23. LINH VÀ VIỆT BẮC
Sau khi bọn Tự Thắng đi, Linh và Việt Bắc ở lì trong động. Để giết thời gian, Linh chẻ tre vót tên. Nó dạy Việt Bắc bắn nỏ. Cả hai đều nghĩ bọn Tự Thắng chỉ đi một hai ngày là về.
Ngồi trong động mãi cũng chán. Gặp hôm trời mưa, ốc núi bò ra lổm ngổm, Linh ra nhặt về nửa túi. Hai thằng nướng ốc. Ngại ra ngoài tìm gai để khêu, chúng dùng hòn ghè của người xưa, đập vỡ vỏ ốc lấy ruột.
Dù chơi với nhau đã lâu, nhưng hai đứa khác tính. Việt Bắc phổi bò, Linh lạnh lùng, ít nói. Việt Bắc chậm chạp, nhút nhát, còn Linh nhanh nhẹn, gan lì. Tuy không thân, nhưng có Linh bên cạnh, Việt Bắc cảm thấy rất yên tâm. Sau vụ Linh đánh hai con hổ mang chúa, thái độ của Việt Bắc với Linh thay đổi hẳn. Tự nhiên nó thấy rất quý Linh. Việc Linh xung phong ở lại càng làm nó cảm động.
Tối hôm đó, Việt Bắc quyết định nói với Linh một chuyện vẫn làm nó áy náy.
– Hôm trước tao lỡ không phải với mày, đừng giận nhé.
Linh ngạc nhiên:
– Chuyện gì vậy?
– Cái vụ tao nói mày là đứa sợ rắn, đến quả tim rắn bé xíu cũng không dám nuốt.
Linh chẳng nói gì. Việt Bắc giải thích:
– Tao rất sợ rắn. Vì vậy tao phải chứng minh mày cũng sợ như tao, cho đỡ ngượng.
– Tưởng gì. Bỏ qua đi. Tao quên chuyện đó rồi.
– Ừ, tao biết mày không sợ rắn. Nếu sợ mày đã chả dám đánh hai con rắn ấy. Trong rừng này mày chẳng sợ cái gì. Tao thì con gì cũng sợ.
– Không phải đâu. Ngày ở chiến khu R tao cũng sợ rắn lắm, sợ hơn mày bây giờ nữa. Có rất nhiều cái làm tao sợ. Sợ mãi thì quen thôi.
– Tao thì không bao giờ quen với những con đấy. Trăn, rắn, tắc kè, thạch sùng… chỉ nghĩ tới việc chạm vào da của chúng nó tao đã nổi da gà. Tới giờ tao vẫn không hiểu tại sao mình lại dám túm lấy đầu con trăn để gỡ Tự Thắng ra.
– Hôm đó nhờ mày, con trăn mới nhả cánh tay Tự Thẳng. Mày thật thông minh khi đâm mù hai mắt của nó.
Việt Bắc bẽn lẽn:
– Thông minh gì đâu. Trong tay tao chỉ có mỗi cái que, không chọc vào mắt nó thì còn biết chọc vào chỗ nào nữa.
– Như thế là mày dũng cảm. Chỉ có cái que bé xíu mà dám lao vào đánh nhau với trăn gấm.
– Tao thấy Tự Thắng bị nó quấn nên quên cả sợ.
Một lát sau Việt Bắc hỏi:
– Ở R có gì mà mày phải sợ?
– Nhiều thứ lắm. Bóng tối, ma, cọp, rắn rết, bọ cạp… Những con bọ cạp nhỏ, thân nâu, rất độc. Ngoài này không có bọ cạp chứ trong R nhiều lắm. Nhưng sợ nhất là cọp. Thằng Chiến bị cọp tha. Nó ngủ cạnh tao. Khoảng chín giờ tối nó dậy đi vệ sinh, vừa mở cánh liếp thì cọp lao vào bắt đi. Tao chỉ nghe thấy nó “ợ” một tiếng rồi im bặt.
– Mọi người có đuổi theo cứu nó không?
– Có, nhưng tìm mãi không thấy. Sáng hôm sau mới phát hiện nửa dưới của nó trong một bụi cây. Con cọp ăn không hết nên giấu vào đó.
Việt Bắc nhăn mặt. Linh nói:
– Ở R, nhiều đứa bị chết lắm. Có đứa chết vì ăn phải nấm độc. Có đứa chết vì sốt rét. Có đứa chết vì bọ cạp cắn. Có đứa chết vì đạn pháo.
Linh nhìn mông lung vào đêm tối. Nó thì thầm, như đang kể lại cho chính mình về một chuyện đã xảy ra lâu lắm:
– Hôm đó bọn tao nghe có nhiều tiếng nổ nên vội chui xuống hầm. Xuống rồi mới biết thiếu cái Loan. Một lúc sau, nghe tiếng nó khóc bên ngoài, cái Quyên chui ra tìm em. Nó vừa tới cửa hầm thi ánh chớp lóe lên. Mặc dù mọi người giữ lại, nó vẫn vùng dậy, chạy ra ngoài. Tao cũng chạy theo. Chẳng biết cái Loan trúng bom hay đạn pháo, bụng và ngực vỡ toác, quả tim văng ra đất. Tao nhìn thấy nó vẫn đập…
Linh im lặng một lúc lâu rồi nói:
– Đó là lý do vì sao tao không thể chịu được mỗi lần nhìn thấy quả tim rắn đập trên đĩa.
Việt Bắc rùng mình. Hai đứa bó gối ngồi im lặng rất lâu bên bếp lửa. Linh cũng chẳng hiểu tại sao nó lại tâm sự với Việt Bắc một chuyện chưa từng kể với ai bao giờ. Đó là những hình ảnh thỉnh thoảng vẫn hiện về trong cơn ác mộng. Có lẽ trong hoàn cảnh bị cách biệt với thế giới bên ngoài, người ta dễ cởi lòng và chia sẻ. Linh kể tiếp cho Việt Bắc nghe về chuyện của mình, từ khi sinh ra cho tới ngày được đưa sang Campuchia để ra miền Bắc.
Năm 1950, khi má mang bầu Linh, ba đi kháng chiến rồi ra Bắc tập kết. Từ ngày thoát ly, ba hoàn toàn mất liên lạc với gia đình. Thời gian đó có tin đồn quân Pháp sẽ đóng đinh vào đầu con của những người theo kháng chiến để trả thù Việt Minh. Vì vậy, má mang Linh lên Sài Gòn, gửi dì Tư nuôi. Sau năm năm chờ đợi, không nhận được tin tức gì của ba, má đi lấy chồng. Ngày đó, phụ nữ miền Nam lấy chồng, không là người phía bên này thì cũng là người phía bên kia. Thế là Linh có hai ông bố ở hai bên chiến tuyến mà nó không hề biết mặt.
Năm 1963, Linh được đưa ra miền Bắc, theo tiêu chuẩn học sinh miền Nam. Tổ chức quyết định đưa nó đi, vừa là chính sách, vừa để tránh xảy ra những chuyện phức tạp, vì dượng là một sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, lại làm trong Nha An ninh Quân đội.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, học sinh miền Nam là vấn đề được Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm. Làm tốt vấn đề học sinh miền Nam không chỉ giải quyết khó khăn cho cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, mà còn đảm bảo sự đoàn kết Bắc-Nam. Giai đoạn 1954-1955, học sinh miền Nam chủ yếu gồm con em cán bộ miền Nam theo cha mẹ ra Bắc và những học sinh bản thân có tiêu chuẩn được ra Bắc học tập (con liệt sĩ, tử sĩ, hoặc bản thân có thành tích trong kháng chiến nhưng dưới 15 tuổi…). Từ năm 1956, tiêu chuẩn thu nhận con em cán bộ vào Trường Học sinh Miền Nam nội trú được mở rộng. Chỉ cần có cha (hoặc mẹ) là người Nam, và một đang ở chiến trường. Nếu cả cha và mẹ là người Bắc, nhưng đang chiến đấu trong Nam, con cái cũng được nhận vào trường. Con em cán bộ kháng chiến đang định cư và hoạt động tại Thái Lan, Lào, Campuchia… cũng được coi như học sinh miền Nam. Thậm chí Trường Học sinh Miền Nam ở Vĩnh Phúc còn có cả hai bạn nữ người Cameroun là Irene và Munique Quandie. Cha hai cô gái này là một trong những nhà lãnh đạo cách mạng của Phong trào Liên minh Nhân dân Cameroun, một tổ chức đấu tranh giành quyền độc lập tự trị, thoát khỏi chủ nghĩa thực dân Pháp.
Theo Hiệp định Geneva, thời hạn cho cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc từ tháng Chín 1954 đến tháng Năm 1955. Phương tiện chuyển quân chủ yếu bằng đường thủy. Con em cán bộ miền Nam theo cha mẹ ra Bắc trên các con tàu biển của Liên Xô và Ba Lan. Giai đoạn 1960-1964, để đưa các cháu ra Bắc, phải quá cảnh sang Campuchia, đi máy bay. Việc này khá phức tạp và tốn kém, nên chỉ giải quyết cho những trường hợp đặc biệt. Từ 1965, học sinh miền Nam được đưa ra Bắc theo đường mòn Hồ Chí Minh.
Đầu năm 1962, Linh được giao liên dẫn từ Sài Gòn lên Tây Ninh và đưa vào chiến khu R. Chỗ Linh tới đã có một số trẻ con. Nhiều đứa ba hoặc má cũng đã ra Bắc như ba Linh.
Ở trong R một năm thì Linh cùng cái Quyên và thằng Bằng, em út của nó, được đưa sang Campuchia. Khi đó quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và chính phủ Campuchia rất tốt. Từ Phnom Pênh, ba đứa đi máy bay sang Hồng Kông. Từ Hồng Kông, chúng đi phà tới Quảng Châu, rồi lên tàu hỏa sang Mục Nam Quan, về Hà Nội. Ủy ban Thống nhất phân ba đứa về Trường Học sinh Miền Nam ở Đông Triều. Chúng được thông báo một thời gian nữa ba sẽ tới thăm. Nhưng trong chiến tranh, không ai biết “một thời gian nữa” là bao nhiêu lâu.
Chị em Quyên được gặp ba trước. Nhưng thực tế để nhận một người là ba cũng không đơn giản. Hai chị em chẳng đứa nào nhớ mặt ba vì ba đi kháng chiến và ra Bắc tập kết khi chúng còn bé xíu. Quyên dứt khoát không chịu nhận một người lạ hoắc là ba. So với con trai, tụi con gái đa nghi và cảnh giác hơn. Nó bảo: “Chú có gì để chứng minh chú là ba tụi cháu? Chú có ánh của má chúng cháu không? Chú có tờ khai sinh của chúng cháu không?” Khi biết chú Thúy không có những thứ đó, Quyên nói thẳng: “Cháu không biết chú là ai. Chỉ khi nào ở trong Nam má viết thư ra nói chú là ba thì cháu mới công nhận.” Nó cấm thằng Bằng gọi chú là ba dù thằng Bằng đồng ý nhận, vì thấy chú Thúy trông giống nó. Chú đến trường rất nhiều lần, nhưng Quyên vẫn kiên quyết không gặp, mặc cho chú ngồi cả buổi. Quà chú gửi lại nó không động đến. Mãi mấy năm sau, khi có người từ miền Nam mang thư của má ra, nó mới chịu nhận chú là ba.
Năm 1964, Linh gặp ba. Có thể do việc ba nắm rõ hoàn cảnh gia đình ở trong Nam, biết rõ về dì Tư, về má, về cả dượng, hoặc linh cảm về huyết thống, Linh nhận ba ngay sau khi hai ba con trò chuyện. Ba đón Linh về Hà Nội. Linh rời Trường Học sinh Miền Nam Đông Triều, chuyển về học ở Trường Nguyễn Trãi, trên phố Cửa Bắc cùng Tự Thắng và Việt Bắc. Hai ba con ở trong cơ quan của ba. Mấy tháng sau, ba được phân một căn hộ trong khu tập thể quân đội, ở phố Lý Nam Đế.
Thời gian đầu, khó khăn nhất của Linh là phải làm quen và chung sống với một người chưa bao giờ gặp, dù là ba - con. Hai ba con cũng chẳng có nhiều chuyện để nói. Tuy cùng một nhà nhưng thời gian sống chung không nhiều, vì ba liên tục đi công tác. Nó quý mến ba vì bổn phận hơn là tình cảm.
Dù ba Linh được tin vợ đã lấy chồng, nhưng ngày đó những người miền Nam tập kết muốn lấy vợ mới, phải có giấy xác nhận vợ chết hoặc đã kết hôn với người khác. Một là bận công tác liên miên, hai là thủ tục phức tạp nên ba của Linh cũng chưa tính việc đi thêm bước nữa. Khi ba trở lại chiến trường, Linh ở nhà một mình. Tiền lương và các tiêu chuẩn của ba do một bác trong đơn vị lĩnh giùm, chuyển cho nó. Linh báo cơm bộ đội, suất trung táo*. Ban đầu nó tới nhà ăn tập thể, sau lấy cơm về nhà.
•
Chế độ ăn uống của cán bộ trung cấp trong quân đội. Tiểu táo là chế độ ăn của cán bộ cao cấp. Đại táo là chế độ ăn của cán bộ sơ cấp và chiến sĩ.
Lớn lên một chút, nhiều lúc Linh tự hỏi: “Ba đón nó ra Bắc để làm gì? Nếu để ba con sum họp thì không phải, vì ba ở chiến trường là chính, có mấy khi ba con bên nhau. Hay là ba đón nó ra để được cấp nhà? Quy định của quân đội là phải có gia đình mới được cấp nhà. Cũng không hẳn, vì ba có ở nhà đâu mà cần nhà.” Có một lần Linh nói với ba suy nghĩ của mình. Đó là lần đầu tiên ba con tâm sự lâu. Ba giải thích cho nó về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, và những điều tốt đẹp của chế độ đó. Sau đó, ba phân tích dã tâm xâm chiếm miền Bắc của đế quốc Mỹ, với ý đồ dùng Việt Nam làm bàn đạp tấn công phe xã hội chủ nghĩa. Theo ba, ngay từ khi Hiệp định Geneva được ký kết, Hồ Chủ Tịch đã nhận định cuộc kháng chiến sẽ kéo dài. Vì vậy ông quyết định đưa các cháu học sinh, con em cán bộ miền Nam ra Bắc đào tạo, nhằm chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Muốn đánh thắng một kẻ thù hùng mạnh như đế quốc Mỹ, không chỉ cần lòng dũng cảm, sự hy sinh mà còn cần một thế hệ kế cận được đào tạo bài bản.
Linh chả hiểu gì về lý tưởng, về chủ nghĩa cộng sản, về dã tâm của đế quốc Mỹ. Nhưng những việc cụ thể thì nó hiểu phần nào. Tóm lại, nó được đưa ra miền Bắc đào tạo, để sau này lớn lên làm lực lượng kế cận, trở về Nam đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Linh hỏi:
– Mấy đứa con của má ở Nam, lớn lên sẽ đi lính Cộng hòa. Ra trận, anh em đụng nhau thì làm thế nào ba?
– Tụi nó còn có một sự lựa chọn khác, đó là theo cách mạng.
– Con ở ngoài này với ba nên theo cộng sản. Dượng là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, tụi nó không theo cách mạng đâu ba ơi. Con thì phải theo ba chứ.
Ba thở dài. Tưởng ba không hiểu, Linh giải thích:
– Giống như nếu ba theo Việt Cộng thì dù vẫn ở trong Nam, con cũng đâu có đi lính Cộng hòa.
Ba ngồi yên lặng. Đến khi Linh tưởng ba không trả lời nữa thì ba nói:
– Anh em đụng nhau trên chiến trường là điều không ai muốn con ạ. Sau này lớn lên, con sẽ được học về vấn đề giai cấp và ý thức hệ. Lúc đó con sẽ hiểu và biết đưa ra quyết định sao cho đúng đắn.
Thường thì mỗi khi ba nói lớn lên, đi học sẽ hiểu là Linh chả nghĩ nữa. Việc phải lớn, phải học mới hiểu thì nghĩ làm gì cho mệt. Nhưng riêng chuyện này, nó nghĩ đã là anh em cùng một mẹ dứt khoát không được bắn nhau. Sau này ra trận, có tóm được hai thằng em con của má, nó cũng thả.
Nếu xét về điều kiện vật chất, cuộc sống của Linh khá đầy đủ, nhờ những tiêu chuẩn của ba. Trong những thứ ba để lại, Linh thích nhất là khẩu súng lục K54. Khi đi chiến trường, ba cất trong hòm và giấu chìa ở đâu đó. Thế nhưng cái khóa của ba dùng chìa nào cũng mở được. Linh tìm thấy cả mấy hộp đạn. Hôm Tết nó mang ra bắn thử. Khắp nơi pháo nổ đi đùng nên chẳng ai để ý. Đầu tiên nó đóng cửa, tập bắn vào cái mũ sắt. Đến tối, nó ra ngoài bắn bóng đèn. Mấy bóng đèn trong khu bị nó bắn vỡ hết. Chú bảo vệ khu tập thể tưởng bị đứa nào ném, chửi ầm lên và rủ Linh đi rình. Nghe Linh kể chuyện, Việt Bắc tròn mắt. Không ngờ một thằng trông lành như Linh mà lại nghịch kiểu đó.
Một lần Linh tình cờ nghe được hai cô hàng xóm nói chuyện về hoàn cảnh của mình. Mọi người nói nó quá sướng vì được hưởng nguyên tiêu chuẩn của ba để lại, nhưng nếu ba mất, các tiêu chuẩn đó sẽ bị cắt. Linh tự hỏi, nếu những tiêu chuẩn chế độ của ba bị thu hết, không biết nó sẽ sống thế nào? Nó không có bất cứ ai là người thân trên đất Bắc. Chắc khi đó mọi người lại đưa nó về Trường Học sinh Miền Nam.
Tuy học cùng nhau, nhưng từ trước tới nay Việt Bắc không biết gì về hoàn cảnh của Linh. Học sinh miền Nam ra Bắc sống trong một thế giới riêng nên mọi người ít hiểu về chúng. Thỉnh thoảng mới có một đứa chuyển ra bên ngoài học như Linh. Tính Linh không cởi mở. Nếu hai đứa không rơi vào tình trạng hiện nay, chắc Linh cũng chẳng kể ra những chuyện vừa rồi. Cùng là con em cán bộ miền Nam, nhưng Việt Bắc sinh ra ở miền Bắc. Vì vậy, những điều Linh kể khá lạ lẫm với nó. Nó tò mò, hỏi Linh hết chuyện nọ đến chuyện kia… Đã quá nửa đêm mà chưa đứa nào cảm thấy buồn ngủ. Những thanh củi chỉ còn leo lét cháy. Bên ngoài mưa như trút, gió thổi ào ào. Việt Bắc rùng mình vì lạnh. Linh với mấy thanh củi ném vào bếp và đi tìm cái chăn choàng cho Việt Bắc. Cử chỉ đó khiến Việt Bắc cảm động. Từ hôm Linh bất chấp nguy hiểm, nhảy vào chắn giữa nó và hai con rắn, Việt Bắc nhận thấy Linh không chỉ dũng cảm, mà còn là một đứa bạn bè có thể tin tưởng.
Có câu “lòng tin đổi lấy lòng tin”. Khi Linh cời than cho bếp lửa cháy sáng, Việt Bắc kể cho Linh về chuyện nhà mình, và những lo lắng bấy lâu nay chẳng biết nói với ai. Linh lặng lẽ nghe, không hỏi hay cắt ngang.
Câu chuyện của Việt Bắc liên quan đến ba nó, chú Đại Trí, bị mất tích.
Một ngày, Đại Trí được cấp trên mời lên, trao đổi về việc quay trở lại miền Nam, với nhiệm vụ tiếp cận những người bạn cũ trong hàng ngũ đối phương để thu thập tin tức và vận động họ theo cách mạng. Trong vai một người kháng chiến chán ghét chế độ cộng sản, ông trở về với “chính nghĩa Quốc gia”. Để tạo vỏ bọc, Tổ chức sẽ sắp xếp cho ông và một nữ điệp báo làm đám cưới giả.
Chỉ có mấy ngày, má của Việt Bắc, bà Hạnh, bạc nửa mái đầu. Trong chiến tranh, người phụ nữ sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh, nhưng dễ gì chấp nhận cho chồng chung sống với người phụ nữ khác. Bà dứt khoát không đồng ý. Nếu ông cần một người vợ cùng vào Nam, bà sẽ đi theo, gửi lại con cái cho Tổ chức. Làm gì cũng được, khó khăn đến mấy cũng được, miễn là có vợ có chồng.
Là bạn thân thiết của gia đình Đại Trí, ông Thiện nhận nhiệm vụ làm công tác tư tưởng cho bà Hạnh. Khi ông vừa đặt vấn đề, bà Hạnh hỏi ngay:
– Hôm nay nhà em cưới người ta là giả vờ, theo yêu cầu của Tổ chức . Ngày mai người ta đẻ con với nhà em cũng là để tạo vỏ bọc, thực hiện nhiệm vụ cách mạng giao . Anh về hỏi chị nhà xem nếu ở hoàn cảnh em, chị có đồng ý không?
– Mong chị hiểu, Tổ chức buộc phải bố trí vậy cũng là bất đắc dĩ. Cần tạo ra một vỏ bọc hoàn hảo nhất để đảm bảo an toàn cho anh Đại Trí. Nữ đồng chí được chọn làm đám cưới giả với anh cũng là đảng viên, và biết giữ nguyên tắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
– Càng đảng viên, càng phải làm tốt nhiệm vụ cách mạng giao. Là vợ chồng mà không đẻ con, phía bên kia sẽ nghi ngờ, làm sao tạo được vỏ bọc hoàn hảo?
Ông Thiện lặng thinh. Chính ông cũng nhận thấy điều bà Hạnh nói có lý. Xưa nay ông vẫn mặc định mình sẽ sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao, nhưng chưa nghĩ đến tình huống này. Ông không hình dung được nếu ở hoàn cảnh bà Hạnh, vợ ông sẽ phản ứng thế nào. Khuyên người ta làm một điều chính mình cũng còn thấy khó, khiến ông áy náy. Không khéo lại mang tiếng ác. Ông nhớ một buổi nói chuyện với vợ cách đây đã lâu. Bà hỏi:
– Anh có biết mọi người gọi anh là gì không?
Ông ngạc nhiên:
– Thì mọi người vẫn gọi anh là Thiện chứ gọi là gì?
– Họ gọi anh là “ông Ác” đấy!
– Có chuyện đấy à? Sao anh không biết nhỉ?
– Anh không biết vì không ai dám nói với anh thôi. Anh làm công tác cán bộ, vậy mà người nào nhờ anh “quan tâm” đến con cái họ sau khi nhập ngũ, anh cũng từ chối thẳng thừng, thậm chí còn phê phán người ta. Có người nhận giấy báo tử của con đã nói với em: “Nếu bạn của ba cháu không phải bác Thiện, có lẽ hôm nay cháu đã không chết!”
Ông Thiện thở dài:
– “Quân pháp bất vị thân”. Nếu con em cán bộ mà được chọn chỗ tốt, yên ổn, đẩy con em người khác ra chiến trường thì còn nói được ai nữa.
Vợ ông nghẹn ngào:
– Em cũng biết vậy. Vì thế hôm Thắng Lợi nhà mình đi B, em có nói với anh câu nào đâu. Sau này đến lượt Thống Nhất, Tự Thắng nữa… Trai thời loạn, cứ để các con làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước.
Một lúc sau bà nói:
– Em hiểu anh và biết những việc anh làm là đúng. Nhưng anh cũng cần làm những người xưa nay vẫn thân thiết và yêu quý mình hiểu, thông cảm với hoàn cảnh và quyết định của anh.
Điều vợ nói làm ông suy nghĩ. Để thuyết phục người khác, trong một số trường hợp, chỉ nói lý lẽ là không đủ. Cần đặt mình vào hoàn cảnh họ, tìm ra những điều họ trăn trở, cùng họ bàn bạc, phân tích, tháo gỡ. Nếu họ hiểu mình đã làm tất cả những gì có thể, trong khả năng và giới hạn cho phép, dù không giúp được họ đi chăng nữa, họ cũng không quá nặng nề. Muốn vậy, bản thân phải luôn gương mẫu và sẵn sàng nhận những việc khó về mình. Nhưng trong cuộc sống dù biết thế nào là sai là đúng, vẫn có những điều rất khó vượt qua. Ông nói với bà Hạnh:
– Mong chị hiểu, nếu làm thay được anh Đại Trí, tôi sẵn sàng làm. Nhưng nhiệm vụ này không ai thích hợp hơn anh ấy.
Bà Hạnh khóc hu hu:
– Em là một chuyện, nhưng còn gia đình, còn các cháu… Sau này em biết ăn nói với các cháu thế nào? Ba các cháu vào trong đó, biết khi nào trở lại? Rồi đến ngày thống nhất, liệu người ta có chịu trả lại anh ý cho em, trả lại ba cho các cháu?
Ông Thiện không biết nói thế nào. Cuộc chiến đấu đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Hồ Chủ Tịch đã nói: “Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa…” Không ai có thể trả lời câu hỏi khi nào Đại Trí sẽ trở về. Và nữa, nếu Đại Trí có thêm những đứa con với người vợ mới thì sẽ ra sao… Ông thở dài:
– Nếu chị có ý kiến như thế, tôi sẽ báo cáo lại các anh ấy.
Không biết vợ chồng Đại Trí trao đổi với nhau những gì sau khi ông Thiện về. Một tuần sau, Đại Trí báo cáo với tổ chức vợ đã đồng ý và ông sẵn sàng lên đường.
Một thời gian sau, Đại Trí đột ngột mất tích. Tất cả, kể cả những người trực tiếp liên lạc với ông ở Phòng Tình báo B2, Cục An ninh Miền đều không biết ông đang ở đâu, làm gì. Những báo cáo về ông không thực sự rõ ràng. Không có bất cứ tài liệu nào nói ông đầu hàng, phản bội. Nhưng sự nghi ngờ luôn lẩn khuất xung quanh những người hoạt động nội gián trong vùng địch. Đó là bi kịch phải chấp nhận của những người hoạt động tình báo đơn tuyến. Đó cũng là bi kịch của chính gia đình họ.
Má Việt Bắc làm ở Cửa hàng Cung cấp Tông Đản, bán hàng theo tiêu chuẩn cho cán bộ cao cấp. Cuộc sống gia đình so với mặt bằng chung cũng khá hơn chút ít. Dù chẳng làm gì sai, những cô mậu dịch viên thời đó vẫn nhận được sự hàm ơn của vô số người. Cùng một ô tem phiếu, nhưng người mua nhận được cân cá tươi hay ươn, miếng thịt ngon hay dở lại thuộc quyền quyết định của cô bán hàng. Chỉ riêng việc biết khi nào hàng về, hoặc mua không phải xếp hàng cũng tiết kiệm được khối thời gian và công sức. Người Việt vốn duy tình, vì vậy mỗi khi Tết đến, nhà Việt Bắc hay có người tới chơi, biếu cái này cái nọ. Chẳng nhiều nhặn gì, nhưng so với hoàn cảnh chung cũng là rất quý.
Trước Tết vừa rồi, đột nhiên má Việt Bắc được điều động đi chỗ khác. Có thể đó là sự điều động bình thường do nhu cầu công việc. Thế nhưng ngày đó, những người làm nhiệm vụ ở Cửa hàng Tông Đản luôn phải là những người có lý lịch trong sạch. Nếu ai bị điều đi nơi khác, gia đình hoặc bản thân người đó hẳn có vấn đề. Từ suy luận trên, mọi người bắt đầu rỉ tai nhau đủ thứ phỏng đoán. Trong thời chiến, quan niệm địch - ta luôn đen trắng rõ ràng. Cảnh giác cách mạng không bao giờ thừa, nhất là lại ở chỗ liên quan đến đồ ăn, thức uống của cán bộ cấp cao.
Má Việt Bắc chuyển công tác khỏi cửa hàng, số người vẫn tới chơi và biếu quà cho nhà nó bỗng dưng biến mất. Ngày Tết vắng ba, nay lại thêm vắng khách, bánh kẹo ít hơn và khuôn mặt lúc nào cũng đăm chiêu của má làm mấy anh em Việt Bắc cảm thấy có điều gì đó không ổn.
Hồi đầu năm, Việt Bắc nghe má nói đến Tết sẽ được chuyển sang nhà mới. So với cấp bậc của ba, căn nhà này quá nhỏ. Thế nhưng Tết đến, nhà nó vẫn ở chỗ cũ. Việt Bắc hỏi, má chỉ lắc đầu. Chiều mùng Một, nằm sau tấm ri đô, Việt Bắc nghe má nói với bác Thiện: “Em chả chuyển nhà đâu bác ạ. Nhỡ chuyển được mấy hôm, người ta đòi lại thì còn nhục hơn. Em cứ chờ tới khi mọi chuyện rõ ràng rồi chuyển đi đâu thì chuyển. Em hiểu nhà em. Dù có bị giết chết, anh ấy cũng không chiêu hồi. Chỉ lo việc này ảnh hưởng tới các cháu. Việt Bắc đang hy vọng sang năm được vào Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Nếu bố cháu bị quy là chiêu hồi, cháu sẽ không được nhận vào trường.”
Nghe má nói có thể mình sẽ không được học ở Trường Nguyễn Văn Trỗi, Việt Bắc rất lo lắng. Nó đã xác định sẽ học Trường Nguyễn Văn Trỗi cùng Tự Thắng, Hoài Nam, Linh và các bạn trong khu tập thể, nếu không được đi học nữa, nó cảm thấy mọi thứ như sụp đổ.
Nghe xong câu chuyện của Việt Bắc, Linh nói:
– Hồi tao ở Trường Đông Triều, cũng có mấy đứa bị đồn là ba tụi nó chiêu hồi này nọ, nhưng có ai đuổi học chúng nó đâu.
– Nhưng nếu tổ chức nghi ngờ ba tao, tao sẽ không được đi học Trường Nguyễn Văn Trỗi.
Linh định bảo Việt Bắc là nó sẽ không bao giờ được nhận vào Trường Nguyễn Văn Trỗi. Đó là trường đào tạo ra những sĩ quan quân đội. Việt Bắc hỏng một mắt, làm sao đủ tiêu chuẩn nhập ngũ. Linh khá ngạc nhiên khi thấy Việt Bắc thích đi học Trường Nguyễn Văn Trỗi thế. Không đi bộ đội đánh nhau thì ở nhà học hành, trở thành kỹ sư, bác sĩ, xây dựng đất nước cũng tốt chứ sao. Nhưng rồi nó cảm thấy nói lúc này chưa tiện nên bảo:
– Việc của bọn mình bây giờ là chữa lành chân cho mày và thoát ra khỏi đây đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện khác.
– Sơn nói sau ba tuần tao có thể chống nạng đi lại nhẹ nhàng. Muốn lành hẳn phải mất hai tháng. Hết năm ngày rồi, chắc bọn nó sắp về đón mình.
– Chắc chắn rồi. Tự Thắng rất đúng hẹn.
Hai đứa không biết lúc đó Tự Thắng, Sơn và Thảo đang tuyệt vọng trong một dòng sông ngầm không có lối ra.