,” vốn đúng một phần.

“Kinh khủng quá,” cha tôi nói. “Tội nghiệp bố mẹ con bé.” Tội nghiệp bố cô ấy, tôi nghĩ, và tự hỏi về bố cô ấy. Tôi thậm chí còn không tưởng tượng nổi cha mẹ sẽ thế nào nếu tôi chết. Say rượu lái xe. Chúa ơi, nếu bố cô ấy phát hiện, ổng sẽ mổ bụng Đại Tá và tôi.

“Chúng ta có thể làm gì cho con bây giờ?” mẹ tôi hỏi.

“Con chỉ cần mẹ bắt máy. Con chỉ cần mẹ trả lời điện thoại, và mẹ đã làm.” Tôi nghe có tiếng sụt sịt phía sau vì lạnh hay thương tiếc, tôi không biết nữa và nói với cha mẹ. “Có người đang đợi điện thoại. Con phải đi đây.”

Cả đêm, tôi sững sờ đến câm lặng, khiếp sợ tột cùng. Mà tôi sợ cái gì chứ? Chuyện đó đã xảy ra. Cô ấy đã chết. Cô ấy ấm áp và mềm mại khi ôm tôi, lưỡi của tôi đặt trong miệng cô ấy, và cô ấy đang cười, cố dạy cho tôi, giúp tôi tiến bộ hơn, hứa sẽ có lần sau. Và giờ.

Và giờ cô ấy lạnh lẽo hơn từng giờ, chết dần mòn theo từng hơi tôi thở. Tôi nghĩ: Đấy là nỗi SỢ: Mình đã đánh mất một thứ quan trọng, và mình không thể tìm thấy nó, và mình cần nó. Nó là nỗi sợ như một người mất kính và đến tiệm kính và họ bảo anh ta rằng toàn thế giới đã hết kính và anh ta phải chịu thôi.

Trước tám giờ sáng một chút, Đại Tá tuyên bố vu vơ, “Tao nghĩ trưa hôm nay có món burri-chiên.”

“Ờ, tôi nói. “Mày đói không?”

“Quỷ thần ơi, không. Nhưng Alaska đã đặt tên cho chúng, mày biết đấy. Lúc tụi tao mới đến đây chúng được gọi là burrito chiên giòn, và Alaska bắt đầu gọi chúng là burri-chiên, và mọi người làm theo, và rồi cuối cùng Maureen chính thức đổi tên món.” Gã khựng lại. “Tao không biết phải làm gì hết, Miles.”

“Ừa, tao biết.”

“Tao học thuộc tên thủ đô rồi,” gã nói.

“Của các tính bang?”

“Không. Đấy là hồi lớp năm. Của các quốc gia. Đọc tên một nước đi.”

“Canada,” tôi nói.

“Nước nào khó hơn chút.”

“Ưm. Uzbekistan?”

“Tashkent.” Gã thậm chí còn không mất thời gian suy nghĩ. Nó ở đó, ngay đầu lưỡi của gã, nhưng thể gã đã đợi tôi nói “Uzbekistan” từ nãy đến giờ. “Hút thuốc thôi.”

Chúng tôi đi tới phòng tắm và bật vòi sen, và Đại Tá lôi ra một hộp diêm từ túi quần và quẹt một que lên giấy đánh lửa. Nó không sáng. Lần nữa, gã thử và thất bại, và lần nữa, đập vào giấy đánh lửa với cơn giận tăng cao cho đến khi gã quăng bẹp đống diêm xuống sàn và hét, “QUỶ THA MA BẮT!”

“Không sao,” tôi nói, đút tay vào túi tìm hộp quẹt.

“Không, Bé Bự, không hề,” gã nói, ném điếu thuốc xuống và đứng dậy, nổi nóng bất tử. “Quỷ tha ma bắt! Chúa ơi, sao chuyện này lại xảy ra? Sao nó có thể ngu như thế! Nó chẳng bao giờ suy nghĩ cái gì. Bốc đồng quá đáng. Chúa ơi. Không ổn chút nào. Tao không tin được là nó ngu đến vậy!”

“Đáng ra chúng ta nén ngăn cô ấy,” tôi nói.

Gã vươn tay vào buồng tắm để tắt vòi nước nhỏ giọt và rồi đập lòng bàn tay lên tường gạch. “Ư, tao biết chúng ta nên ngăn nó lại, chết tiệt. Tao chắc như đinh đóng cột là chúng ta nên ngăn nó lại. Nhưng chúng ta không cần phải làm thế. Mày phải theo dõi nó như một đứa nhỏ ba tuổi. Mày làm sai một thứ, và rồi nó chết luôn. Khỉ gió! Tao không chịu nổi. Tao đi dạo đây.”

“Được,” tôi trả lời, cố giữ giọng bình tĩnh.

“Tao xin lỗi,” gã nói. “Tao bức xúc quá. Tao cảm thấy mình sẽ chết.”

“Có thể,” tôi đáp.

“Phải. Phải. Biết đâu được. Mày đâu thể ngờ. Nó chỉ. Như là. BÙM. Và mày biến mất.”

Tôi theo gã vào phòng. Gã chộp lấy cuốn niên giám trên giường, kéo khóa áo khoác, đóng cửa, và BÙM. Gã biến mất.

Buổi sáng đầy khách. Một tiếng sau khi Đại Tá rời đi, con nghiện thường trú Hank Walsten ghé qua để cho tôi chút cỏ, và tôi nhã nhặn từ chối. Hank ôm tôi và nói, “Ít nhất nó chết liền. Ít nhất là không đau đớn gì.”

Tôi biết anh ta chỉ đang cố an ủi tôi, nhưng anh ta không hiểu. Đau đớn chứ. Một nỗi đau nhức nhối vô tận trong ruột gan mãi không rứt đi kể cả khi tôi quì trên sàn phòng tắm lạnh cóng, liên tiếp nôn khan.

Và chết “liền” là gì? Liền là bao lâu? Một giây? Mười? Đau đớn trong những giây đó hẳn đã rất tồi tệ khi trái tim cô ấy vỡ tung và lá phổi vụn vỡ và không còn không khí và máu dồn lên não và chỉ còn hoảng loạn tột cùng. Liền là cái quái gì? Không có gì xảy ra liền hết. Cơm ăn liền nấu mất năm phút, bánh flan ăn liền mất cả tiếng. Tôi không nghĩ nỗi đau buốt xương xảy ra liền lại có cảm giác chóng vánh tức thời.

Có đủ thời gian để cả cuộc đời hiện ra trước mắt cô ấy không? Tôi có ở đấy không? Jake có không? Và cô ấy đã hứa, tôi nhớ, cô ấy đã hứa sẽ tiếp tục, nhưng tôi cũng biết, rằng cô ấy đang lái về phía bắc khi qua đời, phía bắc đến Nashville, đến với Jake. Biết đâu nó chẳng có nghĩa lí gì với cô ấy, chẳng là gì ngoài một phút bốc đồng nông nổi khác. Và trong lúc Hank đứng ở cửa, tôi chỉ nhìn ra phía sau anh ta, qua kí túc xá quá-vắng-lặng, thầm hỏi liệu tôi có quan trọng với cô ấy không, và tôi chỉ có thể tự trả lời rằng có, dĩ nhiên, cô ấy đã hứa. Lần sau tiếp tục.

Tiếp theo là Lara, mắt em nặng trịch vì sưng phồng. “Chuyện gì vậy anh?” em hỏi trong lúc tôi ôm em, nhón chân để gác cằm lên đầu em.

“Anh không biết,” tôi nói.

“Tối hôm đó anh có gập chị ấy không?” em hỏi, nói vào xương quai xanh của tôi.

“Cô ấy uống say,” tôi bảo em. “Đại Tá và anh đi ngủ, và anh đoán cô ấy đã lái xe khỏi trường.” Và đấy trở thành lời nói dối cơ bản.

Tôi cảm thấy những ngón tay của Lara, ướt đẫm vì nước mắt, ép sát vào lòng bày tay tôi, và trước khi tôi kịp suy nghĩ, tôi đã rút tay ra. “Anh xin lỗi,” tôi nói.

“Không chao đâu,” em ấy nói. “Em xẽ ờ trong phòng níu anh muốn ghé qua.” Tôi đã không ghé qua. Tôi không biết phải nói gì với em, tôi đang kẹt trong một mối tình tay ba với một người đã chết.

Trưa hôm ấy, chúng tôi lại đến phòng thể dục lần nữa để họp mặt toàn thị trấn. Đại Bàng tuyên bố cả trường sẽ thuê xe buýt vào Chủ Nhật để đến dự đám tang ở Trạm Vine. Trong lúc đứng lên rời đi, tôi nhận ra Takumi và Lara đi về phía mình. Lara bắt gặp ánh mắt tôi và mỉm cười uể oải. Tôi cười đáp lại, nhưng ngay lập tức quay đi và giấu mình vào đám đông thương tiếc đang rời khỏi phòng.

Tôi đang ngủ, và Alaska bay vào phòng. Cô ấy khỏa thân, và toàn vẹn. Ngực cô ấy, mà tôi chỉ được rờ rẫm thoáng qua trong bóng tối, căng tràn sức sống trong lúc trĩu xuống từ người cô. Cô ấy lơ lửng phía trên tôi vài phân, hơi thở ấm nóng và ngọt ngào phả trên mặt tôi như gió thổi qua những ngọn cỏ cao.

“Chào,” tôi nói. “Mình nhớ cậu.”

“Trông cậu tuyệt lắm, Bé Bự.”

“Cậu cũng thế.”

“Mình lõa thể quá,” cô ấy nói, và bật cười. “Sao mình lõa thể như vậy?”

“Mình chỉ muốn cậu ở lại,” tôi nói.

“Không,” Alaska đáp, và ngã sụp xuống người tôi, đè bẹp ngực tôi, làm tôi đứt thở, và cô ấy lạnh lẽo và ướt đẫm, như đá đang tan. Đầu cô ấy bị chẻ đôi, một chất nhầy đặc quánh màu hồng ứa ra từ vết nứt trên xương sọ và nhỏ xuống mặt tôi, và cô ấy hôi mùi formaldehyde và thịt thối rữa. Tôi nôn ọe và đẩy cô ấy ra khỏi người, hốt hoảng.

Tôi ngã xuống khi tỉnh dậy, và đáp đất với một tiếng bịch trên sàn. Tạ ơn trời tôi nằm giường tầng dưới. Tôi đã ngủ mười bốn tiếng. Trời đã sáng. Thứ Tư, tôi nghĩ. Đám tang của cô ấy vào Chủ Nhật. Tôi tự hỏi liệu Đại Tá có về kịp lúc đó không, dù gã đang ở đâu. Gã phải trở về dự đám tang, vì tôi không thể đi một mình, và đi với ai khác ngoài Đại Tá cũng đi một mình.

Gió lạnh đập mạnh ngoài cửa, và hàng cây bên ngoài cửa sổ phía sau rung lắc dữ dội đến mức tôi nghe thấy chúng từ phòng mình, và tôi ngồi trên giường nghĩ đến Đại Tá đang ở đâu đó ngoài kia, đầu gã cúi xuống, hàm răng nghiến chặt, rồi đi về hướng gió.

bốn ngày sau

LÚC ĐÓ LÀ NĂM GIỜ SÁNG, tôi đang đọc tiểu sử của nhà thám hiểm Meriwether Lewis (cùng tiếng tăm của Clark) và cố giữ mình tỉnh táo thì cửa bật mở và Đại Tá bước vào.

Đôi tay trắng bệch của gã run rẩy, và cuốn niên giám gã cầm trong như một con rối đang nhảy mà không cần dây. “Mày lạnh không?” tôi hỏi.

Gã gật đầu, cởi giày thể thao, và trèo vào giường tầng dưới của tôi, kéo mền đắp kín người. Răng gã va lập cập như mã Morse.

“Chúa ơi. Mày không sao chứ?”

“Đỡ rồi. Ấm hơn,” gã nói. Một bàn tay nhợt nhạt nhỏ tí, ma quỷ xuất hiện từ bên dưới lớp mền. “Nắm tay tao được không?”

“Được, nhưng chỉ thế thôi. Không hôn đâu.” Tấm mền bông rung lên cùng tràng cười của gã.

“Mày đã đi đâu?”

“Tao cuốc bộ tới Montevallo.”

“Bốn mươi dặm?!”

“Bốn mươi hai,” gã chỉnh lại. “Ờ. Bốn mươi hai dặm đi. Bốn mươi hai dặm về. Tám mươi hai dặm. Không. Tám mươi tư. Ờ. Tám mươi tư dặm trong bốn mươi lăm tiếng.”

“Có cái quái gì ở Montevallo?” tôi hỏi.

“Chả có gì. Tao chỉ đi đến khi lạnh cóng, và rồi tao quay lại.”

“Mày không ngủ hả?”

“Không! Mấy giấc mơ thật kinh khủng. Trong giấc mơ của tao, Alaska thậm chí còn không giống như bình thường nữa. Tao còn không nhớ nổi trông nó như thế nào.”

Tôi buông tay gã, lấy cuốn niên giám năm ngoái, và tìm thấy ảnh của cô ấy. Trong tấm hình đen trắng, Alaska mặc chiếc áo ba lỗ màu cam và quần đùi jean dài đến nửa cặp đùi thon gọn, cô ấy cười há to miệng trong lúc tay trái khóa chặt đầu Takumi. Tóc Alaska bung xõa khắp mặt, vừa đủ để che khuất hai gò má.

“Phải,” Đại Tá nói. “Ờ. Tao quá mệt mỏi vì nó cứ buồn bã vô cớ. Cái kiểu giận dỗi và bóng gió về gánh nặng xiềng xích của bi kịch hay gì đó nhưng không bao giờ nói rõ chuyện gì, không bao giờ có cái lí do khỉ gió nào để buồn cả. Và tao chỉ nghĩ là mày cần phải có một lí do. Bạn gái tao đá tao nên tao buồn. Tao bị bắt quả tang hút thuốc nên tao tức. Đầu tao nhức nên tao khó ở. Nó chưa bao giờ có lí do, Bé Bự ạ. Tao chỉ quá mệt vì phải chịu đựng mấy trò làm quá của nó. Và tao chỉ để nó đi. Lạy Chúa.”

Tính khí ẩm ương của Alaska cũng làm tôi bực, đôi lần, nhưng không phải đêm đó. Đêm đó tôi để cô ấy đi vì cô ấy bảo tôi thế. Đơn giản như vậy đấy, và thật ngu ngốc làm sao.

Tay của Đại Tá thật nhỏ, và tôi siết chặt nó, cái lạnh từ gã truyền sang tôi và hơi ấm của tôi truyền sang gã. “Tao học hết dân số rồi,” gã nói.

“Uzbekistan.”

“Hai mươi bốn triệu bảy trăm năm mươi lăm ngàn năm trăm mười chín.”

“Cameroon,” tôi nói, nhưng đã quá trễ. Gã đã say giấc, tay gã mềm oặt trong tay tôi. Tôi đặt nó trở lại dưới mền và trèo lên giường gã, ít nhất đêm nay tôi sẽ nằm giường trên. Tôi thiếp đi trong lúc lắng nghe nhịp thở chậm rãi, đều đặn của gã, tính ngoan bướng của gã cuối cùng cũng tan chảy dưới nhọc mệt khó qua.

sáu ngày sau

CHỦ NHẬT HÔM ẤY, tôi thức dậy sau ba tiếng ngủ và tắm táp lần đầu tiên trong một thời gian dài. Tôi mặc bộ com-lê duy nhất tôi có. Tôi suýt đã không mang theo nó, nhưng mẹ tôi cứ khăng khăng rằng con sẽ không biết mình cần mặc com-lê khi nào, và đúng vậy.

Đại Tá không có com-lê, và với vóc người bẩm sinh của mình, gã không thể mượn được ai ở Creek, nên gã mặc quần tây đen và một cái áo sơ-mi xám.

“Chắc tao không thắt cà-vạt hồng hạc được rồi,” gã nói trong lúc mang vớ.

“Nó hơi sặc sỡ, đối với dịp này,” tôi đáp lại.

“Không thể thắt nó đi xem opera,” Đại Tá nói, gần như mỉm cười. “Không thể thắt nó đi dự đám tang. Không thể dùng nó để treo cổ tự tử. Nó hơi vô dụng, với một cái cà- vạt mà nói.” Tôi cho gã mượn cà-vạt.

Trường đã thuê xe buýt để chở học sinh về phía Bắc đến nhà của Alaska ở Trạm Vine, nhưng Lara, Đại Tá, Takumi và tôi lái đi trong chiếc SUV của Takumi, đi ngõ sau để chúng tôi không phải lái qua nơi xảy ra tai nạn trên cao tốc. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn khu ngoại ô ngổn ngang vây quanh Birmingham dần chuyển thành triền dốc thoai thoải và những cánh đồng phía bắc Alabama.

Ở ghế trước, Takumi kể Lara nghe về chuyện Alaska bị bóp ngực hồi hè, và Lara bật cười. Đấy là lần đầu tiên tôi gặp cô ấy, và giờ chúng tôi đang đến gặp cô ấy lần cuối. Hơn tất thảy mọi thứ, tôi cảm thấy thật bất công, sự bất công khó cãi khi yêu một người đã có thể đáp lại bạn nhưng không được vì đã chết, và rồi tôi ngả về phía trước, trán áp lên phía sau đệm gối đầu của Takumi, và tôi bật khóc, rên rỉ không ngừng, và tôi thậm chí còn chẳng cảm thấy buồn cho bằng đau đớn. Đau lắm, và đấy không phải lời nói văn hoa. Tôi đau như bị ai đánh.

Lời trăng trối của Merivvether Lewis là, “Ta không hèn, mà là rất mạnh. Khó chết.” Tôi không nghi ngờ điều đó, nhưng không thể khó hơn việc bị bỏ lại. Tôi nghĩ đến Lewis trong lúc theo Lara vào nhà thờ hình chữ A nối liền với nhà tang lễ một tầng ở Trạm Vine, Alabama, một thị trấn u buồn và u buồn như Alaska đã luôn nói. Nơi này nồng mùi nấm mốc và khử trùng, và giấy dán tường màu vàng trong phòng giải lao đang bung góc.

“Các vị đến dự tang lễ của cô-Young phải không?” một ông chú hỏi Đại Tá, và Đại Tá gật đầu. Chúng tôi được dẫn vào một căn phòng lớn với nhiều hàng ghế xếp, bên trong chỉ có duy nhất một người đàn ông. Ông ấy quì ngay cỗ quan tài đặt trước gian thờ. Nắp quan tài đã đóng. Kín bưng. Không bao giờ gặp cô ấy nữa. Không thể hôn trán cô ấy. Không thể nhìn cô ấy lần cuối. Nhưng tôi rất cần, rất cần được nhìn cô ấy, và bằng giọng nói thật lớn, tôi hỏi, “Sao lại đóng quan tài?” và người đàn ông, có cái bụng lòi ra khỏi bộ com-lê quá chật, quay lại và đi về phía tôi.

“Mẹ của nó,” ông nói. “Mẹ của nó nằm trong quan tài để mở, và Alaska bảo chú, ‘Đừng bao giờ để họ thấy con chết, bố ơi,’ và thế đấy. Dù sao đi nữa, con trai à, nó không có ở đó. Nó về với Chúa rồi.”

Đoạn ông đặt hai tay lên vai tôi, người đàn ông đã mập lên kể từ lần cuối cùng ông phải mặc com-lê, và tôi không thể tin được mình đã làm gì với ông, mắt ông có màu xanh sáng như Alaska nhưng lõm sâu hơn vào hốc mắt u tối, như một hồn ma mắt xanh còn đang-sống, và không đừng đừng chết, Alaska. Đừng chết. Và tôi tách ra khỏi cái ôm của ông và đi qua Lara và Takumi để đến chỗ quan tài và quì xuống trước nó và đặt tay lên lớp gỗ đã hoàn thiện, gỗ gụ nâu sẫm, màu tóc của cô ấy. Tôi thấy bàn tay nhỏ xíu của Đại Tá đặt trên vai, và một giọt nước mắt rơi xuống đầu tôi, và trong vòng vài phút, chỉ có ba chúng tôi ở đó, xe buýt chở học sinh chưa đến, và Takumi và Lara đã biến mất, và chỉ có ba chúng tôi, ba thân thể và hai người sống, ba người đã biết chuyện gì xảy ra và quá nhiều lớp ngăn cách giữa chúng tôi, quá nhiều thứ ngăn chúng tôi lại gần nhau. Đại Tá nói, “Tao thật sự rất muốn cứu nó,” và tôi nói, “Chip, cô ấy đi rồi,” và gã bảo, “Tao tưởng tao sẽ thấy nó đang cúi xuống nhìn chúng ta, nhưng mày nói đúng. Nó đã đi rồi,” và tôi nói, “Chúa ơi, Alaska. Mình yêu cậu. Mình yêu cậu,” và Đại Tá thì thầm, “Tao xin lỗi, Bé Bự. Tao biết mày từng yêu nó,” và tôi nói, “Không. Không phải thì quá khứ.” Cô ấy thậm chí không còn là con người nữa, chỉ là một cái xác đang thối rữa, nhưng tôi yêu cô ấy ở thì hiện tại. Đại Tá quì xuống bên cạnh tôi và áp môi lên quan tài và lẩm bẩm, “Tôi xin lỗi, Alaska. Cậu xứng đáng có những người bạn tốt hơn.”

Chúng ta khó chết như thế sao, ngài Lewis? Mê hồn trận ấy có thật sự tệ hơn chuyện này không?