8. HOÀI NAM
Hoài Nam và Tự Thắng học với nhau từ ngày ở Trại Nhi đồng Khe Khao. Trong cả lớp, chỉ mỗi nó có ba là tướng. Với bọn trẻ con, bố giữ chức gì cũng chẳng ảnh hưởng đến quan hệ giữa chúng với nhau. Bố tao là cấp dưới của bố mày nên không dám đánh bố mày, chứ tao có phải cấp dưới của mày đâu mà không dám đánh mày?
Tình cờ, Tự Thắng biết chuyện của ba Hoài Nam. Những gì nghe được cứ ám ảnh nó mãi. Chuyện xảy ra hôm ba xin phép trại cho Tự Thắng về nhà hai ngày, trước khi ông đi B*.
•
Đi vào Nam. Trong chiến tranh, các khu vực tác chiến quân sự được đặt theo các tên gọi quy ước: A là miền Bắc, B là miền Nam, C là Lào và D là Campuchia (sau này đổi thành K).
Khác với lần trước, khi ba Tự Thắng chuẩn bị đi vào miền Nam, các chú trong cơ quan đến nhà nói chuyện rất ồn ào. Lần này, ai cũng nói rất nhỏ, đôi lúc thì thầm. Tự Thắng cảm thấy có điều gì đó khá nghiêm trọng. Tên ba của Hoài Nam và một vài người nữa được nhắc đi nhắc lại. Ba tưởng Tự Thắng ngủ vì nó nằm ở phòng trong, trùm chăn kín đầu. Một chú nói: “Tôi chắc chắn thủ trưởng bị oan. Nhưng việc này của ban chuyên án, mình không ý kiến được đâu.” Có một từ lặp đi lặp lại mà nó không hiểu là “xét lại”… Ba nói: “Trung ương nhận định đây là một vụ án chống Đảng nghiêm trọng. Đã có một số người bị bắt…” Tự Thắng rất lo lắng. Ba vẫn nói Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi là nơi đào tạo con em của những cán bộ quân đội và trung ương thành thế hệ kế cận cho cách mạng. Hết năm học này, nó và Hoài Nam sẽ lên trường Trỗi. Nếu ba Hoài Nam bị bắt, có thể Hoài Nam sẽ không được học ở đó nữa.
Khi các chú ra về, Tự Thắng vùng dậy hỏi: “Tại sao ba của Hoài Nam lại chống Đảng? Nếu người ta bắt ba Hoài Nam thì ba có bị ảnh hưởng gì không?” Chưa bao giờ Tự Thắng thấy ba giận đến thế. Ông cho nó một cái bạt tai và lạnh lùng bắt nó hứa phải quên ngay chuyện này, coi như chưa bao giờ nghe, và từ lần sau cấm giả vờ ngủ để nghe lỏm.
Lần đầu bị ba đánh, Tự Thắng vô cùng tủi thân. Ở nhà, ba không hay nói những lời âu yếm, nhưng luôn dành cho con cái sự tôn trọng, và đối xử với chúng như những người bạn thân. Nó cảm nhận được sự yêu thương của ba với mình và luôn nghĩ về ba với niềm tự hào. Dù ba đánh không đau nhưng tự nhiên nước mắt Tự Thắng cứ trào ra. Không muốn ba biết mình khóc, nó chạy ra sân. Có lẽ câu chuyện phải có điều gì đó rất nghiêm trọng nên ba mới giận thế. Trời mù sương. Gió mùa Đông Bắc thổi từng đợt, cắt vào da thịt qua lớp áo mỏng. Tự Thắng định vào nhà mặc thêm áo, chợt thấy một làn hơi ấm choàng lên. Ba bước tới, khoác lên vai nó cái áo đại cán dạ. Vẫn mùi thuốc lá Điện Biên quen thuộc. Hai ba con lặng lẽ đi dạo hết hai vòng sân. Cuối cùng ba nói:
– Ba xin lỗi. Ba không biết con thức nên đã nói một câu chuyện mà con không nên nghe.
– Vì các chú nói ba Hoài Nam có thể bị bắt nên con lo cho nó… Cấp to như bác ấy, sao lại bị bắt được?
– Quân đội đang điều tra một số người có tư tưởng xét lại. Ba Hoài Nam nằm trong số bị nghi vấn.
– Xét lại là tội gì hả ba?
– Có thể hiểu là… không tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng con ạ. Nhưng ba tin bác ấy không làm gì sai. Những người như bác ấy không bao giờ phản bội lại lý tưởng mình theo đuổi. Chắc là có sự hiểu nhầm nên phải kiểm tra.
– Nếu sau khi kiểm tra, cấp trên vẫn bảo bác ấy có tội, thì có sao không ba?
Ba im lặng bước đi. Một lát sau ba trả lời:
– Nghiêm trọng con ạ.
– Nếu thế, Hoài Nam có được đi học trường Trỗi nữa không?
– Nói trước về những gì chưa xảy ra là điều khó. Hãy hứa với ba không kể lại chuyện này với ai.
– Con hứa.
– Đập tay nào. Lời hứa của con nhà lính nhé!
Ở nhà Tự Thắng, khi ba con đã đập tay, bao giờ cả hai cũng giữ cam kết. Đó là lời hứa danh dự.
Tối hôm đó, trước khi đi ngủ, ba đưa cho Tự Thắng một cái đèn pin cũ cùng đôi pin mới tinh. Ba nói:
– Ba đi chiến trường, được cấp đèn mới. Cho con cái này mang lên trại sơ tán mà dùng.
Có một cái đèn pin là điều Tự Thắng vẫn mơ ước. Nó cảm ơn ba rối rít, bụng nghĩ có khi ba đền bù vì đã đánh nó hôm nay.
Khi Tự Thắng tỉnh dậy, Hoài Nam cũng vừa thức. Linh và Việt Bắc vẫn ngủ. Tự Thắng rủ Hoài Nam đi dạo.
Hai đứa đi men theo hồ, len lỏi giữa những cây trĩu quả nhưng lạ hoắc, chẳng biết có ăn được không. Nhìn những quả chín vàng chín đỏ trên cao, bỗng dưng hai đứa cảm thấy đói cồn cào. Gặp một cây vả nằm ngả ra hồ, Hoài Nam trèo lên hái. Quả vả giống quả sung nhưng to hơn, bên trong ruột màu hồng, ăn ngòn ngọt và bùi. Những chùm quả chín, màu như củ hành tía, mọc chi chít trên những cành cây là là sát mặt nước. Hoài Nam không dám trèo ra xa vì nó không biết bơi. Đứng dưới gốc cây chờ hứng những chùm quả ném xuống, Tự Thắng thấy xung quanh có khá nhiều ong mật. Nhìn theo những con ong, nó phát hiện một tổ ong to như cái nón, cao ngang đầu, cách đó mấy mét. Ong bay ra do Hoài Nam làm những cành cây gần tổ rung động. Tự Thắng rối rít gọi Hoài Nam xuống.
Mặc cho Hoài Nam và Tự Thắng đến gần, lũ ong vẫn thản nhiên. Chúng đậu chồng chất lên nhau, như bâu vào một quả mít lớn. Những con ong liên tục chui ra, chui vào tổ. Nhóm ong “bảo vệ” làm nhiệm vụ canh gác ở phía trước. Một con ong lạ, màu nâu sẫm, có khoang vàng ở lưng, mặt hao hao mặt ngựa, to gấp mấy lần con ong mật, lảng vảng gần đấy. Khi nó bay đến gần, đội ong bảo vệ lao vào tấn công. Con “mặt ngựa” lảng ra, nhưng vẫn loanh quanh cạnh tổ, không hề tỏ ra sợ sệt. Hoài Nam nghĩ chắc con “mặt ngựa” tới do thám rồi về gọi đồng bọn đến cướp mật. Nổi máu nghĩa hiệp, nó nhặt một hòn sỏi nhỏ búng thẳng vào con “mặt ngựa”. Mãi về sau Hoài Nam mới biết con đó là ong bắp cày, loại “đốt ngày chết đêm.” Viên sỏi không trúng con mặt ngựa, mà lại trúng vào giữa tổ ong.
Hòn sỏi vừa chạm tổ, đàn ong mật như một cơn lốc đen lao thẳng vào Hoài Nam. Theo phản xạ, nó lấy hai tay đập túi bụi lên mặt và đầu. Tự Thắng hét “chạy đi!”. Hai đứa cắm đầu cắm cổ chạy, mỗi đứa một ngả.
Dù phân tán thành hai nhóm đuổi theo Hoài Nam và Tự Thắng, nhưng đàn ong xác định Hoài Nam là thủ phạm tấn công tổ nên chủ yếu dồn vào nó. Mặc cho hai đứa đã chạy rất xa, đàn ong vẫn không buông tha. Hoài Nam chạy cho tới khi vấp phải một rễ cây, ngã sấp xuống đám cỏ. Nó quyết định nằm im giả chết. Những con ong bâu lấy đầu, cổ và tay của nó đốt liên tục. Có vẻ như dây thần kinh đau của Hoài Nam đã bị tê liệt nên nó mặc lũ ong muốn làm gì thì làm.
Không ngờ việc Hoài Nam giả chết cũng có hiệu quả. Thấy nó không động đậy, lũ ong bắt đầu bay lượn lờ phía trên. Hoài Nam nằm úp mặt xuống đất rất lâu, cho tới khi nghe tiếng Tự Thắng gọi mới mở he hé mắt. Đàn ong đã bay hết. Dù bị ong đốt ít hơn Hoài Nam nhiều, nhưng mặt Tự Thắng cũng sưng húp và chi chít những cái gai. Mỗi con ong mật chỉ đốt một lần trong đời, khi chúng thấy tổ hoặc bản thân bị xâm phạm. Sau khi đốt, ngòi ong dính lại trên người kẻ thù, và con ong sẽ chết. Hoài Nam không biết so với Tự Thắng, mặt mình còn thảm hại hơn nhiều.
Sau này tìm hiểu, Hoài Nam mới biết vì sao hôm đó nó bị ong đốt nhiều thế. Một là nó đứng gần tổ ong hơn Tự Thắng. Hai là căn cứ vào hướng ném của hòn sỏi, lũ ong coi nó là kẻ tấn công tổ. Ba là nó dùng tay đập ong, khiến cho chất dịch ong bám vào mặt, kích thích ong tấn công. Bốn là đàn ong có xu hướng tấn công những vật màu sẫm hơn những vật lạt màu. Nó mặc áo màu xanh công nhân, còn Tự Thắng mặc áo màu cháo lòng.
Vì ong đốt quá nhiều nên Hoài Nam bị choáng. Tự Thắng dùng móng tay nhổ hết ngòi ong trên mặt, cổ, gáy và hai tay cho nó. Dù ngòi đã được nhổ ra, Hoài Nam vẫn cảm thấy những chỗ bị đốt rát bỏng. Tự Thắng ngắt đại mấy bông hoa còn đọng sương đêm bên đường chà lên mặt nó. Chẳng hiểu hoa có chất gì chống lại nọc ong không, nhưng Hoài Nam cảm thấy đỡ rát hơn. Thấy vậy, Tự Thắng ngắt hết những bông hoa xung quanh, chà thật mạnh lên những chỗ Hoài Nam bị ong đốt, như người ta chà miếng xơ mướp vào chiếc chảo.
Cả Hoài Nam và Tự Thắng đều không biết sau khi bị ong đốt phải nhổ ngay ngòi đi, vì các ngòi ong trên da sẽ tiếp tục bơm chất độc vào cơ thể. Tự Thắng bị ong đốt ít hơn, chủ yếu vào mặt, nên nó bảo không cần nhổ. Ai dè những chỗ đó thâm lại và phồng lên, khiến mặt Tự Thắng trông rất khó coi. Suốt ngày hai đứa nằm lì trong hang. Việt Bắc và Linh vô cùng lo lắng nhưng chẳng biết làm gì.
Gần trưa hôm sau Sơn tới. Nó đeo một chiếc ba lô và khoác theo khẩu súng mượn của Sính. Tự Thắng đã hết sốt. Hoài Nam vẫn ngủ mê mệt, trán nóng rực. Nghe Tự Thắng kể chuyện tổ ong mật và con ong mặt ngựa , Sơn chép miệng:
– Con đó là ong bắp cày, có nơi gọi là ong đất, hay ong bò vẽ. Nó không hút nhụy hoa làm mật, mà ăn côn trùng. Ong bắp cày tấn công các tổ ong khác để ăn ong non. May mà bọn mày chỉ bị ong mật đốt, chứ nếu là ong bắp cày thì đã bỏ mạng rồi. Đó là loại ong độc nhất rừng. Lần sau thấy nó, nhớ phải tránh xa.
Nhưng Sơn còn ngạc nhiên hơn khi nghe Linh và Việt Bắc kể về chuyện hai con rắn. Nó nói với Linh:
– Mày thoát được cú ngoạm của con hổ mang chúa là phúc lớn đấy.
– Sao gọi nó là hổ mang chúa?
– Hổ mang chúa là vua của các loài rắn. Nó là loài rắn to nhất, độc nhất và mồi săn của nó là các loại rắn khác. Tao đã nhìn tận mắt hổ mang chúa cắn chết con trâu mộng chỉ bằng một cú táp. Nhưng hổ mang chúa không tấn công người, nếu mình không chọc giận nó. Lần sau gặp, bọn mày chỉ nên xua nó đi.
Tự Thắng hỏi:
– Mày nói hổ mang chúa chỉ ăn rắn. Như vậy là nó bắt rắn tranh với mày, sao mày lại bênh nó?
– Tao chẳng thấy ảnh hưởng gì. Hổ mang chúa có từ lúc tao chưa đẻ ra, vậy mà tao có thiếu rắn để bắt đâu. Rắn nào cắn tao cũng chữa được, nhưng hổ mang chúa cắn thì chịu. Nó là loại rắn duy nhất có thể cắn nhiều phát trong một lần ngoạm.
Sau khi xem xét chỗ hai con rắn nằm đêm qua, Sơn đi sâu vào bên trong. Khi trở ra, nó nói:
– Không thể ở lại hang này được. Có nhiều rắn lắm. Không phải bỗng dưng hổ mang chúa tới đây.
– Mày đã đến đây nhiều lần, sao không biết hang này lắm rắn?
– Bọn tao chỉ ghé qua nghỉ và ăn, không kiểm tra sâu bên trong. Với tao, ở đâu càng có nhiều rắn càng tốt. Nhưng chúng mày thì không ở trong hang rắn được.
Sơn quay ra, xem các vết ong đốt của Hoài Nam. Nó chẳng nói gì, chỉ lắc đầu quầy quậy, rồi đứng dậy đi kiếm lá thuốc. Việt Bắc đi theo. Sơn vừa hái lá cây, vừa giải thích cho Việt Bắc tác dụng chữa bệnh của từng loại lá. Chẳng hạn như cái cây hai đứa đang hái, khi khỉ con bị thương, khỉ mẹ sẽ lấy lá vò nát, rịt vào vết thương và nhai nát, mớm cho khỉ con ăn. Người bị sốt hoặc đau họng hay đau răng, ăn lá này là đỡ. Ngày xưa làm gì có trạm xá. Tất cả bệnh tật đều chữa bằng thân, lá, rễ, củ của các loại cây, cỏ… Việt Bắc thấy lạ, hỏi hết câu nọ đến câu kia. Câu nào Sơn cũng trả lời rất nhiệt tình. Xưa nay, với bọn sơ tán, Sơn luôn là đứa nhìn lên, nay được dịp giảng giải, chỉ bảo cho chúng, nó cũng thấy thích. Sơn lấy dao đánh dấu một cái cây, dặn nếu có đứa nào bị rắn cắn thì lấy lá giã nát, vắt lấy nước cho uống, còn bã đắp vào vết thương. Nó biết, với bọn thành phố cây nào cũng giống cây nào nên dặn đi dặn lại. Chữa rắn độc cắn, nhầm cây nọ với cây kia là chết người ngay. Việt Bắc không ngờ mình học được phương pháp chữa rắn gia truyền nên rất khoái chí. Nó ghi nhớ kỹ vị trí của cái cây, biết đâu có dịp trổ tài.
Trở về hang, Sơn lấy lá đem giã, vắt nước bắt Hoài Nam uống. Nó ngắt lá cây con khỉ, bảo Hoài Nam ăn. Nếu vẫn không hạ sốt, sẽ phải đưa đi trạm xá. Nọc ong mật tuy không độc lắm, nhưng Hoài Nam lại bị đốt quá nhiều. Sau đó, cả bọn đi lấy tổ ong. Sơn phân công Linh và Tự Thắng nhặt những cành củi và lá khô, Việt Bắc kiếm mấy tàu lá to, còn mình đi chặt mấy cây giang. Nó buộc củi và cành khô vào các cây giang rồi châm lửa. Chờ khói bốc lên vừa đủ, Sơn từ từ đưa từng cây lại gần tổ ong để hun. Cây này sắp hết khói, nó đẩy tiếp cây khác. Cả khu vực xung quanh tổ ong khói mù mịt. Ban đầu lũ ong kiên quyết cố thủ, nhưng rồi chúng cũng đầu hàng và bỏ đi…
Sau nửa giờ hun khói, bốn thằng hỉ hả tha về một tổ ong to như cái nón. Sơn dùng dao tiện một cây giang thành nhiều đoạn. Nó đổ mật qua một cái phễu lá vào các ống giang rồi nút lại. Lấy hết mật, nó giũ nhộng và ong non ra, trong đó có cả những con ong sắp biết bay. Nếu có mỡ, xào nhộng ong với lá lốt là ngon nhất, nhưng không có thì ăn sống. Chỗ sáp được cắt thành những miếng nhỏ, chia cho mọi người. Từ sáng chưa có gì bỏ vào bụng nên trừ Hoài Nam, đứa nào cũng ăn ngấu nghiến. Sơn ép Hoài Nam uống mấy hớp mật ong, nhưng nó uống vào lại nôn ra hết.
Sơn mang theo một cuộn dây thừng dài và một chiếc ba lô, trong đó có 5 thanh lương khô 701, bốn gói đường nhỏ trong giấy báo, mười hai cái kẹo. Sơn chỉ cái ba lô nói:
– Ba lô của Thạch Bột đưa. Nó dặn nếu gặp bọn mày thì chuyển hộ. Tao không nhận, nói không biết chúng mày trốn ở đâu thì nó nói: “Anh cứ giữ lấy. Nếu các anh ấy không về Hà Nội, thể nào cũng liên hệ với anh.”
Tự Thắng lo lắng:
– Sao nó biết mày liên quan đến bọn tao mà gửi đồ? Nó đã nghĩ như thế các thầy cô cũng sẽ nghĩ thế và theo dõi mày. Có ai trông thấy mày đến đây không?
– Mày yên tâm. Tao rất cẩn thận, chờ nó đi khuất rồi mới đi tiếp. Không ai dò theo đâu.
– Tinh hình ở trại từ lúc bọn tao trốn thế nào?
– Thạch Bột nói mọi người tìm khắp nơi không thấy nên đoán chúng mày trốn về Hà Nội. Thầy Khải đã về dưới đó.
Hoài Nam chỉ tay lên vách đá nói:
– Lúc nãy tao tỉnh dậy, thấy ở đằng kia có hai con rắn. Một con xanh, một con đỏ cuộn tròn lấy nhau.
– Mùa sinh sản. Chúng cuộn với nhau là chuyện bình thường.
– Nhưng hai con rắn này có mào, trông rất lạ.
Việt Bắc nghi ngờ:
– Rắn làm sao có mào được. Chắc mày ốm, thấy rắn sợ quá nên tưởng tượng thêm vậy.
– Chắc chắn tao không nhầm.
Sơn nói:
– Rắn có mào là rắn thần đấy. May mà chúng mày chưa làm gì các ngài. Phải chuyển chỗ ở ngay thôi.
Việt Bắc gật lia lịa:
– Đi càng nhanh, càng xa chỗ này càng tốt. Tí nữa thì tao đã bỏ mạng ở đây. Phải gọi cái “trạm dừng chân” của mày là hang rắn mới đúng.
– Vậy từ nay trở đi bọn mình gọi nó là Hang Rắn.
– Cụ Phượng của mày không tốt. Chỗ tử tế không dẫn, lại dẫn vào cái hang toàn rắn độc thế này.
– Đừng nói thế phải tội. Đó là các Cụ muốn thử thách bản lĩnh của bọn mày. Nhưng chắc chắn phải chuyển tới động Người Xưa, không ở đây được. Từ đây lên tới động Người Xưa cũng bằng từ hồ lên đây.
– Đúng rồi, bọn tao thử thách thế là đủ rồi. Mình chuyển luôn chứ?
Sơn sờ trán Hoài Nam. Nó lắc đầu rồi bắt mạch và nói:
– Bây giờ phải đưa Hoài Nam đi trạm xá đã. Mai tao sẽ vào sớm dẫn bọn mày chuyển chỗ.
Hoài Nam phản đối:
– Tao không đi đâu.
– Mày bị ong đốt nhiều quá nên phải đi. Đã có những người chết vì ong đốt rồi đấy.
Nghe nói sẽ chết, Hoài Nam nín lặng. Việt Bắc tỏ ra lo lắng:
– Nếu thấy Hoài Nam về, thể nào mọi người cũng bắt nó khai chỗ bọn mình trốn.
– Tao sẽ dẫn Hoài Nam tới nhà thằng Sính, nhờ mẹ nó đưa đi trạm xá huyện chữa. Huyện nhà nó toàn người dân tộc, không ai biết chuyện chúng mày trốn trại đâu.
Hoài Nam bảo Việt Bắc:
– Tao không khai ra bọn mày đâu mà sợ.
Tự Thắng nắm tay Hoài Nam:
– Nếu vì mày phải đi trạm xá mà bọn tao bị lộ, bọn tao cũng không trách mày.
Hoài Nam tỏ vẻ xúc động. Nó ngồi dậy, nói:
– Dù chết tao cũng không khai chỗ bọn mày trốn.
Rồi nó xòe tay giơ trước mặt Tự Thắng, giọng khào khào:
– Đập tay nào. Lời hứa của con nhà lính!
Việt Bắc cũng tới đập tay với Hoài Nam. Thấy Linh bỏ ra chỗ khác, Tự Thắng đưa mắt ra hiệu cho nó tới đập tay với Hoài Nam. Linh lắc đầu:
– Không khai là chuyện đương nhiên, có gì mà phải đập tay.
Thấy Hoài Nam nhìn mình tỏ vẻ khó chịu, Linh nói:
– Tao không đập tay với nó. Lỡ bị ép buộc, nó có thể khai ra tao mà vẫn không vi phạm lời hứa của con nhà lính.
Hoài Nam hậm hực:
– Tao cũng chẳng cần hứa với mày. Lời hứa của tao với hai thằng kia là quá đủ! Nếu mày nghi ngờ lời hứa của con nhà lính thì có thể tin lời hứa, của con nhà tướng .
Linh cười nhạt:
– Mày đừng nghĩ danh dự nhà tướng của mày cao hơn danh dự nhà lính tụi tao. Chắc gì nhà tướng đã dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì đồng đội hơn nhà lính.
Cả người Hoài Nam run bắn. Nó liếc nhìn con dao quắm, ánh mắt lộ những tia hằn học. Tự Thắng biết Hoài Nam rất dễ mất tự chủ khi nghĩ ai đó xúc phạm ba mình. Nó đi tới ôm hai vai Hoài Nam và nói át Linh đi:
– Mày nên tôn trọng bạn bè. Tất cả chúng tao đều tin tưởng lời hứa của Hoài Nam.
Linh nhún vai, đi ra cửa hang:
– Thì tao sai! Tao chỉ không thích nó giở giọng con nhà tướng ra thôi.
Dù lời qua tiếng lại, Linh vẫn cùng Tự Thắng và Việt Bắc đưa Hoài Nam xuống bến. Lúc Hoài Nam chuẩn bị lên bè, Linh tiến tới ôm Hoài Nam và vỗ vai nó: “Đi mạnh giỏi!” Hoài Nam lần lượt bắt tay mọi người và nói: “Khám bệnh xong tao lại vào đây với bọn mày!”
Khi sắp sửa rời bến, Sơn bỗng dừng lại, dỏng tai nghe ngóng. Có những tiếng oe oe thảm thiết từ đâu đó vọng lại. Sơn giải thích đó là tiếng kêu của một con sơn dương bị trăn gấm siết. Nó nói:
– Sau khi nuốt con mồi, trăn gấm phải nằm yên khá lâu chờ tiêu hết, nên rất dễ bắt. Nếu tao ở lại, hôm nay bọn mình đã được chén một bữa sơn dương. Loại này thịt ngon lắm. Nhưng nếu còn ở Hồ Mây, thế nào chúng mày cũng được ăn thôi.