một trăm mười bốn ngày sau
MỘT TUẦN RƯỠI SAU, tôi trở về từ tiết học trưa, ánh nắng thiêu đốt trên da là lời nhắc nhở thường trực rằng mùa xuân ở Alabama đã đến và đi trong phút chốc, và giờ, đầu tháng Năm, mùa hè đã trở lại để ở chơi sáu tháng, tôi cảm thấy mồ hôi nhỏ giọt xuống lưng và mong sao luồng gió rét buốt tháng Một mau trở lại. Khi bước vào phòng, tôi thấy Takumi đang ngồi trên sofa, đọc cuốn tiểu sử Tolstoy của tôi.
“Ồ, chào mày,” tôi nói.
Cậu ta gấp sách lại và đặt nó xuống bên cạnh rồi nói, “Ngày 10 tháng 1.”
“Sao kia?” tôi hỏi.
“Ngày 10 tháng 1. Có ấn tượng gì không?”
“Ờ, đó là ngày Alaska chết.” về cơ bản, cô ấy chết khi đã sang ngày 11 tháng 1 được ba tiếng, nhưng nó vẫn là, ít nhất là với chúng tôi, đêm thứ Hai, ngày 10 tháng 1.
“Ừa, nhưng còn một chuyện khác, Bé Bự ạ. Ngày 9 tháng 1. Mẹ của Alaska dẫn cô ấy tới sở thú.”
“Khoan. Không. Sao mày biết?”
“Cô ấy kể cho chúng ta nghe ở Đêm Chuồng Bò. Nhớ chứ?”
Dĩ nhiên là tôi không nhớ. Nếu tôi có thể ghi nhớ những con số, tôi đã không chật vật để đạt điểm C-cộng trong môn toán học dự bị.
“Quỉ tha ma bắt,” tôi nói trong lúc Đại Tá bước vào.
“Cái gì?” Đại Tá hỏi.
“Ngày 9 tháng Một, năm 1997,” tôi bảo gã. “Alaska thích gấu. Mẹ cô ấy thích khỉ.” Đại Tá đờ đẫn nhìn tôi một lúc rồi kéo ba-lô xuống và quăng nó qua bên kia phòng trong nháy mắt.
“Quỷ tha ma bắt,” gã nói. “SAO TAO LẠI KHÔNG NGHĨ RA CHUYỆN ĐÓ CHỨ!”
Trong vòng một phút, Đại Tá đã nghĩ ra kết luận hoàn hảo nhất mà không ai trong chúng tôi có thể. “Được. Nó đang ngủ. Jake gọi tới, và nó nói chuyện với anh ta, và nó đang vẽ linh tinh, và nó nhìn mấy bông hoa trắng; và ‘Ôi Chúa ơi mẹ mình rất thích hoa trắng và đã cài chúng lên tóc mình lúc còn nhỏ,’ và rồi nó hoảng lên. Nó trở về phòng và bắt đầu la hét với chúng ta rằng nó đã quên— quên chuyện mẹ nó, dĩ nhiên nên nó cầm theo mấy bông hoa, lái xe rời khỏi trường, đến—đâu?” Gã nhìn tôi. “Đến đâu? Mộ của mẹ nó?”
Và tôi đáp, “Ừa, có thể. Ừ. Nên cô ấy vào trong xe, và cô ấy chỉ muốn đến mộ của mẹ mình, nhưng chiếc xe tải này lại chắn đường và cảnh sát đang ở đó, và cô ấy say rượu và bực tức và cô ấy đang vội, nên cô ẩy nghĩ mình có thể len qua chiếc xe cảnh sát, và cô ấy không tỉnh táo nhưng cô ấy phải đến chỗ mẹ, và cô ấy nghĩ biết đâu mình có thể len qua và BÙM."
Takumi từ tốn gật đầu, suy nghĩ, và rồi nói, “Hoặc, cô ấy vào xe với mấy bông hoa. Nhưng cô ấy lỡ ngày giỗ. Có thể cô ấy nghĩ rằng mình đã phạm sai lầm với mẹ lần nữa, trước tiên là chuyện không gọi 911, và giờ cô ấy thậm chí còn không nhớ nổi ngày giỗ của mẹ mình. Và cô ấy điên lên và cô ấy căm ghét bản thân, và cô ấy quyết định, ‘Thế đấy, mình phải đi thôi,’ và cô ấy thấy cái xe cảnh sát và cơ hội ở kia và cô ấy chỉ lao theo.’’
Đại Tá đút tay vào túi và lôi ra một hộp thuốc lá, dốc ngược nó lên BÀN CÀ PHÊ. “Chà,” gã nói. “Vậy là mọi chuyện đã sáng tỏ,”
một trăm mười tám ngày sauTHẾ LÀ CHÚNG TÔI BỎ cuộc. Tôi quá mệt mỏi với việc theo đuổi một hồn ma không muốn được tìm thấy. Chúng tôi đã thất bại, có lẽ, nhưng có vài bí ẩn không nên được giải mã. Tôi vẫn không biết rõ cô ấy như mình muốn, nhưng tôi không bao giờ có thể nữa. Cô ấy đã khiến chuyện đó rõ thành bất khả thi. Và vụ tự-nạn sẽ chẳng bao giờ là gì khác, và tôi bị bỏ lại với câu hỏi, Có phải mình đã giúp cậu đến với số phận mà cậu không muốn, Alaska, hay mình chỉ giúp cậu cố hủy hoại bản thân? Bởi vì chúng là hai tội khác nhau, và tôi không biết mình nên giận dữ vì cô ấy đã biến tôi thành một phần trong việc tự tử, hay chỉ cắn rứt vì chính tôi đã để cô ấy rời đi.
Nhưng chúng tôi đã tìm ra những gì có thể, và qua phát hiện đó, cô ấy đã đưa chúng tôi lại gần nhau hơn—Đại Tá và Takumi và tôi, đại khái là thế. Và chỉ có vậy. Alaska không để lại đủ nhiều để tôi tìm ra cô ấy, nhưng cô ấy để lại vừa đủ để tôi tìm lại Cơ Hội Lớn.
“Còn một chuyện chúng ta nên làm,” Đại Tá nói trong lúc bọn tôi cùng chơi điện tử với âm lượng mở, chỉ hai chúng tôi, như những ngày đầu trong Cuộc Điều Tra.
“Chúng ra không thể làm gì nữa.”
“Tao muốn lái trên con đường ấy,” gã nói. “Như nó đã từng.”
Chúng tôi không thể mạo hiểm rời trường vào nửa đêm như cô ấy, nên chúng tôi đi sớm hơn nửa ngày, vào 3:00 chiều, Đại Tá lái chiếc SUV của Takumi. Chúng tôi đề nghị Lara và Takumi đi cùng, nhưng họ đã chán đeo đuổi những hồn ma, bên cạnh đó, thi học kì sắp đến.
Hôm ấy là một buổi trưa rực nắng, và ánh mặt trời rọi thẳng xuống lớp nhựa đường, làm dải băng trên xa lộ run lên vì hơi nóng. Chúng tôi lái xuống Cao Tốc 119 một dặm rồi quẹo sang hướng bắc I-65, tiến về phía hiện trường tai nạn và Trạm Vine.
Đại Tá lái nhanh, và chúng tôi đều im lặng, nhìn thẳng về trước. Tôi cố tưởng tượng xem cô ấy đã nghĩ gì, một lần nữa cố nhìn thấu không gian và thời gian, để tìm vào tâm trí của cô ấy dù chỉ thoáng qua. Một cái xe cứu thương, đèn pha và còi hụ om sòm, lao vụt qua chúng tôi, đang chạy về hướng ngược lại, tiến về phía trường học, trong nháy mắt, tôi chợt thấy nôn nao, Nhỡ đâu là một người tôi biết. Tôi suýt ước gì đấy là một người tôi biết, để nỗi buồn còn hiện hữu trong tôi có thêm hình hài và chiều sâu mới.
Sự im lặng bị phá vỡ: “Đôi khi tao thấy thích,” tôi nói. “Đôi khi tao thấy thích vì cô ấy đã chết.”
“Ý mày là cảm giác nhẹ nhàng?”
“Không. Tao không biết. Cảm giác rất... thuần khiết.”
“Ờ” gã nói, quên đi tài hùng biện thường ngày. “Ờ. Tao biết. Tao cũng thế. Rất tự nhiên. Ý tao là, chuyện đó ắt hẳn là tự nhiên.”
Tôi luôn thấy sốc khi nhận ra mình không phải là người duy nhất trên thế giới có những suy nghĩ lẫn cảm giác kì lạ và kinh khủng như vậy.
Năm dặm về phía bắc ngôi trường, Đại Tá rẽ qua làn đường liên tiểu bang bên trái và bắt đầu tăng tốc. Tôi nghiến răng, và rồi trước mắt chúng tôi, những mảnh kính vỡ lấp lánh dưới ánh nắng gay gắt như thể mặt đường rải đá quí, và đó hẳn là nơi đã xảy ra tai nạn. Gã vẫn đạp chân ga.
Tôi nghĩ: Đây không phải là cách chết tồi.
Tôi nghĩ: Thẳng và nhanh, Có lẽ cô ấy đã quyết định vào phút cuối.
Và BÙM, chúng tôi đang đi qua giây phút cô ấy chết. Chúng tôi đang đi qua nơi cô ấy đã không thể đi qua, chạy trên mặt đường cô ấy sẽ không bao giờ thấy, và chúng tôi không chết. Chúng tôi không chết! Chúng tôi đang thở và đang khóc và giờ đang dần giảm tốc và quay về đúng làn đường.
Chúng tôi rẽ vào lối ra tiếp theo, im lặng, và, đổi tài, chúng tôi rảo bước tới trước xe. Chúng tôi nhìn nhau và tôi ôm lấy gã, hai tay siết thành nắm đấm quanh vai gã, và gã vòng đôi tay ngắn tủn quanh tôi và ôm thật chặt, để tôi có thể nghe tiếng ngực gã phập phồng trong lúc nhận ra hết lần này đến lần khác rằng mình vẫn còn sống. Nhận thức ập đến theo từng đợt sóng và chúng tôi ôm nhau khóc ròng và tôi nghĩ, Chúa ơi chắc hai thằng nhìn điên lắm, nhưng chẳng còn nghĩa lí gì nữa khi bạn vừa mới nhận ra, sau một lúc rất lâu, rằng bạn vẫn còn sống.
một trăm mười chín ngày sauĐẠI TÁ VÀ TÔI cắm đầu vào học một khi đã bỏ cuộc, hiểu rằng cả hai cần phải đạt điểm thi tối đa để hoàn thành mục tiêu GPA của mình (tôi muốn điểm trung bình 3.0 và Đại Tá thậm chí còn không chịu dừng ở mức 3.98). Phòng chúng tôi trở thành Trung Tâm Ôn Tập cho cả bốn đứa, Takumi và Lara ở lại suốt mấỵ giờ liền vào buổi tối để nói về Âm Thanh và CuồngNộ và nghệ thuật nói giảm nói tránh và trận Bulge. Đại Tá kèm chúng tôi toán học dự bị cho cả học kì, dù gã giỏi toán đến mức dạy chẳng dễ hiểu chút nào “Dĩ nhiên là thế rồi. Tin tao đi. Chúa ơi, đâu có khó dữ vậy” và tôi nhớ Alaska.
Khi không thể bắt kịp, tôi gian lận. Takumi và tôi chia nhau mấy bản sao giản lược của Quê Hương Tan Rã và Giã Từ Vũ Khí (“Mấy cái quỉ này dài gần chết!” có lần cậu ta kêu lên).
Chúng tôi không nói gì nhiều. Nhưng chúng tôi không cần phải nói.
một trăm hai mươi hai ngày sauMỘT CƠN GIÓ MÁT đã thổi bay cái nắng gay gắt của mùa hè, và buổi sáng mà Ông Già cho chúng tôi làm bài thi cuối cùng, ổng đề nghị chúng tôi học ở ngoài trời. Tôi tự hỏi sao cả lớp có thể ra ngoài trong khi tôi vừa bị đuổi ra khỏi lớp vào học kì trước chỉ vì liếc ra ngoài một tí, nhưng Ông Già muốn dạy học ngoài trời, nên chúng tôi nghe theo. Ông Già ngồi trên cái ghế được thằng Kevin Richman mang ra hộ, và chúng tôi ngồi trên cỏ, ban đầu tôi lóng ngóng để sổ trên đùi, sau mới đặt lên bãi cỏ rậm rạp, và mặt đất gập ghềnh làm tôi không viết được, và đám muỗi vo ve. Chúng tôi ở quá gần hồ nên không thể ngồi thoải mái, nói thật, nhưng Ông Già có vẻ hạnh phúc.
“Tôi đang cầm bài thi cuối kì của các em. Học kì trước, tôi đã cho các em hai tháng để hoàn thành luận văn cuối kì. Lần này, các em có hai tuần.” ổng dừng lại. “Chà, không vớt vát được gì nữa, tôi đoán thế.” Đoạn ổng bật cười. “Nói thật, cuối cùng tôi đã quyết định dừng chủ đề này vào tối qua. Nó hơi trái ngược với bản tính của tôi. Thôi, các em chuyền cho nhau đi.” Khi xấp giấy đến chỗ mình, tôi liền đọc câu hỏi:
Làm sao các em, đặc biệt là em, có thể thoát khỏi mê hồn trận khổ sở này? Sau khi đã đánh vật với ba truyền thống tôn giáo cơ bản, hãy áp dụng tâm hồn vừa được khai sáng của các em với câu hỏi từ Alaska.
Sau khi ra đề thi, Ông Già nói, “Các em không cần chú trọng vào việc thảo luận quan điểm của những tôn giáo khác nhau trong luận văn, nên đừng tốn công nghiên cứu. Kiến thức của các em, hoặc không, đã được thể hiện trong những bài kiểm tra nhỏ suốt học kì này. Tôi rất muốn xem các em sẽ làm thế nào đưa được những đau khổ khó nói vào sự thấu hiểu thế giới của mình, và làm thế nào để sống tiếp với chúng.
“Năm tới, đặt trường hợp phổi tôi còn tốt, chúng ta sẽ học về Lão Giáo, Hidu Giáo và Do Thái Giáo…” Ông Già ho và rồi bắt đầu cười, thế là lại ho tiếp. “Lạy Chúa, có lẽ tôi sẽ không sống nổi. Nhưng tôi muốn nói một điều về ba truyền thống chúng ta đã học năm nay. Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo đều có những người sáng lập—Muhammad, Giê-su và Đức Phật. Và khi nghĩ về những người sáng lập này, tôi tin chắc chúng ta phải hiểu rằng mỗi người đều mang theo thông điệp về cội nguồn hi vọng. Từ thế kỉ thứ bảy ở Ả-rập, Muhammad đã trao ban lời hứa rằng bất kì ai cũng có thể tìm thấy hạnh phúc và sự sống miên viễn qua lòng trung thành với một Đấng quyền năng duy nhất. Đức Phật cho ta hi vọng rằng có thể vượt qua đau khổ. Giê-su gửi đến thông điệp rằng kết thúc sẽ là mở đầu, rằng thậm chí những người thu thuế và phong cùi, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ vẫn tạo nên hi vọng. Và đấy chính là câu tôi muốn hỏi cả lớp trong bài thi cuối kì: Đâu là thứ tạo nên hi vọng của các em?
Khi tôi trở về Phòng 43, Đại Tá đang hút thuốc trong phòng, dù tôi vẫn còn một tối rửa chén trong căn-tin để bù lại tội hút thuốc của mình, tôi cũng không sợ Đại Bàng cho lắm. Chúng tôi còn mười lăm ngày nữa, và nếu bị bắt, chúng tôi chỉ cần bắt đầu năm lớp mười hai với vài giờ lao động công ích. “Vậy chúng ta làm thế nào để thoát khỏi mê hồn trận khổ sở này hả, Đại Tá?” tôi hỏi.
“Giá mà tao biết được,” gã nói.
“Câu đó sẽ không giúp mày được điểm A đâu.”
“Nó cũng chẳng giúp linh hồn tao siêu thoát.”
“Hoặc linh hồn cô ấy,” tôi nói.
“Phải. Tao lại quên nó đấy.” Gã lắc đầu. “Chuyện này diễn ra hoài.”
“Ơ, mày phải viết cái gì đó đi,” tôi thuyết phục.
“Sau tất cả, có vẻ như thẳng và nhanh là lối thoát duy nhất đối với tao—nhưng tao chọn mê hồn trận. Cái mê hồn trận chết giẫm, nhung tao chọn nó.”
một trăm ba mươi sáu ngày sauHAI TUẦN SAU, tôi vẫn chưa hoàn thành luận văn cho Ông Già, và chỉ còn hai mươi bốn tiếng nữa là kết thúc học kỳ. Tôi đang đi bộ về nhà sau bài thi cuối cùng, một trận khổ chiến nhưng cực kỳ (tôi mong vậy) thành công với môn toán học dự bị sẽ mang đến cho tôi con B-trừ tôi hằng khao khát. Ngoài trời lại oi bức, ấm áp như cô ấy đã từng. Và tôi cảm thấy ổn. Ngày mai, cha mẹ sẽ đến và dọn đồ giúp tôi, và chúng tôi sẽ dự lễ tốt nghiệp rồi về Florida. Đại Tá sẽ về nhà với mẹ gã để ngắm đậu nành mọc suốt mùa hè, nhưng tôi có thể gọi đường dài cho gã, nên hai đứa sẽ nói chuyện thường xuyên. Takumi sẽ về Nhật nghỉ hè, và Lara lại được lái về nhà trong chiếc xe limo xanh lá lần nữa. Tôi đang nghĩ rằng thật ra cũng khá ổn khi không biết Alaska đã ở đâu và đi đâu vào đêm đó, đoạn tôi mở cửa phòng và phát hiện một miếng giấy được gấp lại trên sàn nhà lót vải sơn. Nó là một tờ giấy văn phòng màu xanh chuối. Phía trên viết bằng lối chữ thư pháp:
Từ Bàn của... Takumi Hikohito
Bé Bự/Đại Tá:
Tao xin lỗi vì đã không nói với tụi mày trước. Tao sẽ không ở lại dự lễ tốt nghiệp. Sáng mai tao sẽ về Nhật Bản. Suốt một thời gian dài, tao đã rất giận tụi mày. Cách tụi mày gạt tao ra khỏi mọi thứ khiến tao bị tổn thương, và tao đã giữ kín những gì tao biết cho riêng mình. Nhưng kể cả khi không còn giận nữa, tao vẫn không nói gì, và chính tao cũng không hiểu vì sao. Bé Bự có nụ hôn ấy, tao đoán thế. Và tao có bí mật này.
Tụi mày gần như biết hết rồi, nhưng sự thật là tối đó tao đã thấy cô ấy. Tao thức khuya cùng Lara và vài người khác và rồi tao ngủ gật và tao nghe tiếng cô ấy khóc ở ngoài cửa sổ sau phòng. Lúc đó tầm 3:15 sáng, chắc vậy, và tao ra ngoài và thấy cô ấy đang băng qua sân bóng. Tao cố bắt chuyện, nhưng cô ấy đang vội. Cô ấy nói với tao rằng mẹ cô ấy đã chết vào ngày này tám năm trước, và cô ấy luôn đặt hoa trên mộ mẹ vào ngày giỗ, nhưng năm nay lại quên mất. Cô ấy đang ở ngoài đó tìm hái hoa, nhưng tiết trời còn quá sớm—quá lạnh. Đấy là lí do tao biết về ngày 10 tháng 1. Tao vẫn không rõ liệu đấy có phải tự tử hay không.
Cô ấy rất buồn, và tao không biết phải nói hay làm gì. Tao nghĩ cô ấy coi tao là người duy nhất luôn nói và làm những điều đúng đắn để giúp cô ấy, nhưng tao đã không thể. Tao chỉ biết cô ấy đang tìm những bông hoa. Tao không biết cô ấy sẽ rời đi. Cô ấy say rượu, say không biết trời trăng, và tao thật sự không nghĩ cô ấy sẽ lái xe hay gì hết. Tao tưởng cô ấy sẽ chỉ khóc cho tới khi thiếp đi và lái xe đến viếng mộ mẹ vào sáng hôm sau hoặc đại loại. Cô ấy bỏ đi, rồi tao nghe tiếng xe nổ máy. Tao không biết mình đang nghĩ gì nữa.
Nên tao cũng đã để cô ấy đi. Và tao xin lỗi. Tao biết mày yêu cô ấy. Thật khó cầm lòng.
Takumi
Tôi chạy ra khỏi phòng, giống như chưa từng hút một điếu thuốc, giống như tôi đã chạy với Takumi vào Đêm Chuồng Bò, băng qua ký túc xá đến phòng của cậu ta, nhưng Takumi đã biến mất. Giường của cậu ta chỉ còn đệm vinyl; bàn học trống trơn; một vạch bụi ở trên cho thấy nơi cậu ta từng đặt máy stereo. Cậu ta đã biến mất, và tôi không kịp nói với cậu ta điều mình vừa nhận ra: rằng tôi tha thứ cho cậu ta, rằng cô ấy tha thứ cho chúng tôi, và chúng tôi phải tha thứ để sống tiếp trong mê hồn trận. Rất nhiều người trong số chúng tôi phải sống với những thứ đã hoàn thành lẫn dang dở ngày hôm ấy. Những thứ không suôn sẻ, những thứ có vẻ ổn vào lúc đó vì chúng tôi không thể thấy trước tương lai. Phải chi chúng tôi có thể thấy được chuỗi hậu quả vô tận từ những hành động nhỏ nhất của mình. Nhưng chúng tôi không biết được và đến khi biết thì đã muộn.
Và trong lúc trở lại để đưa lá thư của Takumi cho Đại Tá, tôi đã nhận ra mình sẽ không bao giờ biết. Tôi sẽ không bao giờ biết rõ Alaska để hiểu được suy nghĩ của cô ấy trong những phút cuối đời, không bao giờ biết có phải cô ấy đã cố tình bỏ chúng tôi ở lại hay không. Nhưng sự-không-biết ấy sẽ không khiến tôi ngừng quan tâm, và tôi sẽ luôn yêu Alaska Young, cô hàng xóm mục ruỗng, với trái tim mục ruỗng trong mình.
Tôi về Phòng 43, nhưng Đại Tá vẫn chưa về, nên tôi để tờ giấy lên giường tầng trên và ngồi xuống trước máy tính, và tôi viết cách thoát khỏi mê hồn trận của mình:
Một thời gian dài trước khi đến đây, em đã nghĩ rằng cách thoát ra khỏi mê hồn trận là giả vờ rằng nó không tồn tại, là dựng nên một thế giới nhỏ bé, vừa đủ cho mình trong góc khuất của mê cung vô tận và giả vờ rằng em không lạc đường mà đang ở nhà. Nhưng điều đó chỉ dẫn tới một cuộc sống cô độc chỉ có thể bầu bạn cùng những lời trăng trối của người chết, nên em đến đây để tìm Cơ Hội Lớn, tìm những người bạn thật sự và một cuộc đời hơn-cả-nhỏ-bé. Và rồi em phạm sai lầm và Đại Tá phạm sai lầm và Takumi phạm sai lầm và cô ấy trượt khỏi tầm tay chúng em. Và không thể bao biện gì nữa: Cô ấy xứng với những người bạn tốt hơn.
Khi cô ấy phạm sai lầm, rất nhiều năm về trước, khi chỉ là một cô bé tê liệt vì hoảng sợ, cô ấy đã suy sụp thành con người bí ẩn hiện giờ. Và em đã có thể làm thế, nhưng em đã trơ mắt nhìn nó dẫn cô ấy đi đâu. Nên em vẫn sẽ tin vào Cơ Hội Lớn, và em tin vào nó dù đã mất Alaska.
Bởi em sẽ quên cô ấy, đúng vậy. Những gì hợp nhất rồi sẽ vỡ tan trong sự vô hình chậm rãi, và em sẽ quên, nhưng cô ấy sẽ tha thứ cho sự lãng quên của em, như em đã tha thứ cho cô ấy vì đã quên em và Đại Tá và mọi người ngoại trừ bản thân và mẹ mình trong những phút cuối còn là con người. Giờ đây em biết cô ấy tha thứ cho em vì đã ngu ngốc và hèn nhát và làm những điều ngu ngốc và hèn nhát. Em biết cô ấy sẽ tha thứ cho em, như mẹ cô ấy đã tha thứ cho cô ấy. Và em biết như thế này:
Ban đầu em nghĩ rằng cô ấy đơn giản là đã chết. Chỉ toàn bóng đêm. Một cái xác bị dòi bọ ăn mòn. Em nghĩ về cô ấy như thế rất nhiều, như bữa ăn của một thứ gì đó. Những gì từng thuộc về cô ấy, đôi mắt xanh, nụ cười nửa miệng, những đường cong mềm mại trên chân sẽ sớm tan vào hư vô, chỉ còn lại bộ xương em không bao giờ nhìn thấy. Em nghĩ về quá trình trở thành xương cốt chậm chạp và rồi hóa thạch rồi đến mỏ than đá, trong hàng triệu năm tới, sẽ bị con người ở tương lai khai quật, và cách họ sưởi ấm nhà cửa với cô ấy, và cô ấy sẽ biến thành làn hơi bốc lên từ ống khói, bao phủ không khí. Em vẫn nghĩ rằng, thi thoảng, nghĩ rằng có lẽ “sự sống sau cái chết” chỉ là thứ chúng ta tưởng tượng ra để xoa dịu nỗi đau mất mát, để giúp cho thời gian ở mê hồn trận dễ chịu hơn. Có lẽ cô ấy chỉ là một thể vật chất, và vật chất thì sẽ được tái chế.
Nhưng cuối cùng em vẫn không tin rằng cô ấy chỉ đơn thuần là vật chất. Những gì còn lại của cô ấy cũng phải được tái chế. Em tin rằng giờ đây chúng ta đã vĩ đại hơn toàn bộ bản thể của mình. Nếu thầy lấy gen di truyền của Alaska và cộng thêm kinh nghiệm sống của cô ấy và những mối quan hệ cô ấy có với người khác, và rồi lấy đi kích thước và hình dáng cơ thể của cô ấy, thầy sẽ không hiểu được cô ấy. Còn một thứ hoàn toàn khác. Một phần trong cô ấy vĩ đại hơn tất cả những gì chúng ta đã biết. Và phần ấy sẽ phải đi đến một nơi nào đó, vì nó không thể bị phá hủy.
Dù em không phải là một đứa chuyên ngành khoa học, nhưng có một điều em đã học được từ môn đó, chính là năng lượng không bao giờ tự nhiên sinh ra hay mất đi. Và nếu Alaska tự tử, em ước gì mình đã có thể trao cho cô ấy niềm hi vọng này. Quên chuyện về mẹ, phạm sai lầm với mẹ và bạn bè và chính bản thân cô ấy—đấy là những điều khủng khiếp, nhưng cô ấy không cần phải thu người vào và tự hủy hoại bản thân. Những điều khủng khiếp ấy có thể vượt qua được, vì chúng em thật sự bất bại khi chúng em tin vào bản thân. Khi người lớn nói, “Bọn trẻ ranh cứ nghĩ rằng chúng bất bại,” với nụ cười mỉa mai, xuẩn ngốc ấy trên khuôn mặt, họ không biết họ đã nói đúng. Chúng em không bao giờ cần phải thất vọng, vì chúng em sẽ không bao giờ tổn thương đến mức khó chữa lành. Chúng em nghĩ rằng mình bất bại bởi vì chúng em là như thế. Chúng em không thể được sinh ra, và chúng em sẽ không thể chết đi. Như mọi nguồn năng lượng, chúng em chỉ có thể thay đổi hình thể và kích thước và sự hiện hữu. Những người lớn đã quên chuyện đó khi họ già đi. Họ sợ thua cuộc và thất bại. Nhưng phần tinh thần đó của chúng em vĩ đại hơn toàn bộ bản thể không thể bắt đầu hay kết thúc, nên nó sẽ không thể gục ngã.
Nên em biết cô ấy sẽ tha thứ cho em, như em tha thứ cho cô ấy. Lời trăng trối của Thomas Edison là: “Ở bên ấy rất đẹp.” Em không biết đấy là nơi nào, nhưng em tin rằng nó tồn tại, và em mong nó thật đẹp.