← Quay lại trang sách

Phần 4 13

THỜI NAY, HIẾM CÓ NGƯỜI ÚC NÀO CHƯA nghe tên vận động viên chạy siêu bền Cliff Young. Ông là người truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta, chứ không riêng các vận động viên chạy đường dài. Đối với những người từng một lần đương đầu với những thử thách tưởng chừng như không thể vượt qua, câu chuyện về Cliff cho họ hi vọng.

Vào thứ Tư, ngày 27 tháng Tư năm 1983, Cliff Young có mặt tại trung tâm thương mại Westfield, ngoại ô phía Tây Sydney, loay hoay tìm vạch xuất phát của một cuộc đua nổi tiếng. Đường đua dài 543,7 dặm, dẫn đến một trung tâm thương mại Westfield khác ở Melbourne.

Đây vốn được coi là cuộc đua khắc nghiệt nhất trong các cuộc đua cùng loại và quy tụ những vận động viên ưu tú nhất thế giới, những người đã tập luyện hàng tháng trời để đạt điều kiện thể chất tốt nhất cho cuộc đua ác liệt này.

Cliff khác hẳn những vận động viên khác. Năm đó, ông đã 61 tuổi, mặc áo khoác, chân đi ủng , đã tháo hàm răng giả chỉ vì ông không thích tiếng răng va vào nhau khi chạy.

Trong khi hầu hết mọi người đều cho rằng ông là một khán giả hoặc nhân viên bảo trì đi nhầm vào đường đua, thì ông đi lấy số và đứng vào chỗ cùng các vận động viên khác.

Trông thấy Cliff vào vạch xuất phát, một nhà báo lấy làm lạ hỏi: “Chào ông , ông nghĩ mình có thể hoàn thành cuộc đua chứ?”

“Vâng , tôi có thể,” Cliff đáp. “Anh biết không , tôi trưởng thành từ một trang trại nơi chúng tôi không đủ tiền mua ngựa hay máy kéo. Suốt thời đó, mỗi lần bão ập đến, tôi phải ra ngoài và đi vòng quanh lùa cừu. Chúng tôi có hai ngàn con cừu trải khắp hai ngàn mẫu đất. Có lần, tôi mất hai, ba ngày mới lùa hết cừu vào chuồng. Dù tốn nhiều thời gian nhưng tôi chưa bao giờ bỏ sót con nào. Vì thế, tôi tin mình có thể hoàn thành cuộc đua này.”

Cuộc đua bắt đầu, Cliff bị tụt lại đằng sau. Thậm chí, ông còn không chạy đúng kĩ thuật. Tư thế chạy của ông trông thật kỳ quặc, ông lê từng bước và gần như không nhấc chân lên khỏi mặt đất. Cuối ngày đầu tiên, khi tất cả các vận động viên dừng lại ngủ nghỉ thì Cliff, chạy sau họ hàng dặm liền, vẫn miệt mài.

Các vận động viên chuyên nghiệp luôn biết cách tự điều chỉnh nhịp độ chạy. Họ luôn duy trì đúng chiến lược chạy mười tám tiếng và ngủ sáu tiếng một ngày. Nhờ đó, các vận động viên nhanh nhất sẽ về đích trong khoảng bảy ngày.

Còn Cliff thì thực hiện một chiến lược khác. Sáng hôm sau trở lại cuộc đua, các vận động khác sửng sốt khi nghe tin Cliff vẫn còn ở trên đường đua. Ông ấy không ngủ, và kiên định chạy theo chiến lược riêng của mình suốt đêm.

Đêm thứ hai, rồi đêm thứ ba, đêm nào Cliff cũng chạy như thế. Sáng nào cũng có tin Cliff chạy suốt đêm, lần lượt hạ bệ từng tuyển thủ, những người mà tuổi đời chỉ bằng nửa ông , phá vỡ chênh lệch khoảng cách họ nỗ lực kéo dãn ban ngày.

Dần dần, Cliff vượt qua họ và cán đích sau năm ngày, mười lăm giờ, bốn phút. Ông đã phá kỉ lục, về đích sớm hơn gần hai ngày, đánh bại năm vận động viên cùng về đích khác.

Khi được trao tấm chi phiếu 10.000 đô dành cho quán quân chung cuộc, Cliff vô cùng ngạc nhiên. Ông nói, ông không hề biết là có giải thưởng và kiên quyết khẳng định rằng ông tham gia cuộc đua không phải vì tiền. Không nhận một xu nào, ông chia đều giải thưởng cho năm tuyển thủ cùng về đích khác.

Từ đó, Cliff đã trở thành một huyền thoại. Khó mà đoán được mọi người thích hình ảnh nào của ông nhất: là những tấm hình ông mặc chiếc áo phông thường phục, chạy chậm chạp dọc đường cao tốc hay tấm hình ông chạy trong tư thế lùa cừu quanh đồng cỏ, chân đi ủng cao su và ánh mắt quyết tâm chân chất.

Khi câu chuyện mang tên Cliff Young phủ sóng khắp nước Úc, tôi vẫn còn là một đứa trẻ. Mọi người tán dương ông , tôn xưng ông là người làm nên điều kỳ diệu, khiến cả quốc gia phải ngước mắt trông theo. Phải đến khi trở thành một vận động viên chạy bộ, tôi mới nhận thức rõ thành tích ông đạt được đáng kinh ngạc đến nhường nào. Và phải đến khi Gobi mất tích, tôi tự đáp chuyến bay trở lại Trung Quốc, tôi mới nhớ lại câu chuyện về ông để tự khích lệ mình.

Ngày tôi đăng tin Gobi mất tích, chúng tôi bị nhấn chìm bởi lời nhắn của mọi người từ khắp nơi trên thế giới. Có người gửi những lời nhắn tích cực, cảm thông , cầu nguyện và chúc phúc, nhưng cũng có người lo ngại rằng Gobi sẽ bị làm thịt. Đó là lần đầu tiên tôi nghĩ đến khả năng này nhưng nó không thể làm tôi nhụt chí. Mặc dù tôi chỉ ở Trung Quốc có mười ngày, nhưng tôi thấy tin đồn người Trung Quốc ăn thịt chó rất có thể chỉ là tin đồn nhảm. Ừ thì tôi đã thấy nhiều chó hoang lúc ở Trung Quốc, nhưng tôi cũng thấy nhiều chó hoang ở Ma rốc, Ấn Độ hay thậm chí ở Tây Ban Nha nữa. Những người Trung Quốc yêu mến Gobi đều rất quan tâm, chăm sóc cô nhóc, chứ không nhẫn tâm như mọi người vẫn nghĩ.

Trong khi cám ơn những lời chúc phúc ấm áp và trấn an nỗi sợ hãi của mọi người, tôi phát hiện ra loại lời nhắn thứ ba mà chính tôi cũng không biết phải trả lời như thế nào:

Thế quái nào mà chuyện ra nông nỗi này? Thật đấy hả???

Tôi biết thể nào cũng có chuyện mà… Chú chó bị lạc ở nơi khỉ gió nào cơ chứ. Tôi phát chán cái kiểu làm việc này.

Trông thế quái nào mà nó lại bỏ đi được???? Mấy “bảo mẫu” chỉ có mỗi việc trông nom chú chó nhỏ quý báu ấy thôi mà cũng không làm cho ra hồn!… Làm sao anh có thể để mất chú chó mà anh có nghĩa vụ phải trông nom cho đến khi nó được NHẬN NUÔI cơ chứ!

Tôi buồn lắm. Thực ra tôi thấy khủng hoảng. Người ta ủng hộ quá nhiều tiền - cho đến thời điểm Gobi mất tích thì đã hơn 20.000 đô la - và giờ Gobi mất tích. Tôi biết, dư luận cho rằng tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về vụ Gobi mất tích. Tôi nhận trách nhiệm đó và tôi biết đây là lỗi của tôi.

Nếu tôi làm khác đi, không chừng Gobi sẽ không mất tích. Nhưng tôi có thể làm gì khác cơ chứ? Cuộc đua kết thúc, để Gobi ở lại với Nurali, tôi cứ ngỡ chỉ vài tuần sau chúng tôi sẽ đoàn tụ ở Anh để Gobi làm cách ly kiểm dịch. Nếu biết trước phải đưa cô nhóc đi khắp Trung Quốc, rồi xuất cảnh khó khăn đến thế, thì tôi đã thuê một tài xế và tự đưa Gobi đến Bắc Kinh cho rồi. Nhưng sau khi hoàn thành cuộc đua, tôi chỉ biết Nurali - trong cảm nhận của tôi, là một nhân viên vô cùng chuyên nghiệp - sẽ vui vẻ giúp đỡ. Lúc đó, thế là đủ.

Tôi muốn trả lời hết từng tin nhắn một, nhưng chúng cứ lũ lượt kéo đến, nhanh hơn cả thời Daily Mirror ra báo. Cứ vài phút lại có một bình luận mới. Tôi nghĩ tốt nhất nên nhường chỗ cho mọi người trút giận trước. Cố chấp tranh luận sẽ không đi đến đâu cả.

Ngoài ra, tôi bắt đầu chú ý đến một loại bình luận khác.

Tôi lo đó có thể là một vụ bắt cóc bởi dư luận đang chú ý đến câu chuyện của Gobi.

Mặc dù tôi hay khó chịu khi người ta cứ làm rối tung mọi chuyện lên, nhưng tôi lại là một người cả tin. Từ đầu đến giờ, tôi vẫn luôn nghĩ vụ Gobi bỏ đi chỉ là một sự cố. Nhưng càng đọc những tin nhắn này, tôi lại càng hoài nghi.

Tôi hi vọng chuyện này không phải cố ý hoặc có ai đó đứng đằng sau. Thứ lỗi cho sự nghi ngờ của tôi, nhưng tôi vẫn không hiểu sao lại xảy ra chuyện này. Câu chuyện về Gobi đã trở thành một hiện tượng trên khắp thế giới. Tôi không hi vọng có ai đó (không phải Dion) cố ý lợi dụng Gobi để trục lợi. Gobi đã mất tích nhiều ngày như thế, vậy mà đến tận bây giờ anh mới nhận được thông báo?

Những bình luận này có lý lắm. Hàng ngàn người trên khắp thế giới đang dõi theo câu chuyện về Gobi, và tổng số tiền ủng hộ thì hiển thị công khai. Liệu có ai đó âm mưu bắt cóc Gobi rồi bắt chúng tôi phải đưa tiền để chuộc cô nhóc về không ?

Tôi có việc phải làm. Tôi cố gắng tập trung viết báo cáo nhưng sao khó quá. Gần như cả ngày, tôi cứ bị phân tâm, quanh quẩn trong mớ suy nghĩ và câu hỏi. Tôi tưởng như mình là chiếc lông vũ trong bão táp: bất lực và bị lực lượng hùng cường hơn áp bức. Lúc Lucja tan làm về nhà, thì tôi đã kiệt quệ.

Cô ấy theo dõi phản hồi suốt cả ngày nay. Tôi thì bận tâm đến những bình luận quy trách nhiệm còn cô ấy thì bị thu hút bởi mấy bình luận mang tính giải pháp hơn.

Anh có thể bay đến đó xem thử không? Gobi sẽ cảm nhận được sự hiện diện của anh và đi tìm anh! Hãy dùng tiền ủng hộ để đảm bảo an toàn cho Gobi cho đến khi cô nhóc lên chuyến bay về nhà với anh. Đúng là tai hại.

Gobi đang tìm anh. Thật đau lòng. Cầu mong người ta sẽ tìm thấy cô nhóc bình an. Tôi nghĩ không ai nói gì anh khi anh dùng một phần tiền ủng hộ để treo giải tìm Gobi đâu. Không biết các kênh truyền thông có thể đưa tin không nhỉ?

Tôi vừa mới về nhà được sáu tuần. Tháng Mười này, tức là khoảng sáu tuần nữa, tôi phải tham dự một cuộc đua cự li 155 dặm ở sa mạc Atacama, Chile. Không bị chấn thương trong cuộc đua tại Trung Quốc nên vừa về là tôi lao vào tập luyện ngay. Tôi đã cho rằng mình sẽ xuất phát với tâm thế tốt nhất để tranh ngôi quán quân giải đua qua sa mạc Atacama. Chưa kể, tôi sẽ có dịp tái ngộ một số địch thủ trước đây, chẳng hạn như Tommy và Julian. Nếu giành chiến thắng, tôi sẽ đăng kí tham gia Marathon des Sables 2017 và hiện thực hóa mục tiêu lọt tốp hai mươi. Từ trước đến nay, nước Úc chưa có tuyển thủ nào giành thứ hạng cao hơn thế.

Do vậy, chuyến đi Trung Quốc đột xuất để tìm kiếm một cô chó mất tích hoàn toàn không nằm trong kế hoạch tập luyện của tôi. Chỉ còn sáu tuần nữa trước khi Giải Atacama bắt đầu, đáng lẽ giờ này tôi phải hoàn thành đề mục chạy 100 dặm trên máy chạy bộ trong phòng tắm hơi tự chế ở nhà mỗi tuần. Ấy thế mà, tôi chẳng làm gì hết. Vì chuyện tìm kiếm Gobi, mọi kế hoạch tập luyện đều đổ bể.

Ngoài Giải Atacama, còn có ti tỉ lí do khác khiến tôi không muốn trở lại Trung Quốc. Mấy tuần trước, hầu như không tuần nào tôi làm việc tử tế, thậm chí còn xin nghỉ thêm mà không báo trước với ông chủ. Nói cách khác, tôi đang lạm dụng đặc quyền một cách trắng trợn. Đứng trên lập trường của họ, tôi biết rõ những gì họ muốn nói.

Chưa kể, tôi đi Trung Quốc thì được cái tích sự gì chứ? Tôi không biết đọc, không biết viết tiếng Trung , hay thứ tiếng dạng Ả Rập nào đó mà tôi từng thấy ở Urumqi. Tôi cũng không có nhiều kinh nghiệm tìm chó lạc bằng nữ đội trưởng đội tìm kiếm. Không khéo tôi đến đó còn khiến cả họ lẫn tôi tốn thời gian hơn.

Tuy vậy, trong một tích tắc, tôi đổi ý. Không phải vì tất thảy nghi ngờ đã có câu trả lời hay vì tôi chợt ý thức sâu sắc rằng chỉ đi thì mới tìm thấy Gobi. Tôi quyết định đi chỉ bởi vì một điều đơn giản và chắc nịch mà tôi đã thủ thỉ với Lucja đêm thứ hai sau khi biết tin Gobi mất tích: “Nếu anh không đi, và rồi chúng ta không bao giờ tìm được Gobi, thì anh sẽ mãi không cam lòng.”

Chính vì thế, tôi hiện đang ngồi ở cổng khởi hành tại Sân bay Edinburgh, chuẩn bị lên chuyến bay số hiệu đầu Ba, kéo dài hơn ba mươi tiếng trở lại Urumqi. Trên hành trình bay, tôi chụp một tấm ảnh và đăng lên mạng. Mong những người tử tế và hào phóng mấy hôm vừa qua biết rằng tôi đang làm mọi thứ có khả năng có tác dụng.

Mới bốn ngày từ khi nhận được điện thoại báo tin, tôi đã quyết định trở lại Urumqi bởi tôi biết những người hào phóng giúp tôi đưa Gobi về nhà muốn tôi quay lại đó tìm cô nhóc. Chúng tôi đã lập một trang kêu gọi ủng hộ mang tên “Finding Gobi”, để trang trải kinh phí cho chuyến đi cũng như các chi phí phát sinh từ đội tìm kiếm cứu hộ - tiền in ấn, xăng xe, nhân viên, và cả thực phẩm nữa. Hệt như trang “Bring Gobi Home”, tấm lòng quảng đại của mọi người khiến cả tôi và Lucja không nói nên lời. Chúng tôi đã vượt chỉ tiêu 6.200 đô la chỉ sau hai ngày đầu tiên.

Tôi xuất phát, mang theo cả lời chúc từ sếp nữa. Còn nhớ lúc tôi báo với sếp Gobi đã mất tích, không chờ tôi nói xong , ông đã giục. “Đi đi. Tìm Gobi. Giải quyết ổn thoả mọi chuyện. Cứ nghỉ bao lâu cậu muốn.”

Vậy là mọi chuyện đã đâu vào đấy, ngoại trừ vụ Atacama. Trở lại Trung Quốc nghĩa là dùng hết số ngày nghỉ và tôi hoãn kế hoạch tham gia cuộc đua ở Chile lại. Nhưng tôi đã quyết không lo nghĩ gì nữa. Nếu buộc phải đánh đổi cơ hội chinh phục Atacama để tìm được Gobi, tôi vẫn thấy đáng giá lắm.

Tôi lên máy bay và kiểm tra Facebook lần cuối. Hàng tá lời nhắn trong hộp thư đến đều là lời cổ vũ tích cực và chân thành. Các bình luận cũng mang đại ý tương tự: mọi người đều cầu mong một phép màu.

Tôi cũng vậy. Đó chính là điều chúng tôi cần. Nhất định phải là một phép màu.

Nơi nào đó, trong màn sương mù, thao thức cả đêm, câu chuyện về Cliff Young lại tràn về trong tâm trí tôi.

Giống như tôi, năm 1983 ấy, khi lững thững bước đến vạch xuất phát, ngài Cliff chưa từng nghĩ sẽ tạo nên một câu chuyện lay động lòng người đến vậy. Tôi đoán chắc ông cũng chẳng biết là mình sẽ chiến thắng. Tuy vậy, Cliff lại ý thức được rằng ông có thể làm nên điều khác biệt. Kinh nghiệm sống , niềm tin vào bản thân cộng thêm một chút ngu ngơ, không rõ mình phải đương đầu với điều gì đã cho ông sự tự tin mà ông cần.

Tôi sẽ tìm thấy Gobi chứ? Tôi đâu biết. Liệu tôi có thể đưa truyền thông địa phương vào cuộc theo lời khuyên của mọi người? Cũng không rõ nữa. Tôi từng làm chuyện gì tương tự thế này trước đây chưa? Chưa từng.

Nhưng tôi có lòng quả cảm. Khát vọng thôi thúc tôi tìm Gobi sôi sục như mọi khát vọng khác trong đời. Dù phải đánh đổi bất cứ thứ gì, thì tôi vẫn sẽ tìm, đến khi không còn chỗ nào để tìm nữa mới thôi.

14

NGỒI XE RỜI KHỎI SÂN BAY ĐƯỢC MƯỜI phút, tôi lại bất lực trước những thứ tôi không ưa ở Urumqi. Trong khi xe chạy băng băng trong thành phố, tôi vẫn thấy túng quẫn như bị theo dõi, hệt như lần đến tham dự và rời đi sau cuộc đua. Nhưng lần này, ngồi sau xe Lu Xin với phiên dịch viên kè kè bên cạnh, nghe cô ấy giải thích tại sao mỗi đèn đường và cầu đều có lắp camera giám sát. Rốt cục, tôi cũng hiểu. Kì lạ thật. Thành phố này nhắc tôi nhớ về hồi sống trong nhà nghỉ ở Warwick năm 15 tuổi. Hồi ấy, tôi luôn cảm thấy không thể tự bảo vệ mình trước nguy cơ bạo lực rình rập khắp mọi nơi.

Người phiên dịch nói, Urumqi đại diện cho mô hình giải quyết những bất ổn chính trị và căng thẳng sắc tộc của chính phủ Trung Quốc. Trước đây, từng xảy ra xung đột sắc tộc giữa người Duy Ngô Nhĩ bản địa theo Hồi giáo Sunni, tuyên bố ly khai khỏi Trung Quốc đại lục, và người Hán nhập cư theo chủ trương vận động của chính phủ Trung Quốc bằng biện pháp cắt giảm thuế.

Điển hình là cuộc bạo động giữa hai nhóm sắc tộc năm 2009, người biểu tình đổ xuống đường , đánh đập bằng ống thép và dao phay. Hơn một trăm người thiệt mạng và gần hai ngàn người bị thương.

“Anh thấy bên kia không ?” người phiên dịch hỏi. Tôi gọi cô ấy là Lil. Một cô bé địa phương học tiếng Anh tại một trường đại học ở Thượng Hải. Khi hay tin về Gobi, cô bé đã đăng kí tham gia. Tôi đã liên hệ lại với cô bé ngay khi bắt đầu hành trình.

Đường tắc, xe ì ạch bò trên con đường nằm chơ vơ giữa mảnh đất trống , có hàng rào dây thép gai bao quanh và lực lượng an ninh trang bị súng máy gác cổng. Lính gác cẩn thận theo dõi đoàn người xếp hàng đi qua một máy quét an ninh ở sân bay. Trong mắt tôi, khu này hệt như một căn cứ quân sự vậy.

“Đó là một công viên,” Lil bảo. “Anh ghé qua sân ga ở đây bao giờ chưa?”

“Rồi,” Tôi cười. “Đằng kia thì sao, kiểm tra an ninh hai bước hay gì à?”

“Ba bước đấy,” Lil đáp. “Hai năm trước, người Duy Ngô Nhĩ li khai tấn công khủng bố. Họ tấn công bằng dao và đánh bom khiến ba người thiệt mạng và bảy mươi chín người bị thương. Vài tuần sau, họ giết hại ba mươi mốt người và làm bị thương chín mươi người ở một khu chợ.”

Sau cuộc bạo động năm 2009, chính quyền Trung Quốc đã lắp đặt hàng nghìn camera giám sát độ phân giải cao. Mấy năm sau, các vụ tấn công bằng dao, đánh bom và bạo loạn lại tiếp diễn, camera lại được lắp đặt thêm, dựng máy quét, hàng rào dây thép gai và cử lính vũ trang bảo vệ các tuyến đường.

Lil chỉ cho tôi xem một đồn cảnh sát mới xây dựng trên một mảnh đất nhỏ, và một đồn cảnh sát giống y hệt đang thi công dưới con đường cách đó không xa. “Ông Bí thư Đảng mới nhậm chức tháng này. Vốn là quan chức cấp cao của Tây Tạng , nên ông ấy biết cách giải quyết những vụ căng thẳng sắc tộc kiểu này. Các đồn cảnh sát và chốt an ninh mới này là ý của ông ấy.”

Tôi không cho là Lil đang châm biếm. Nhưng tôi cũng không dám chắc. Lil nói tiếp, có vẻ cô bé không bận tâm lắm đến người Duy Ngô Nhĩ.

“Sáu mươi năm trước, Mao Chủ tịch đã sửa lại múi giờ nơi này. Ông muốn các vùng khác cùng sử dụng một múi giờ thống nhất với Bắc Kinh nhưng người Duy Ngô Nhĩ không áp dụng. Các nhà hàng và nhà thờ Hồi giáo nơi đây vẫn mở cửa muộn hơn hai tiếng. Khi người Hán thức dậy và bắt đầu làm việc, thì người Duy Ngô Nhĩ vẫn say giấc. Như hai gia đình khác nhau sống cùng một nhà vậy.”

Chuyện Lil kể cũng thú vị lắm. Nhưng vì trên máy bay không ngủ được nên giờ tôi chỉ muốn nhanh nhanh đến khách sạn và nằm lì trên giường.

Lil bảo không có thời gian đến khách sạn nữa.

“Lu Xin muốn anh gặp mặt cả đội trước. Chiều nào họ cũng đi tìm khắp các tuyến phố quanh nơi Gobi mất tích và dán áp phích. Chúng tôi sẽ đưa anh đến khách sạn sau.”

Ngay khi nghe họ nhắc đến Gobi, tôi chợt thấy xấu hổ vì mình chưa làm được gì cả, nên tôi không dám phàn nàn gì.

“Không sao,” tôi đáp, đúng lúc xe chúng tôi lăn bánh qua một cột đèn giao thông bên cạnh chiếc xe bọc thép chất đầy hỏa lực đủ để san bằng một ngân hàng. “Chúng ta đi thôi.”

Xe dừng trước một tuyến phố. Trông thấy khu vực Gobi mất tích, lòng tôi trầm xuống. Dọc tuyến phố là những tòa chung cư cao tám đến mười tầng. Xe cộ chạy nối đuôi nhau trên đường cái phía sau chúng tôi. Gần đó, tôi trông thấy vùng cây bụi hướng thẳng lên dãy núi trùng điệp đằng xa. Khu vực này không những đông dân cư mà giao thông còn hung hiểm. Chưa kể, chẳng may Gobi kiên quyết quay về nơi ở quen thuộc với nó, và chạy lên núi, thì cô nhóc có thể đi xa hàng dặm rồi. Giả sử Gobi vẫn ở trong khu vực bán kính ba đến năm dặm mà Chris đã khoanh vùng , chắc chúng tôi phải gõ hàng ngàn cánh cửa mất.

Trong xe, tôi không trò chuyện nhiều với Lu Xin, nhưng khi nhìn sang , tôi thấy cô đang đứng cạnh tôi và mỉm cười. Lu Xin lên tiếng , tôi nhìn Lil ý bảo cô bé ấy dịch giúp.

“Cô ấy đang kể cho anh nghe chuyện hồi chú chó của cô ấy mất tích. Cô ấy cũng cảm thấy như anh bây giờ. Cô ấy nói chắc chắn Gobi ở đâu đó ngoài kia thôi. Cô ấy bảo chúng ta sẽ cùng nhau tìm Gobi.”

Tôi cám ơn Lu Xin. Cô ấy thật tử tế. Mặc dù, tôi không lạc quan được như cô ấy. Thành phố này thậm chí còn lớn hơn tôi tưởng. Chỉ một cái nhìn cũng đủ hiểu nơi Nurali sống nhất định là nơi mà một chú chó có thể đi lạc. Giả như Gobi bị thương , và đã tìm được nơi nào đó an toàn để ẩn nấp; hoặc giả Gobi bị bắt mất, thì chúng tôi vẫn sẽ không bao giờ tìm thấy cô nhóc nữa.

Lu Xin và Lil trò chuyện rôm rả, dẫn đầu đoàn người xuống phố. Còn tôi đi theo sau cùng với những người còn lại của đội tìm kiếm: một nhóm người trạc tuổi tôi, chủ yếu là phụ nữ, họ cầm áp phích và cười giòn nhìn tôi. Tôi gật đầu lại và nói nĭ hăo mấy lần, nhưng cuộc trò chuyện rất ngắn ngủi. Tôi thấy thế cũng không sao. Chẳng hiểu sao viễn cảnh bước trên đường và dán áp phích khiến tôi cảm thấy vui hơn - bởi cuối cùng tôi cũng làm được một việc gì đó có ý nghĩa.

Rẽ vào một ngõ cụt, tôi trông thấy chú chó hoang đầu tiên trong hôm nay. To hơn Gobi, trông giống chó Labrador16* hơn là chó sục, núm vú nó là là trên mặt đất, giống như con lợn nái.

16* Thường gọi là Lab, một giống chó săn phổ biến ở Mỹ, thuộc nhóm chó săn mồi (tha mồi).

“Gobi ?” một người phụ nữ bên cạnh tôi dò hỏi. Chị ta mặc áo khoác màu trắng dùng trong phòng thí nghiệm, cầm một tập áp phích; chị ta cười và gật đầu với tôi khi tôi quay lại nhìn. “Kia là Gobi hả?” chị ta hỏi lại.

“Gì cơ? Không. Không phải Gobi,” tôi đáp. Tôi chỉ vào bức ảnh Gobi trên áp phích cho chị ta xem. “Gobi nhỏ lắm. Không to như con này.”

Người phụ nữ lại cười và gật đầu. Thậm chí, chị ta còn hớn hở hơn trước. Còn tôi thì cảm thấy tia hi vọng cuối cùng đang dần bốc hơi.

Chúng tôi đi bộ cả buổi chiều, dán áp phích, và nỗ lực trấn an người phụ nữ mặc áo khoác trắng mỗi khi chị ta nhìn thấy một chú chó nào đó. Lil bảo tôi chị ta là một thầy thuốc Đông y.

Khi chúng tôi bám theo sau Lu Xin và Lil - những người có vẻ ngoài bình thường và đứng đắn, chắc trông chúng tôi giống một bộ sưu tập những người lập dị lạ lùng lắm. Một là tôi, gã ngoại quốc duy nhất mà tôi trông thấy trên đường từ khi ra khỏi sân bay đến giờ, chân dài loằng ngoằng , vẻ mặt âu sầu. Kế bên tôi là Mae-Lin, một người phụ nữ cực kì quyến rũ (thợ cắt tóc, rõ ràng là thế), ăn mặc như minh tinh màn bạc thập niên 50, tay dắt một chú chó xù nhuộm lông tai màu xanh, mặc váy mùa hè ngang eo. Tiếp đó là người phụ nữ mà tôi đặt biệt danh là “thầy thuốc”, với nụ cười không bao giờ tắt và tiếng kêu háo hức “Gobi? Gobi?” mỗi khi chạy vào một con hẻm bất kì hay khi chạy loăng quăng đằng sau mấy tòa chung cư. Khi có chó hoang lại gần, “thầy thuốc” sẽ cho chúng một ít thức ăn trong túi.

Rõ ràng là họ đều rất yêu chó. Đi bộ và trò chuyện với Lil, tôi mới hiểu tại sao.

“Chó hoang là một vấn nạn ở Trung Quốc,” Lu Xin nói, Lil dịch. “Ở nhiều thành phố, người ta sẽ vây bắt và giết chúng. Sau đó bán lấy thịt. Nhưng ở đây thì không - ít nhất là không công khai. Hầu hết người Duy Ngô Nhĩ đều cho rằng chó là loài không sạch sẽ, nên họ không nuôi chó trong nhà, huống chi là ăn thịt chó.

“Vì vậy, chúng đi lang thang trên đường phố. Chúng thỉnh thoảng sẽ trở thành mối nguy hiểm, bị người ta giết. Đó là những gì chúng tôi đang nỗ lực thay đổi. Chúng tôi không chỉ muốn chăm sóc những chú chó hoang , mà còn muốn cho mọi người thấy, họ không cần phải sợ chúng mà nên chăm sóc chúng.”

Tôi dám chắc Nurali là người Duy Ngô Nhĩ, nhưng tôi không biết phải tiếp nhận tin tức này của Lu Xin như thế nào.

“Cô có nghĩ Nurali sẽ chăm sóc tốt cho Gobi không ?”

Lu Xin ngượng nghịu không đáp.

“Sao thế?” tôi hỏi lại.

“Chúng tôi đã nói chuyện với một vài người. Chúng tôi nghĩ là có thể Gobi mất tích sớm hơn Nurali tưởng. Có thể Gobi bỏ nhà ra đi từ sớm rồi.”

“Sớm hơn bao lâu?”

Cô ấy nhún vai. “Có lẽ là một tuần. Cũng có thể là mười ngày.”

Tôi nghi cũng phải chừng ấy. Nghe mà đau lòng nhỉ? Nếu Gobi thực sự mất tích lâu đến thế, thì khu vực tìm kiếm sẽ rất lớn. Rất có thể Gobi đã ra khỏi thành phố rồi. Và nếu thật thế, thì tôi sẽ không bao giờ tìm thấy cô nhóc.

Những chú chó hoang chúng tôi bắt gặp từ chiều đến giờ đều độc lai độc vãng. Chúng tránh xa đường cái và chạy lon ton bên lề những con đường yên tĩnh hơn đường cái. Như thể chúng không muốn ai chú ý đến mình.

Mấy tiếng sau, rốt cục cũng thấy bầy chó hoang đầu tiên. Chúng đang lò dò đánh hơi trên một khoảng đất trống cách chúng tôi mấy chục mét. Bởi vì mệt mỏi với mấy chuyến đi bộ kiểu này, muốn thả lỏng và chạy một lúc, nên tôi bảo những người cùng đội tìm kiếm là tôi sẽ đi trước và xem Gobi có ở trong bầy chó hoang đằng kia không.

Cảm giác được chạy thật tuyệt.

Khi tôi đến chỗ bầy chó, chúng tản mát, mỗi con một chỗ. Mảnh đất không trống trơn mà có một toà nhà xây dở nằm trong góc. Tôi quyết định đi loanh quanh chứ không quay lại đi chung với mọi người.

Trời tháng Tám nóng hừng hực, nóng hơn hẳn độ cuối tháng Sáu. Càng về chiều, nắng càng gắt hơn. Chắc trời nắng quá nên không có ai lảng vảng quanh đây và tiếng xe cộ cũng lắng xuống. Tôi đứng dưới bóng của tòa nhà xây dở, hưởng thụ sự tĩnh mịch.

Bỗng, có gì đó thu hút sự chú ý của tôi. Một thanh âm quen thuộc, đưa tôi trở về ngày Lucja và tôi đến nhận nuôi Curtly, con St. Bernard của chúng tôi.

Tôi đi ra đằng sau tòa nhà để xem thanh âm đó phát ra từ đâu.

Chốc lát sau, tôi đã thấy chúng.

Lũ chó con. Hai chú chó con, tầm bốn, năm tuần tuổi, rúc trong ổ. Tôi ngắm nhìn chúng một lúc. Không thấy chó mẹ đâu cả, nhưng trông chúng khỏe mạnh lắm. Dù đối với vật nuôi, Urumqi hiển nhiên không phải thiên đường, nhưng nhà ở san sát thế này giúp những chú chó sẽ có nhiều cơ may lượm thức ăn hơn.

Trông lũ chó con thật xinh xắn và dễ thương với đôi mắt to và bàn chân nhỏ xíu vụng về. Với tất cả động vật có vú mà nói, giai đoạn vô hại và đáng yêu này sẽ sớm qua đi. Tôi tự hỏi bao lâu nữa chúng sẽ phải tự lo cho mình. Tôi tự hỏi liệu chúng có sống sót cả không.

Tôi đang định bước lại gần chúng thì nghe có ai đó gọi tên mình. Họ kích động lắm. “Thầy thuốc” chạy ra chộp lấy tay tôi, rồi giục tôi quay lại chỗ Lil.

“Họ trông thấy một con chó. Họ nghĩ đó là Gobi. Chúng ta phải đến đó ngay.”

Đầu óc tôi trống rỗng , chỉ còn tiếng vo vo bên tai.

Ngay cả Lu Xin cũng tràn trề hi vọng. Chúng tôi lái xe đến đó. Quãng đường tám trăm mét rôm rả tiếng nói cười.

Đến nơi, niềm tin cũng bắt đầu chớm nở trong tôi. Cơ mà dù sao kiểu gì tôi cũng đặt niềm tin thôi. Tôi gần như không ngủ nghỉ trong suốt ba mươi sáu giờ qua, và cũng không thể nhớ nổi lần cuối mình ăn cơm là lúc nào.

Xe dừng bánh, một ông lão tay cầm áp phích của chúng tôi đang tự giới thiệu với Lil. Hai người họ trao đổi qua lại một lúc. Ông lão chỉ vào hình Gobi trên áp phích và bảo rằng ông đã nhìn thấy cô nhóc ở một con đường nào đó đằng sau một toà chung cư.

Chúng tôi đến nơi ông lão chỉ. Tôi cố gắng giải thích với mọi người rằng vừa đi vừa gọi “Gobi! Gobi!” hoàn toàn vô nghĩa bởi Gobi chỉ mới tiếp xúc với cái tên đó có vài ngày. Cô nhóc lanh lợi nhưng không thông minh đến mức ấy.

Ấy vậy mà chẳng ai nghe tôi cả. Bài ca “Go-bi! Gooooo-bi!” vẫn cứ tiếp diễn. Đi bộ được ba mươi phút, tôi bắt đầu thấm mệt. Adrenalin17* tăng vọt lúc nhận được tin tức đầu tiên đã chẳng còn tí nào. Một ngày như thế là quá đủ rồi. Tôi muốn về khách sạn.

17* Loại hoóc-môn tiết ra khi bạn sợ hãi, tức giận hay thích thú, khiến tim đập nhanh hơn.

Cách đó mấy chục mét, một nhúm lông nâu vụt qua ngay trước mắt làm chúng tôi ngớ người. Ai nấy đều nín lặng. Sau đó, mọi thứ loạn hết cả.

Tôi vụt chạy về phía con chó, bỏ lại tiếng kêu la đằng sau. Là Gobi thật sao? Đúng màu lông rồi, kích cỡ cũng tương đương. Cũng có khi không phải Gobi đâu nhỉ? Làm sao suôn sẻ thế được?

Lúc tôi đến nơi, con chó đã biến mất. Tôi tiếp tục tìm kiếm, chạy hết ngách này đến ngách khác, cả những ngõ ngách bẩn thỉu giữa các tòa chung cư tôi cũng không bỏ qua.

“Gobi? Gobi! Dion! Dion!”

Có tiếng gọi đằng sau lưng tôi, đâu đó gần lối đi chính. Tôi chạy ngược lại.

Đội tìm kiếm đang tụ tập lại, vây quanh một chỗ. Họ tự động dạt sang hai bên nhường lối cho tôi. Nó đây rồi. Một con chó sục màu nâu hung đen. Mắt đen. Đuôi xù. Mọi đặc điểm đều khớp. Nhưng nó không phải Gobi. Tôi đã biết từ lúc cách nó ba mét. Chân nó quá dài, còn đuôi thì cụt lủn. Trong nó không có lòng can đảm của Gobi. Nó đánh hơi quanh bàn chân của mọi người như thể chân họ là những gốc cây vậy. Nếu là Gobi, cô nhóc sẽ ngước lên, mắt hấp háy, sâu hun hút nhìn thẳng vào bất cứ ai tình cờ ở gần nó.

Những người khác mới đầu cũng phần nào tin đó là Gobi, nhưng cuối cùng , họ phải chấp nhận hiện thực.

Cuộc tìm kiếm vẫn phải tiếp diễn.

Trở lại khách sạn, nhân lúc cơ thể chưa bủn rủn vì mệt mỏi cả ngày, tôi ngẫm lại những gì đã trải qua vào buổi chiều.

Các thành viên trong đội tìm kiếm đều thật tuyệt vời - họ tận tâm, nhiệt tình và sẵn sàng cống hiến thời gian quý báu của mình mà chẳng cần báo đáp - nhưng họ chẳng hiểu gì về Gobi. Họ đi khắp một thành phố toàn chó hoang chỉ để tìm một chú chó duy nhất. Và tất cả những gì họ có là một tấm áp phích tự in với mấy bức ảnh mờ nhạt.

Họ chưa từng gặp Gobi, chưa bao giờ nghe thấy cô nhóc sủa hay nhìn thấy đuôi cô nhóc ngúng nguẩy khi chạy. Vậy thì làm sao họ nhận ra Gobi giữa một thành phố đông đúc thế này cơ chứ?

Tìm Gobi đúng như mò kim đáy bể vậy - thậm chí còn khó hơn cả mò kim đáy bể. Chỉ có tên ngốc như tôi mới nghĩ rằng mình có thể tìm thấy cô nhóc.

15

BẠN CÓ THỂ NÓI TÔI LÀ “CON NGHIỆN”, BỞI với tôi cảm giác dẫn đầu trong một cuộc đua như một thứ ma tuý cực mạnh. Trong một số cuộc đua, chẳng hạn như Marathon des Sables, nếu anh trở thành tuyển thủ dẫn đầu đoàn đua, thì đằng trước anh sẽ có nào xe, nào máy bay trực thăng bám sát anh từng bước từ trên không , rồi cả máy bay không người lái và ê kíp quay phim ghi lại khoảnh khắc vinh quang của anh thật rõ nét. Được thế thì vui phải biết. Tuy vậy, điều tuyệt vời thực sự không đến từ động cơ công suất cao hay công nghệ hiện đại. Hễ nghĩ tới đằng sau tôi có cả một nghìn vận động viên lận - tất cả họ đều chạy chậm hơn tôi - là tôi lại muốn nhảy lên sung sướng.

Tôi đã may mắn được trải nghiệm thứ cảm xúc trên cả tuyệt vời ấy trong hai, ba ngày đua ở Ma rốc và hàng đống cuộc đua khác nữa. Lần nào nằm trong số những người dẫn đầu, cho dù có máy bay trực thăng trên đỉnh đầu hay không có gì khác ngoài hội tình nguyện viên chán nản tìm nơi trú ẩn trong điều kiện thời tiết của Scotland, thì tôi vẫn thấy hào hứng mấy ngày liền.

Kể cả khi tôi không về nhất để nắm chắc chức vô địch đi chăng nữa. Bản thân tôi vốn là một người thực tế. Tôi biết mình là ai. Tôi sẽ không bao giờ vô địch trong một giải đua như Marathon des Sables. Những giải đua như thế, top 10 người dẫn đầu chỉ dành cho những vận động viên kiên cường nhất hành tinh. Còn tôi ấy à, tôi chỉ là một vận động viên yêu thích chạy bộ, người đến với môn thể thao này khi đã bước sang bên kia con dốc của cuộc đời, sau một thập kỉ sắm vai gã béo cục mịch nằm ườn trên chiếc sô pha. So với mấy vận động viên chuyên nghiệp, những người đã dành cả cuộc đời mình để chạy, xác suất giành chiến thắng của tôi bằng không.

Vậy mới nói, tôi phải đặt mục tiêu thật cẩn trọng. Tham gia một giải đua cùng với những vận động viên xuất sắc nhất thế giới, chiến thắng, với tôi, là có tên trong top 20. Về đích với thứ hạng cao trong bảng xếp hạng ở giải đua Marathon des Sables hẳn sẽ ngọt ngào như giành huy chương vàng tại giải Atacama vậy.

Tôi nên biết ơn vì trong mấy năm chạy bộ tôi đã quá quen với những thứ hạng cao. Tất nhiên, cũng sẽ có những thứ hạng thấp, nhưng chẳng nhằm nhò gì so với việc không thể thi đấu. Bị chấn thương khiến tôi không thể chạy nhanh theo ý mình thì tôi chết mất. Bị những người mà tôi chắc chắn sẽ chạy nhanh hơn họ vượt mặt sẽ khiến tôi đau đớn như dao cứa vào tim. Thất vọng về bản thân khiến tôi dừng lại giữa chừng và từ bỏ cuộc đua hoàn toàn, như điều tôi đã làm trong giải chạy siêu bền đầu tiên, cũng đau đớn chẳng kém.

Những lần như thế làm tôi chán nản và mệt nhoài. Tôi giận mình, rồi nản lòng đến mức muốn buông xuôi tất cả. Thời gian đó, ở bên cạnh tôi sẽ chẳng dễ chịu gì đâu.

Kiếm tìm Gobi trên đường phố Urumqi vào mùa hè nóng nực thế này làm tôi chực thấy suy sụp. Tôi dự cảm chuyện này sẽ là một cú sốc lớn.

Về thứ hai toàn đoàn trong giải đua qua Sa mạc Gobi làm tôi phấn khởi lắm. Phấn khởi vì thành tích trong nghiệp chạy, phấn khởi vì thành quả của huấn luyện, và phần nhiều vì sắp đón Gobi về nhà. Ngay sau khi Gobi mất tích, cơ thể tôi kích hoạt trạng thái hành động - đầu tiên là nghĩ cách tìm cô nhóc, sau đó là báo tin cho những người ủng hộ, sau nữa là tự mình đến Urumqi tham gia đội tìm kiếm. Cuộc sống trở nên tất bật kể từ giây phút nhận được cuộc gọi kinh hoàng đó. Mọi việc cứ dồn dập buộc tôi phải luôn tay luôn chân.

Ấy vậy mà đến Urumqi rồi, mọi thứ đều thay đổi. Buổi sáng đầu tiên thức dậy trong khách sạn, cuối cùng tôi đã chấp nhận hiện thực. Tôi đã tin rằng chẳng còn gì nữa cả.

Tôi biết, đứng trước đội tìm kiếm, tôi cần bày ra vẻ mặt dũng cảm. Vì vậy, khi Lu Xin đến đón tôi ngay sau bữa sáng, tôi đeo kính râm lên, nở nụ cười thật tươi, và vờ như mọi chuyện đều ổn.

Buổi sáng , chúng tôi tiếp tục chiến dịch dán áp phích, chia nhau đi dọc các tuyến phố và kẹp một tờ áp phích vào kính chắn gió của mỗi chiếc xe đậu bên vệ đường. Thường thì một, hai giờ sau, chúng tôi quay lại đó, tất cả áp phích đều bị gỡ xuống và chất đống trong thùng rác.

Chúng tôi còn tranh luận với mấy nhân viên vệ sinh đường phố vài lần. Lần đầu tiên, một người già không nghe Lu Xin giải thích. Đến lần thứ hai, người đứng ra là “thầy thuốc”. Chị ta phải nói chuyện với một ông già, người la hét bằng cả trái tim và linh hồn mình. Ông ta vừa nói, văng nước bọt tùm lum, vừa xé một tệp áp phích mới gỡ ra từ mấy chiếc xe đầu tiên. “Thầy thuốc” cũng hăng máu, hét lên như ông ta. Họ nói nhanh đến mức tôi không kịp bảo Lil dịch. Có thể nói là không ai chịu nhường ai.

Cuối cùng “thầy thuốc” chiến thắng. Ông ta liếc nhìn tôi đầy khó chịu, vung tay lên rồi bỏ đi. Không riêng gì tôi, cả hội đều đứng như trời trồng trước màn trình diễn của “thầy thuốc” rồi tặng chị ta những cái nhìn đầy thán phục khi chị quay lại.

Đó là giây phút đẹp đẽ duy nhất trong ngày. Trừ lúc đó, tôi dành hầu hết thời gian để ép mình không suy nghĩ viển vông. Nhưng bất khả thi. Cứ sểnh ra là tôi lại nhìn thoáng qua dãy núi đằng xa và sợ rằng Gobi đã lên núi bởi đó là nơi cô nhóc quen thuộc.

Giữa buổi chiều, lại có một vụ náo động khác. Có người báo nhìn thấy Gobi và gửi kèm một bức ảnh. Đáng tiếc là chú chó đó chẳng có chỗ nào giống Gobi cả. Tôi định bỏ qua, nhưng những người còn lại trong đội không nghĩ thế. Họ muốn kiểm tra cho chắc. Sau vụ suy sụp ngày hôm trước, tôi ngạc nhiên khi đội tìm kiếm vẫn hết sức lạc quan.

Rõ ràng là chú chó đó không hề giống Gobi. Vậy nên tôi quay lại, lên xe ngồi càng nhanh càng tốt. Có lẽ tôi còn có vẻ như tuyệt vọng muốn đi ngay. Theo một khía cạnh nào đó thì đúng là vậy. Tôi chỉ muốn nghỉ ngơi một lát. Nụ cười giả tạo đang siết chết tôi.

Khi Lu Xin đưa tôi về khách sạn, trời đã khuya. Chúng tôi đã dán hàng ngàn áp phích dọc theo hàng dặm đường có xe đậu. Chúng tôi cãi nhau với bác lao công , xin xỏ các chủ cửa hiệu và chứng kiến vô số chủ xe ném áp phích xuống đất mà không thèm liếc mắt nhìn lấy một cái. Trừ bữa sáng , cả ngày nay tôi chưa có gì vào bụng , người vẫn uể oải sau chuyến bay dài, và vừa hay tin nhà hàng trong khách sạn đóng cửa buổi tối.

Tôi gọi phục vụ phòng , lấy đồ uống trong tủ lạnh mini và thử gọi điện cho Lucja. Không ai nhấc máy. Tôi đợi thêm một lúc, lấy thêm đồ uống , rồi gọi lại lần nữa.

Lúc Lucja gọi lại, nỗi buồn tích tụ chợt tuôn trào trong tôi như dòng nước rút khỏi bồn tắm sau khi giật nắp. Trong một phút, thậm chí lâu hơn, tôi không nói được gì mà chỉ khóc.

Chờ tôi bình tĩnh lại, vuốt mặt, Lucja kể cho tôi nghe vài tin tức. Cô ấy đã liên lạc qua email với Kiki sau khi tôi rời Edinburgh. Vì tôi đang ở Urumqi nên cả Lucja và Kiki đều cho rằng chúng tôi cần làm tất cả những gì có thể để kéo truyền thông địa phương vào cuộc. Mấy ngày qua, Lucja đã liên lạc với các hãng thông tấn. Sau khi chật vật vì bất đồng ngôn ngữ, cô ấy đã thuyết phục được một hãng thông tấn đến phỏng vấn tôi vào ngày mai.

“Là một chương trình truyền hình địa phương thôi,” Lucja bảo. “Không nhiều, nhưng đó mới chỉ là khởi đầu thôi. Chắc chắn sẽ trở thành một cú hích, như bài báo trên Daily Mirror vậy.”

“Anh hi vọng thế,” tôi đáp. Cả hai chúng tôi đều hiểu hiện giờ trái tim tôi đang trống rỗng.

“Anh này,” cô ấy nói tiếp. “Có người trên Facebook bảo, ngoài tiếng Trung , anh cần bổ sung những thứ tiếng khác lên áp phích nữa, bất cứ thứ tiếng nào mà người Duy Ngô Nhĩ biết đọc. Anh làm thế chưa?”

“Chưa,” tôi thở dài, đưa mắt nhìn ly nước. “Lucja, vô ích thôi. Nếu Gobi vẫn còn ở trong thành phố, cả xe cộ và những bầy chó hoang sẽ xé xác cô nhóc thành từng mảnh. Còn nếu Gobi đã chạy lên núi, thì chắc cô nhóc phải đi được cả trăm dặm rồi cũng nên. Kể cả chúng ta có biết Gobi đi hướng nào thì cũng làm gì có đường mà theo. Tất cả những gì chúng ta làm là dán áp phích, ấy vậy mà giờ chúng ta lại nhận ra người dân địa phương sẽ đọc không hiểu. Cuộc tìm kiếm chưa kịp bắt đầu đã chết từ trong trứng nước rồi.”

Lucja hiểu, tốt nhất nên để tôi ca cẩm thêm một lúc nữa. Chỉ khi tôi không còn gì để nói nữa, cô ấy mới nói tiếp, “Anh biết em sẽ nói gì mà, phải không ?”

Phải, tôi biết. Nhưng tôi vẫn muốn nghe chính cô ấy nói.

“Kiên nhẫn đi anh. Sáng mai mọi chuyện sẽ khác.”

Chỉ là lần này, Lucja đã sai. Lúc thức dậy, tôi vẫn không cảm thấy khá hơn. Cả buổi sáng hôm ấy, cuộc tìm kiếm không có bất cứ thu hoạch đột phá nào. Vẫn như thường lệ, chúng tôi đi dán áp phích, tranh cãi và buồn chán trông ra dãy núi đằng xa.

Tuy nhiên, vẫn có một điểm khác biệt: đội tìm kiếm ngày càng lớn mạnh. Ngoài Lu Xin, Lil, thợ cắt tóc và “thầy thuốc”, đã có thêm nhiều người khác gia nhập cùng chúng tôi. Có lúc, tôi để ý thấy đội tìm kiếm lên đến năm mươi người, trong đó hai mươi người tìm kiếm suốt đêm, trong khi tôi đang ngủ. Họ là những con người phi thường. Tôi không biết phải cám ơn họ bao nhiêu mới đủ.

Tham dự phỏng vấn truyền hình ở khách sạn quả là một ý hay. Nó khiến tôi nhớ lại lúc quá trình gây quỹ khởi sắc, chúng tôi đã hào hứng ra sao. Tôi đã không tham gia thêm cuộc phỏng vấn nào kể từ khi Gobi mất tích. Đa phần là do tôi muốn thế. Không có tin tức mới, nên tôi gần như chẳng có gì nhiều để nói.

Buổi phỏng vấn với đài truyền hình địa phương thì khác. Phóng viên thắc mắc tại sao một người Scotland lại đến tận thành phố này chỉ để tìm một chú chó. Dường như anh ta khá thích thú khi biết cuộc tìm kiếm được dẫn dắt bởi người địa phương.

Dù đài truyền hình làm gì với câu chuyện, thì nó cũng phát huy tác dụng rồi. Ngày hôm sau, có thêm hai tình nguyện viên tham gia tìm kiếm và hơn chục lời mời phỏng vấn từ các đài truyền hình và tờ báo Trung Quốc. Hệt như với Daily Mirror và BBC, bài phỏng vấn với chương trình truyền hình đầu tiên của Trung Quốc đã lan rộng , khơi dậy hứng thú của người dân khắp đất nước. Thậm chí, một đài truyền hình còn cử cả một đoàn làm phim theo chân tôi trong hành trình tìm kiếm trên các tuyến phố để ghi hình cho chương trình phát sóng trực tiếp.

Không phải tất cả sự chú ý đều mang tính tích cực. Có người phụ nữ gọi điện cho Lu Xin báo rằng cô ta tận mắt trông thấy Gobi chạy qua dãy núi phủ tuyết trắng. Tôi thì lờ đi ngay nhưng một vài người trong đội tìm kiếm thì có vẻ quan tâm.

Nên tôi nói: “Bảo với cô ấy nếu mắt cô ấy tinh đến thế, thì cô ấy nên nhìn kĩ hơn. Chúng ta cần biết chính xác Gobi hiện ở ngọn núi nào trên dãy núi đó.”

Không ai hiểu tôi đang nói đùa.

Ngày tiếp theo, mẫu áp phích mới ra lò. Thông điệp được viết bằng tiếng Trung và thứ tiếng giống như tiếng Ả Rập mà người Duy Ngô Nhĩ dùng. Dân địa phương vẫn không mảy may quan tâm. Song ít nhất thì truyền thông ngày càng hứng thú với câu chuyện.

Trên đường phố, mọi người bắt đầu tiếp cận tôi ngỏ ý muốn chụp ảnh. Mà vốn tiếng Trung hạn hẹp của tôi cộng thêm vốn tiếng Anh hạn hẹp của họ thành ra chúng tôi không nói được gì nhiều. Có điều, dường như họ đều nghe nói về Gobi và hỏi xin vài tấm áp phích. Mỗi lần như thế, tôi lại tự nhủ nếu chiến dịch áp phích có tác dụng thì chỉ cần một tấm là đủ.

Ngoài thông tấn Trung Quốc, các hãng thông tấn quốc tế cũng bắt đầu sôi sục trở lại. Lucja bận tiếp điện thoại ở nhà. Còn tôi, sau một ngày tìm kiếm trên đường phố, tôi trở lại khách sạn và tiếp chuyện các ký giả và nhà sản xuất của Anh và Mỹ. Ngày nào cũng bận rộn đến khuya và ngủ không đủ giấc, nhưng vẫn còn tốt hơn là chỉ biết ngồi vô dụng một chỗ và chán nản.

Từ khi đến Urumqi, tôi chỉ biết dựa vào Lu Xin và đội của cô ấy. Không có lời đề nghị giúp đỡ nào từ chính quyền hay các tổ chức khác. Chúng tôi tự thân vận động - rõ ràng là vậy.

Nhiều năm sau, người ta bảo tôi - vốn nghĩ tuổi thơ tôi chua xót như thế, chắc hẳn tôi sẽ sa ngã - nhưng tôi của bây giờ khiến họ ngạc nhiên. Nghe thế, tôi đáp, tuổi thơ tôi mang nhiều nỗi đau, nhưng cũng cho tôi bài học để tồn tại. Tất cả những đau thương và mất mát đó đã đem lại cho tôi sự kiên cường , và chạy đã trở thành cách tôi giải tỏa cảm xúc. Đau đớn, nghi hoặc và sợ hãi. Tôi nhận ra mình có thể buông bỏ tất cả những cảm xúc đó khi chạy. Như thể, tôi sở hữu một chiếc công tắc, có thể bật tắt theo ý muốn.

Năng lực đó cũng hữu dụng trong công việc nữa. Tôi không bỏ cuộc ngay cả khi dường như chẳng còn gì, và không bao giờ chấp nhận câu trả lời không. Sự kiên cường mà tôi học được khi còn bé đã giúp tôi trong nhiều lĩnh vực. Tôi thực sự biết ơn vì điều đó. Thế nhưng , lạc mất Gobi là một cú sốc với tôi. Giờ tôi mới vỡ lẽ ra rằng tôi không kiên cường như tôi vẫn tưởng.

Sau những gì cô nhóc đã làm để được sánh bước bên tôi, sao tôi có thể quên cô nhóc chứ. Sao tôi có thể bật công tắc và bước tiếp đây. Tôi không thể ngừng nghĩ về kết quả tồi tệ nhất, từ nghi ngờ vận may của chúng tôi, đến cảm giác đau đớn tột cùng khi nhận ra rằng Gobi đang cách tôi ngày càng xa.

16

NGÀY THỨ TƯ Ở URUMQI CŨNG NHƯ BAO ngày khác. Tôi dậy lúc 6 giờ, cùng ăn bánh bao với đội tìm kiếm trong một quán cà phê container. Chúng tôi vừa ăn vừa thảo luận xem Gobi đã mất tích bao lâu: theo công bố chính thức là mười ngày, nhưng không ai trong số các tình nguyện viên tin. Tất cả họ đều cho rằng , ít nhất phải gấp hai lần số đó.

Malan - một cô bé mới gia nhập, nâng tổng số tình nguyện viên trong buổi sáng hôm đó lên mười người. Malan bảo đã nhìn thấy tôi trên tivi tối hôm trước. Vì cảm động trước câu chuyện giữa tôi và Gobi nên cô bé liên lạc với Lu Xin hỏi xem có thể đi cùng đội tìm kiếm Gobi được không. Ngay sau khi gia nhập, cô bé đã chứng tỏ được rằng mình có ích. Malan đề nghị dán áp phích phiên bản tiếng Duy Ngô Nhĩ tại khu phố Duy Ngô Nhĩ lân cận.

Mỗi ngôi nhà mang trong mình một câu chuyện, một tác phẩm nghệ thuật chắp vá từ những viên gạch lỏng lẻo và mái tôn gỉ sét. Nếu như tất cả những tuyến phố chúng tôi đi qua đều rộng rãi, sạch sẽ và xe hơi đậu thành hàng dài bên vệ đường , thì khu người Duy Ngô Nhĩ lại là những con hẻm hẹp, quanh co, lẻ tẻ vài chiếc xe, và toàn lồng dê to gần bằng phòng tắm khách sạn.

Tôi băn khoăn liệu đây có phải lần đầu tiên các tình nguyện viên người Hán trong đội tìm kiếm xuất hiện ở một khu phố Duy Ngô Nhĩ thế này. Cho dù có, thì họ cũng không thể hiện ra. Họ chỉ tập trung vào nhiệm vụ phát càng nhiều áp phích càng tốt.

Tuy vậy, không như mọi hôm, buổi chiều hôm nay, Lu Xin chở tôi về khách sạn để thực hiện một cuộc phỏng vấn còn cô ấy thì lái xe đến sân bay đón Richard, bạn cùng lều với tôi trong Giải đua Gobi. Nhà cậu ta ở Hồng Kông nhưng vì yêu cầu công việc nên cậu ta rong ruổi khắp Trung Quốc. Kể từ khi kết thúc cuộc đua đến nay, tôi và cậu ta vẫn giữ liên lạc. Cũng chính Richard đã hào phóngủng hộ một số tiền lớn cho quỹ Bring Gobi Home. Khi biết chỉ cần một chuyến bay ngắn là có thể đến Urumqi, cậu ta đã ngỏ ý muốn đến đây vài ngày và cùng tìm kiếm Gobi.

Có một người bạn đến giúp đỡ khiến tôi hào hứng lắm. Chưa kể, Richard còn thành thạo tiếng Quan Thoại. Tôi cũng thèm được chạy nữa. Từ khi đến Urumqi, tôi cứ lững thững đi hết tuyến phố này đến tuyến phố khác bằng tốc độ con rùa, như các tình nguyện viên khác. Tôi gắng ra hiệu cho họ đi nhanh hơn, nhưng vô ích.

Cho nên, ngay khi Richard đến nơi, chúng tôi đã cùng chạy trong một công viên gần khách sạn. Tôi đã để ý thấy có mấy ngôi làng nằm dọc sườn núi, trong vùng cây bụi cằn cỗi, cách thành phố mấy quả đồi. Tôi muốn nhờ Richard phát một tệp áp phích cho những người dân ở đó.

Còn Richard thì có dự định khác. Lúc đó, tôi vẫn chẳng hay biết Lucja đã liên lạc với Richard, và nhờ cậu ta chăm sóc tôi, bởi cô ấy biết tôi căng thẳng và không ăn uống đàng hoàng.

Chạy xong , chúng tôi gặp mặt đội tìm kiếm. Lúc Lil báo cáo với tôi về mấy cuộc gọi mà cô bé nhận được, Lu Xin có vẻ bồn chồn không yên. Không có tin tức gì mới. Chúng tôi dán càng nhiều áp phích thì càng nhiều người gọi điện đến. Đa số là báo động giả. Thi thoảng , có người hỏi liệu chúng tôi có thể tăng tiền thưởng nếu họ đưa Gobi về hay không. Thảo luận với họ chỉ tốn thời gian thôi, nên sau mấy lần, Lu Xin không báo lại vụ này với tôi nữa.

Những cuộc gọi ấy kì lạ lắm. Tôi đoán Lu Xin đang giấu tôi chuyện gì đó. Tôi gặng hỏi mãi, thì cô ấy nói: “Chỉ là mấy gã tồi thôi.” Nhưng tôi không tin.

“Cô cứ nói đi. Tôi muốn biết.”

“Chiều nay Lu Xin nhận được một cuộc gọi. Họ bảo họ sẽ cho Gobi lên thớt.”

Mới đầu, tôi không hiểu, nhưng lúc hiểu rồi, tôi thấy nôn nao. Nếu đây chỉ là một trò đùa dai, thì thật hèn hạ. Nhưng nếu đây là sự thật, tôi sẽ bàng hoàng lắm.

Trở về khách sạn, tôi đã bình tĩnh hơn đôi chút, nhưng cuộc phỏng vấn với Đài BBC tối hôm đó thì đúng là thảm họa. Cuộc tìm kiếm khiến tôi thực sự vô vọng và chán nản. Vẫn biết mình phải tỏ ra lạc quan và tích cực, phải cho người ta thấy tình huống vẫn còn có thể cứu vãn, nhưng tôi không làm được. Tôi kiệt sức, bần thần, và hoàn toàn không thấy bất kỳ tia hi vọng nào. Hiển nhiên, đây không phải thời kỳ tâm đắc để tiếp truyền thông.

Dù bải hoải lắm, nhưng tôi vẫn muốn tham gia buổi phỏng vấn vì bài báo đăng trên Huffington Post hai ngày trước. Với tựa đề “Missing Marathon Dog Gobi May Have Been Snatched by Dog Meat Thieves”18*, bài báo đã trích dẫn lời phát biểu của đại diện Tổ chức Nhân đạo Quốc tế HSI. Người này “rất lo ngại khi Gobi mất tích ở Trung Quốc, nơi mà 10 đến 20 triệu con chó bị giết thịt mỗi năm.” Lu Xin có nói với tôi, buôn bán thịt chó không phổ biến ở vùng này, bởi đây vốn là quê hương của người Duy Ngô Nhĩ theo Hồi giáo. Họ sẽ không ăn thịt chó bởi họ cho rằng thịt chó không xứng được người ăn như thịt lợn.

18*Kathryn Snowdon, “Missing Marathon Dog Gobi May Have Been Snatched by Dog Meat Thieves, Humane Society International Warns,” Huffington Post, August 22, 2016, http://www.huffingtonpost.co.uk/entry/gobi-missing-marathon-dog-may-have-been-snatched-by-dog-meat-thieves-humane-society-international-warns_uk_57baf 263e4b0f78b2b4ae988.

Nói cách khác, bài báo không chỉ đưa ra thông tin sai lệch mà còn không giúp được gì. Hiện đã có một nhóm nhỏ những người yêu chó gia nhập đội tìm kiếm. Nhưng cái chúng tôi cần là các hãng thông tấn Trung Quốc, cả thông tấn quốc gia và địa phương , đăng tải câu chuyện về Gobi, đồng thời tuyên truyền để người dân thị thành lưu tâm đến Gobi bé nhỏ. Chris và Kiki đều khuyên tôi lạc quan và đừng nói bất kì quan điểm tiêu cực nào về nhà nước khi trả lời phỏng vấn. Cũng dễ hiểu thôi. Nếu chính quyền cho rằng câu chuyện được các hãng thông tấn phương Tây khai thác vô tình khiến người dân Trung Quốc bị gắn mác những người ăn thịt chó man rợ, thì hi vọng được họ giúp đỡ sẽ tan biến.

Thật vậy, đội tìm kiếm địa phương hoạt động rất hiệu quả. Tôi muốn chia sẻ để BBC và những người ủng hộ ở quê nhà biết đến sự hỗ trợ đáng kinh ngạc của người dân nói chung và các cấp chính quyền. Tôi muốn khẳng định một cách chắc nịch rằng những người tôi gặp đều tốt bụng , hiền hoà và hào phóng. Tôi chưa từng dám đòi hỏi nhiều hơn từ đội tìm kiếm, truyền thông Trung Quốc và Kiki ở Bắc Kinh. Cho dù có tìm thấy Gobi hay không , thì sự trợ giúp của họ vẫn cứ phi thường.

Đó mới là những gì tôi muốn nói trên BBC tối hôm đó. Ấy thế mà, tôi lại làm như mình muốn buông xuôi tất cả.

Richard đã cứu vãn tình thế bằng ít bia và một bữa ra trò. Chúng tôi tám chuyện trên trời dưới đất, không dính dáng đến Gobi hay đội tìm kiếm. Richard bảo trước đây cậu ta là lính thuỷ Mỹ nhưng không kể gì thêm. Sau đó, câu chuyện lại quay trở về Gobi. Cậu ta có cả mớ giả thuyết hay ho về chuyện đã xảy ra với Gobi.

“Lạ thật,” cậu ta nói. “Cho dù không có mấy cuộc gọi đó, thì tôi vẫn cảm thấy điều bất hợp lý ở đây. Tôi nghĩ cả Nurali lúc đó ở Mỹ hay bố chồng cô ấy đều không liên quan đến chuyện Gobi bỏ nhà đi. Ngay khi câu chuyện về Gobi nổi tiếng , làm đòn bẩy cho việc gây quỹ, thì vô hình trung đã có kẻ nhận thấy cơ hội để kiếm chác chút đỉnh. Tất cả chỉ vì một chữ thôi, Dion - Tiền. Một vụ tống tiền. Sẽ có người gọi điện đến thôi.”

Tôi không dám chắc. Một phần trong tôi không tin lời cậu ta, là bởi làm gì có ai kiên trì chừng ấy thời gian chỉ vì vài nghìn đô la, phần bởi bản thân tôi không muốn tin. Thậm chí, tôi không dám suy xét xem Richard đoán đúng hay không , và sự sống còn của Gobi tùy thuộc vào kẻ ngu ngốc nào đó cho rằng hắn ta có thể kiếm bộn tiền từ chúng tôi. Chẳng may tên bắt cóc thay đổi chủ ý thì sao? Chẳng may hắn ta sờn lòng thì sao? Hắn ta sẽ đưa Gobi về với Nurali chứ? Hay hắn sẽ vứt bỏ cô nhóc như mẫu thí nghiệm thất bại?

Chợt, điện thoại tôi rung lên. Có tin nhắn từ Lu Xin.

Anh xem tấm ảnh này xem. Có phải Gobi không?

Tôi phủ quyết ngay. Hình ảnh quá mờ. Nhưng theo những gì tôi nhìn thấy thì chú chó trông không giống Gobi. Hơn nữa, trên đầu nó có một vết sẹo sâu. Gobi không có vết sẹo nào thế này trong cuộc đua.

Vì vậy, tôi nhanh chóng hồi đáp là không phải Gobi, nhưng Richard thì ngờ ngợ.

“Chúng ta không đi xem thử à?” Cậu ta hỏi.

Tôi mệt mỏi, khước từ cậu ta. “Anh b