CHƯƠNG 10
Nhìn ra cửa sổ xe của Carmel, không có ánh sáng ngoại trừ những ngôi sao nhấp nháy và ánh sáng nhàn nhạt của thành phố đằng sau. Thomas đợi trăng non. Cậu ấy bảo đấy là thời điểm lý tưởng nhất để gọi hồn. Cậu ấy cũng bảo sẽ thuận lợi hơn nếu chúng tôi ở gần nơi mà Anna siêu thoát, nên chúng tôi đến căn nhà kiến trúc Victoria đổ nát của em. Như thế là đúng. Là hợp lý. Nhưng ý nghĩ đó khiến miệng tôi khô khốc. Thomas sẽ giải thích mọi thứ khi chúng tôi tới nơi, vì lúc ở cửa hàng, tôi gần như không thể ngồi yên.
“Cậu có chắc là cậu đã sẵn sàng chưa, Cas?” Carmel hỏi, nhìn tôi qua gương chiếu hậu.
“Bắt buộc phải thế,” tôi nói khẽ và cô ấy gật đầu.
Khi Carmel quyết định tham gia nghi lễ, tôi thấy rất bất ngờ. Kể từ hôm gặp nhau ở hành lang trường, khi tôi nhận thấy vẻ xa cách ẩn giấu đằng sau ánh mắt Carmel, tôi không thể nhìn cô ấy như trước đây nữa. Nhưng có thể là tôi đã sai. Có thể là tôi đã hoang tưởng. Ngủ được có 3 tiếng và mộng mị về cô bạn gái mình tự sát sẽ khiến bạn thành ra như vậy.
“Bọn mình có thể sẽ không thành công, cậu biết đấy,” Thomas nói.
“Không sao đâu. Cậu đã rất cố gắng, đúng không? Bọn mình chỉ có thể làm vậy thôi.” Lời nói và giọng tôi nghe có vẻ hợp lý. Tỉnh táo. Nhưng đó là bởi tôi không có gì phải lo lắng. Chúng tôi sẽ làm được. Thomas đang căng như dây đàn và bạn không cần đến âm thoa mới cảm thấy được những đợt sóng quyền năng tỏa ra từ cậu ấy. Như dì Riika đã nói, cậu ấy cũng là một phù thủy.
“Này,” cậu ấy nói. “Sau khi vụ này, bọn mình đi ăn bánh mì kẹp thịt nhé?”
“Giờ mà cậu còn nghĩ đến ăn uống được à?” Carmel hỏi.
“Này, 3 ngày nay, các cậu đâu có ăn chay, đun cây cừu lý hương và chẳng uống gì ngoài nước hoa cúc thanh tẩy kinh dị của Morfran.” Carmel và tôi cười với nhau trong gương. “Làm một cái bình chứa đâu có dễ. Tớ sắp chết đói rồi.”
Tôi vỗ vai cậu ấy. “Bằng hữu, khi xong vụ này, tớ sẽ gọi hết thực đơn trong nhà hàng cho cậu.”
Tất cả im lặng khi chúng tôi rẽ vào con đường nhà Anna. Tôi nửa mong sau góc cua ấy, ngôi nhà sẽ hiện lên trong tầm mắt, vẫn đứng đó, vẫn đổ nát trên nền móng sập xệ. Nhưng lại có khoảng đất trống trơn. Đèn pha chiếu vào lối đi xe và nó chẳng dẫn tới đâu cả.
Sau khi ngôi nhà bị sập xuống, chính quyền tới dọn sạch đất đá để tìm hiểu nguyên nhân. Họ không bao giờ tìm thấy vì thật ra mà nói, họ cũng không cố gắng lắm. Họ xuống tầng hầm, nhún vai rồi dùng đất lấp đi. Giờ thì mọi thứ còn lại bị che kín hoàn toàn. Nơi trước đây là ngôi nhà, giờ trông như một khoảng đất chưa khai khẩn, đầy bụi đất và cỏ dại. Nếu họ nhìn kỹ hơn, hoặc đào sâu hơn, họ hẳn đã có thể tìm thấy xác những nạn nhân của Anna. Nhưng sự chết chóc cùng những điều bí ẩn vẫn còn đây, nhắc nhở họ nên nhẹ nhàng và để chúng yên.
“Nói lại cho tớ biết bọn mình sẽ làm gì đi,” Carmel nói. Giọng cô ấy bình tĩnh nhưng những ngón tay nắm chặt vô lăng như thể muốn giật nó ra.
“Cũng tương đối dễ thôi,” Thomas đáp, lục túi để đảm bảo là không quên thứ gì. “Hoặc nếu không phải dễ, thì ít nhất cũng tương đối đơn giản. Từ những gì Morfran nói với tớ, cái trống từng thường xuyên được những phù thủy Phần Lan dùng để kiểm soát thế giới siêu linh và nói chuyện với người chết.”
“Xem ra đó là thứ bọn mình cần,” tôi nói.
“Ừ. Bí quyết là phải nói thật cụ thể. Những phù thủy không bao giờ quan tâm họ sẽ liên lạc được với ai. Miễn là họ gọi được một người họ cho là thông thái. Nhưng bọn mình muốn Anna. Nên cần có cậu và ngôi nhà của Anna.”
Chúng tôi sẽ không lãng phí thêm thời gian nữa. Tôi mở cửa xe và bước ra. Không khí ấm áp và gió chỉ mơn man thổi. Tiếng giày tôi giẫm lên con đường sỏi làm tôi có chút hoài niệm, cái cảm giác đưa tôi về lại 6 tháng trước, khi căn nhà mang phong cách Victoria vẫn còn đứng đây và tôi thường đến vào ban đêm để trò chuyện với cô gái đã chết ở trong nhà. Những ký ức mờ nhạt, ấm áp. Carmel đưa tôi cây đèn bão lấy từ cốp xe. Nó rọi sáng khuôn mặt cô ấy.
“Này,” tôi nói. “Cậu không cần phải làm chuyện này. Thomas và tớ có thể tự làm được.”
Trong tích tắc, cô ấy trông có vẻ nhẹ nhõm. Nhưng rồi cái nheo mắt ‘thương hiệu’ của Carmel trở lại ngay.
“Đừng có nói linh tinh. Morfran có thể cấm tớ tham dự buổi tiệc trà chết chóc của mình nếu ông ấy muốn, nhưng không phải cậu. Tớ đến đây là để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với Anna. Tất cả bọn mình nợ cô ấy điều đó.”
Khi đi ngang qua, cô ấy huých vai tôi để khích lệ và tôi mỉm cười dù vết bỏng vẫn còn đau. Xong vụ này, tôi sẽ nói chuyện với cô ấy, tất cả chúng tôi sẽ nói chuyện. Chúng tôi sẽ tìm hiểu cô ấy nghĩ gì trong đầu và điều chỉnh lại cho đúng.
Thomas đã đi trước chúng tôi. Cậu ấy lấy đèn pin ra và đang lia quanh khoảnh đất. Thật may vì những người hàng xóm gần nhất cách đây cả nửa dặm và tách biệt bởi rừng cây rậm rạp. Họ có thể nghĩ là một chiếc UFO16* vừa hạ cánh. Khi Thomas đến gần chỗ lúc trước là ngôi nhà, cậu ấy không hề do dự và tiếp tục đi vào giữa. Tôi biết cậu ấy đang tìm thứ gì. Khoảnh trống nơi Malvina đã mở một lỗ thông giữa hai thế giới. Và cũng là nơi Anna bị kéo vào.
16) Vật thể bay không xác định.
“Nào,” một phút sau, cậu ấy nói và vẫy chúng tôi. Carmel cẩn thận bước đi. Tôi hít sâu. Hai chân tôi xem ra không muốn bước qua bậc cửa. Đây chính là điều tôi muốn, điều tôi chờ đợi từ khi Anna biến mất. Những câu trả lời cách chưa đầy 6 mét.
“Cas?” Carmel gọi.
“Ngay sau cậu đây,” tôi nói, nhưng những câu tục ngữ tôi từng nghe như là càng biết ít càng thảnh thơi vụt qua trong tâm trí. Tôi chợt nhận ra rằng mình không nên muốn chuyện này có thực. Tôi nên hy vọng rằng những câu trả lời mình nhận được tối nay cho tôi biết rằng đó không phải là Anna, rằng Riika đã sai và Anna đã yên nghỉ. Hãy để bất kỳ điều gì đang ám tôi là thứ khác, một thứ đầy ác tâm mà tôi có thể đấu lại. Thật ích kỷ khi muốn Anna quay về. Dù em ở nơi đâu thì cũng tốt hơn là bị nguyền rủa và giam hãm. Nhưng tôi không thể dừng được.
Vài giây sau, chân tôi cử động lại. Chúng đưa tôi băng qua chỗ đất mới dùng để lấp tầng hầm và tôi không cảm thấy bất kỳ điều gì. Không phấn khích cũng không lạnh sống lưng. Không còn lại gì, dù là Anna hay lời nguyền của em. Có thể tất cả đã biến mất vào khoảnh khắc ngôi nhà bị sập xuống. Mẹ, Morfran và Thomas hẳn đã kiểm tra cả chục lần khi đứng ở các góc đọc thần chú.
Ở giữa khoảnh đất, Thomas đang vẽ một vòng tròn lớn bằng con dao tế. Không phải của tôi, mà là của Morfran - dài và màu mè với cái cán được chạm trổ và gắn đá quý. Hầu hết mọi người sẽ bảo nó đẹp hơn cái của tôi và có giá trị hơn nhiều. Nhưng chỉ là cái mẽ ngoài thôi. Thomas có thể dùng nó để vẽ một vòng tròn, nhưng chính quyền năng của cậu ấy tạo nên sự bảo vệ. Không có Thomas, con dao đó chỉ có thể dùng cắt thịt.
Carmel đứng ở giữa vòng tròn, cầm một que hương đang cháy lẩm nhẩm câu thần chú hộ thân Thomas dạy cho. Thomas cũng đọc, sau cô ấy hai nhịp nên nghe như họ đang đấu với nhau. Tôi đặt cây đèn bão xuống, trong vòng tròn nhưng ở gần rìa. Họ khấn xong và Thomas ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống.
Nền đất lạnh ngắt, nhưng may là khô ráo. Thomas quỳ xuống và đặt cái trống Lappish trước mặt. Cậu ấy có mang theo một cái dùi. Cơ bản là giống như một cái dùi bình thường với một viên kẹo dẻo lớn màu trắng gắn ở đầu. Trong ánh sáng nhập nhoạng, khó có thể nhìn thấy những họa tiết được vẽ trên mặt trống da. Khi tôi mang nó về từ chỗ Riika, tôi để ý thấy trên đó là những hình người que trông như miêu tả cảnh đi săn thời tiền sử “Trông nó thật cũ,” Carmel bình phẩm. “Cậu nghĩ nó làm bằng gì?” Cô ấy cười nửa miệng với tôi. “Là da khủng long?”
Tôi phì cười, nhưng Thomas hắng giọng.
“Nghi thức khá đơn giản,” cậu ấy nói. “nhưng rất mạnh. Bọn mình không nên khinh suất.” Thomas phủi sạch đất trên con dao tế, lau sạch bằng rượu và tôi biết tại sao cậu ấy lại làm vậy. Cậu ấy đã đúng khi bảo rằng chúng tôi sẽ cần máu. Và cậu ấy định dùng con dao tế đó để lấy máu tôi. “Vì cậu tò mò nên tớ cho cậu biết là Morfran ngờ rằng cái trống này được làm từ da người.”
Carmel há hốc miệng.
“Không phải là da của nạn nhân một vụ giết người hay gì đâu,” cậu ấy nói tiếp. “Nhưng cũng có thể được lấy từ những pháp sư cuối cùng của bộ lạc, khi họ chết. Đương nhiên ông không biết chắc, nhưng ông nói những cái trống tốt nhất thường được làm bằng vật liệu đó và Riika không bao giờ chịu dùng một thứ hạng hai. Có thể nó là vật gia truyền của nhà dì ấy.”
Thomas mải mê nói nên không trông thấy Carmel nuốt khan và nhìn cái trống chằm chằm. Tôi biết cô ấy nghĩ gì. Với thông tin mới mẻ này, trông nó hoàn toàn khác so với cách đây mấy giây. Nó chẳng khác gì một bộ xương người đã khô đặt trước mặt chúng tôi.
“Chính xác là chuyện gì sẽ xảy ra khi bọn mình thực hiện nghi lễ?” Carmel hỏi.
“Tớ không biết,” Thomas đáp. “Nếu bọn mình thành công, thì sẽ nghe được giọng cô ấy. Một ít văn bản có lờ mờ nhắc đến sương hoặc khói. Và có thể có gió. Tớ chỉ biết chắc là mình sẽ bị nhập hồn khi thực hiện nghi lễ. Tớ có thể biết hoặc không biết chuyện gì đang xảy ra. Và nếu có gì không ổn, tớ sẽ khó lòng ngăn nó lại được.”
Ngay cả dưới ánh sáng leo lét tỏa ra từ cây đèn bão, tôi vẫn có thể thấy má Carmel gần như không còn chút huyết sắc.
“Hay rồi. Thế bọn tớ sẽ phải làm gì khi có biến?”
“Đừng có hoảng lên,” Thomas mỉm cười gượng gạo. Cậu ấy thảy cho cô ấy gì đó lấp lánh. Khi mở tay ra, cô ấy thấy chiếc bật lửa Zippo của Thomas. “Chuyện này hơi khó giải thích. Cái trống như một công cụ để tìm đường đến thế giới bên kia. Morfran nói chủ yếu là phải tìm đúng nhịp, giống như dò sóng trên đài. Chỉ cần tớ tìm được thì cánh cửa phải được thông bằng máu. Máu của người tìm kiếm. Máu của Cas. Cậu sẽ phải nhỏ nó vào con dao tế của cậu ấy và bọn mình sẽ đặt nó vào tâm vòng tròn.”
“Sao lại là tớ?” Carmel hỏi.
“Cậu ấy không tự làm được còn tớ thì bị nhập hồn rồi,” Thomas đáp như thể đó là chuyện hiển nhiên.
“Cậu có thể mà,” tôi nói với Carmel. “Cứ nghĩ về vụ hẹn hò mà tớ làm bẽ mặt cậu. Cậu sẽ rất muốn đâm tớ.”
Trông cô vẫn chưa chắc chắn, nhưng khi Thomas chìa con dao của mình ra, cô ấy cầm lấy.
“Khi nào?” cô ấy hỏi.
Thomas trưng điệu cười nửa miệng ra. “Tớ hy vọng là cậu tự biết là lúc nào.” Nụ cười đó làm tôi hơi ngạc nhiên. Kể từ lúc cả bọn đến đây, đó là dấu hiệu đầu tiên của Thomas mọi khi. Thường thường, khi phải làm công việc bùa chú, cậu ấy rất nghiêm túc và tôi nhận ra cậu ấy thực sự không biết mình đang làm gì.
“Có nguy hiểm không? Với cậu ấy,” tôi hỏi.
Cậu ấy nhún vai và phẩy tay. “Đừng lo. Bọn mình cần biết, đúng không nào? Trước khi cậu phát điên. Tiến hành thôi. Carmel,” Thomas nói và nhìn cô ấy. “Nếu có gì không ổn, cậu phải đốt ngay máu trên con dao tế của Cas. Cứ nhặt con dao lên và đốt thôi. Được chứ?”
“Tại sao phải là tớ? Tại sao Cas không làm?”
“Cùng lý do như cậu phải cắt máu cậu ấy. Vì cậu không thuộc về nghi lễ. Tớ không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Cas, hay bản thân, khi việc này bắt đầu.”
Carmel rùng mình, dù kỳ thực là trời không lạnh đến thế. Cô ấy sắp nghĩ lại nên trước khi cô ấy kịp nói ra, tôi đã lấy con dao tế khỏi túi sau, kéo ra khỏi vỏ và đặt xuống đất.
“Nó là một cây đèn hiệu, như Riika nói,” Thomas giải thích. “Hãy hy vọng là Anna có thể theo nó đến với chúng ta.” Cậu ấy cho tay vào túi và lấy một nắm que hương, đưa cho Carmel đốt lên rồi thổi tắt trước khi cắm chúng xuống nền đất mềm xung quanh. Tôi đếm được 7 que. Khói hương cuộn lên thành những đường xoắn ốc màu xám nhạt. Cậu ấy hít sâu.
“Một điều nữa,” cậu ấy nói và cầm dùi trống lên. “Đừng rời vòng tròn trước khi nghi lễ kết thúc.” Cậu ấy trưng ra biểu cảm liều một phen thôi và tôi muốn nhắc cậu ấy cẩn thận, nhưng mặt tôi tê liệt. Chớp mắt thôi cũng khó.
Cậu ấy vung tay và tiếng trống vang lên, âm thanh trầm thấp và tròn trịa. Tiếng trống chắc chắn, vang xa và dù tôi khá chắc Thomas không được học đánh trống tử tế nhưng mỗi nhịp vang lên nghe rất bài bản. Như thể được viết sẵn. Ngay cả khi cậu ấy đổi tốc độ và khoảng cách giữa các lần đánh. Thời gian trôi qua. Tôi không biết là bao lâu. Có thể là 30 giây, cũng có thể là 10 phút. Tiếng trống làm tê liệt mọi giác quan nơi tôi. Không khí dường như dày đặc khói hương và đầu tôi có cảm giác lùng bùng. Tôi liếc nhìn Carmel. Cô ấy liên tục chớp mắt và trán rịn mồ hôi, nhưng trông cô ấy vẫn cảnh giác.
Hơi thở Thomas chậm và nông. Nghe như ăn nhịp với tiếng trống. Tiếng gõ dừng lại và tiếp tục. Một. Hai. Ba. Bốn. Năm. Sáu. Bảy. Rồi bắt đầu lại từ đầu, nhanh hơn và trầm hơn. Khói hương bay qua bay lại. Xảy ra rồi. Cậu ấy đang tìm đường.
“Carmel,” tôi thì thầm và chìa tay về phía con dao tế ở dưới đất. Cô ấy nắm lấy cổ tay tôi và kê con dao của Thomas vào lòng bàn tay tôi.
“Cas,” cô ấy nói và lắc đầu.
“Nào, không sao đâu,” tôi nói và cô ấy nuốt khó nhọc, rồi cắn môi. Lưỡi dao cứa qua lòng bàn tay tôi, ban đầu chỉ thấy buồn buồn rồi đau buốt. Máu nhỏ xuống con dao tế của tôi, chảy dọc lưỡi dao. Hình như có tiếng xèo xèo. Hoặc có thể đúng như vậy thật. Điều gì đó đang diễn ra trong không khí, nó chuyển động quanh chúng tôi như một con rắn và át tiếng trống là tiếng gió rít ù tai, chỉ có điều đây không phải một cơn gió bình thường. Khói hương không bị thổi bay. Nó chỉ cuộn thành vòng xoáy ốc, hướng thẳng lên trên.
“Chuyện này có kỳ lạ không?” Carmel nói.
“Đừng lo. Không sao đâu,” tôi đáp, nhưng tôi cũng không biết. Bất kể thứ gì đang xảy ra, nó đang diễn ra nhưng không có hiệu quả. Đang xảy ra, nhưng quá chậm. Mọi thứ bên trong vòng tròn có cảm giác như thứ gì đó đang cố thoát ra khỏi lồng. Không khí ngột ngạt và tôi ước có một ánh trăng để không tối đen thế này. Lẽ ra, chúng tôi không nên tắt đèn bão đi.
Máu vẫn nhỏ từ bàn tay tôi xuống con dao tế. Tôi không biết mình mất bao nhiêu máu rồi. Chắc là không nhiều lắm nhưng não tôi bắt đầu có vấn đề. Tôi gần như không thể nhìn xuyên qua màn khói, nhưng tôi không biết điều đó xảy ra lúc nào và làm sao 7 que hương tỏa ra nhiều khói thế này. Carmel nói gì đó nhưng tôi không nghe, dù tôi nghĩ cô ấy đang gào lên. Con dao tế hình như đang rung rinh. Hình ảnh nó bao phủ trong máu tôi trông thật lạ, gần như bị biến dạng. Máu tôi trên lưỡi dao. Máu tôi bên trong nó. Nhịp trống và âm thanh hơi thở Thomas quyện vào không khí... hoặc có thể đó là hơi thở và nhịp tim của chính tôi đang nện vào tai.
Cảm giác buồn nôn trào lên đến họng. Tôi phải làm gì đó, trước khi nó chiếm quyền kiểm soát hoặc trước khi Carmel hoảng lên và rời vòng tròn. Tay tôi đưa về phía cái trống và ấn xuống bề mặt da. Tôi không biết tại sao. Chỉ là một phản ứng tức thời. Sự tiếp xúc để lại một vết ướt màu đỏ. Trong tích tắc, nó biến mất dưới mặt trống, như chưa hề tồn tại.
“Thomas, tớ không biết mình có thể làm điều này bao lâu nữa,” tôi thì thào. Qua làn khói, tôi chỉ lờ mờ nhìn thấy ánh sáng lóe lên từ đôi kính của cậu ấy. Thomas không nghe thấy tôi.
Tiếng hét của một cô gái cắt ngang bầu không khí. Không phải Carmel. Tiếng thét chói tai và trước cả khi nhìn thấy những lọn tóc đen xoăn, tôi biết Thomas đã làm được. Cậu ấy đã tìm thấy nhịp điệu của Anna.
Khi chuyện này bắt đầu, tôi cố không nghĩ gì, không mong đợi điều gì. Hóa ra chẳng cần thiết. Hình ảnh ngay trước mặt tôi chắc hẳn không bao giờ hình dung ra được.
Anna đột ngột xuất hiện trong vòng tròn, như thể tiếng trống của Thomas đã kéo em ra khỏi một chiều không gian khác và để em ngã quỳ ở đây. Em xé toang không khí giữa chúng tôi như một tia sét và xé rách một bề mặt vô hình nào đó, cách mặt đất chừng 1 mét. Máu rỉ ra từ váy em nhưng không bao giờ nhỏ xuống đất, vì em không thực sự ở nơi này. Chúng tôi chỉ đang nhìn xuyên qua một cửa sổ mở.
“Anna,” tôi cất tiếng. Ngay lập tức, em mỉm cười và đôi mắt đen mở to. Nhưng thay vì đáp lại, em lắc đầu và nhắm nghiền mắt. Tay em đấm vào một bề mặt vô hình.
“Anna.”
“Anh không có ở đây,” em nói, nhìn xuống và tôi thấy người nhẹ nhõm.
Em có nghe tôi nói. Vậy là được rồi.
“Em cũng đâu có ở đây,” tôi nói. Được nhìn thấy em. Thật rõ ràng. Tôi chưa quên, nhưng nhìn thấy em vẫn khiến tôi không khỏi kinh ngạc. Em thu mình, phòng thủ như một con mèo rít lên vì giận dữ.
“Anh chỉ là tưởng tượng của em,” em đáp trả. Em nói giống hệt như tôi. Tôi đưa mắt nhìn Thomas, cậu ấy vẫn đều đặn đánh trống và giữ hơi thở ổn định. Mồ hôi ướt đẫm quanh cổ áo thun của cậu ấy và chảy thành dòng xuống mặt. Có thể chúng tôi không có nhiều thời gian.
“Anh cũng nghĩ thế,” tôi nói. “Vào lần đầu tiên em xuất hiện ở nhà anh. Đó là điều anh cố tự nhủ khi em bò vào lò luyện hoặc lao ra khỏi cửa sổ nhà anh.”
Mặt Anna nhăn lại và tôi dè dặt hy vọng. Thật khó để biết hoặc đọc được cảm xúc của em qua những mạch máu đen kịt đó.
“Đó có thực sự là em không?” tôi hỏi.
“Em không tự nhảy,” em thì thầm bâng quơ. “Em bị đẩy. Xuống đá. Em bị kéo. Kéo vào bên trong để bị thiêu cháy.” Em rùng mình, có thể là do nhớ lại và tôi cũng thế. Nhưng tôi phải dẫn dắt em về thực tại.
“Cô gái mà bọn anh đang nhìn thấy đây, có phải em không?” Không còn nhiều thời gian, nhưng tôi không biết phải nói gì. Trông em rất bối rối.
“Anh có thể nhìn thấy em ư?” em hỏi và trước khi tôi kịp trả lời, nữ thần bóng đêm đã tan biến. Những mạch máu đen rút vào bên trong làn da trắng nhợt, tóc em thôi xõa tung, chuyển sang màu nâu và rũ xuống vai. Khi em ngồi thẳng dậy trên hai đầu gối, chiếc váy trắng quen thuộc phủ xuống hai chân em, lốm đốm những vết màu đen. Hai tay em lóng ngóng đặt trên lòng, đôi mắt đen sắc sảo vẫn còn lo lắng điều gì. Đôi con ngươi liên tục nhìn quanh. “Em không trông thấy anh. Tối quá.” Tiếc nuối khiến những lời nói của em do dự và nhỏ nhẹ. Tôi không biết phải nói gì. Có những vết thương đã thành vảy nơi các khớp tay và hai cánh tay em bầm tím. Hai vai đầy sẹo đã kín miệng. Không thể thế này được.
“Tại sao em không nhìn thấy anh?”
“Anh không biết nữa,” tôi nói nhanh. Khói cuộn lên giữa chúng tôi và tôi thấy nhẹ nhõm vì có thể nhìn ra chỗ khác để chớp mắt. Tôi có cảm giác nghèn nghẹn nơi cổ họng. “Đây chỉ là một ô cửa sổ mà Thomas có thể mở,” tôi nói. Chuyện này sai hết rồi. Bất kể em đang ở đâu, thì cũng không phải là nơi em thuộc về. Những vết sẹo trên hai cánh tay em. Những vết bầm.
“Chuyện gì đã xảy ra với em? Em bị những vết sẹo đó ở đâu?”
Em nhìn xuống, hơi bất ngờ, như thể em mới vừa nhận ra chúng vậy. “Em biết anh đã được an toàn,” em nói khẽ. “Sau khi chúng em siêu thoát. Em biết.” Em mỉm cười, nhưng chẳng có cảm giác thật nào trong đó. Chúng tôi không có thời gian cho chuyện này.
Tôi nuốt khan. “Em đang ở đâu?”
Tóc em rơi xuống má và em nhìn chăm chăm vào hư không. Tôi biết em không thực sự tin là chúng tôi đang nói chuyện.
“Địa ngục,” em nói khẽ như thể đó là chuyện đương nhiên. “Em ở Địa ngục.”
Không. Không, đó không phải là nơi em thuộc về. Đó không phải là nơi em phải đến. Em đáng lẽ phải được an nghỉ. Em... tôi dừng lại, vì tôi thì biết cái quái gì? Đó chẳng phải là chuyện tôi có thể quyết định. Đó chỉ là điều tôi muốn và là điều tôi cố tin.
“Em muốn anh giúp, phải không? Vì vậy nên em cho anh thấy những điều này?”
Em lắc đầu. “Không. Em không nghĩ anh có thể thấy được. Em không nghĩ đó là thật. Em chỉ tưởng tượng thấy anh. Điều này dễ dàng hơn, nếu em có thể nhìn thấy mặt anh.” Em lại lắc đầu. “Em xin lỗi. Em không muốn anh nhìn thấy.”
Có một vết cắt nhăn nhúm đang lành dọc theo bờ vai em. Không thể thế được. Tôi không biết ai hay cái gì đưa ra quyết định nhưng giờ tôi sẽ làm. Không thể để như thế này được.
“Anna, em nghe này. Anh sẽ đưa em về. Anh sẽ tìm cách để đưa em về nhà. Em có hiểu không?”
Em nghiêng đầu sang phải. Em bất động và căng thẳng như một con mồi đang trốn một con sói. Theo bản năng, tôi im lặng và quan sát lồng ngực em phập phồng. Sau vài giây, em thả lỏng người.
“Anh nên đi đi,” em nói. “Hắn sẽ tìm ra em. Hắn sẽ nghe thấy anh mất.”
“Ai kia?” tôi hỏi. “Ai sẽ tìm thấy em?”
“Hắn luôn tìm thấy em,” em nói tiếp như không hề nghe thấy. “Và rồi hắn sẽ đốt. Chém. Và giết. Ở đây, em không thể đấu lại hắn. Em không thắng nổi.” Những lọn tóc bắt đầu tủa ra từ mái tóc nâu. Giọng em xa vắng. Em đang trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc.
“Em có thể đấu với bất kỳ ai,” tôi thì thầm.
“Đây là thế giới của hắn. Luật lệ của hắn. Em chịu thua.” Giờ em lại nói bâng quơ rồi co người lại. Máu bắt đầu rỉ ra từ lớp vải trắng. Tóc em xoăn lại và chuyển sang màu đen.
Tôi đã nghĩ cái quái gì khi làm chuyện này? Nhìn thấy em ngay trước mặt nhưng trong thế giới khác còn tệ hơn cả triệu lần. Hai tay tôi thu lại thành nắm đấm để ngăn mình không vươn tay về phía em. Năng lượng cuộn trong khói giữa hai chúng tôi lên đến cả trăm ngàn vôn. Tôi không thể chạm vào em. Chỉ là ma thuật. Một ảo ảnh bằng cách nào đó được tạo ra bởi một cái trống bằng da người, bởi máu của tôi thấm đẫm con dao tế. Đâu đó bên phải tôi, Carmel nói gì đó, nhưng tôi không nghe thấy và không thể nhìn xuyên qua màn khói.
Mặt đất rung lắc bên dưới thân người Anna. Em cố giữ thăng bằng bằng hai tay và thu người lại khi có thứ ở gần đó gầm lên. Âm thanh không phải của con người, vang vọng khắp cả triệu bức tường. Mồ hôi rịn ra dọc theo sống lưng tôi và hai chân tôi tự chuyển động. Nỗi sợ của em khiến tôi muốn đứng lên.
“Anna, nói cho anh biết phải tìm em bằng cách nào. Em có biết không?”
Em đưa tay bịt hai tai và đầu em lắc lư từ trước ra sau. Ô cửa giữa chúng tôi nhỏ lại hay rộng ra, tôi cũng không biết nữa. Mùi hôi của đá ẩm và thối rữa sộc vào mũi tôi.
Ô cửa không thể đóng lại được. Tôi sẽ mở toang nó ra. Cứ để nó thiêu đốt tôi. Tôi cóc quan tâm. Khi em hy sinh bản thân cho chúng tôi, khi em lôi hắn xuống...
Và đột nhiên, tôi biết ai đang ở đó cùng em.
“Có phải hắn không?” tôi gào lên. Gã pháp sư. Em bị mắc kẹt với hắn?” Em lắc đầu quầy quậy, trông không đáng tin lắm. “Anna, đừng nói dối!” tôi dừng lại. Em có nói gì cũng không quan trọng. Tôi đã biết. Thứ gì đó trong ngực tôi cuộn lên như một con rắn. Những vết sẹo của em. Cách em thu người như một con cún bị đánh. Hắn đang đánh gãy xương em. Đồ sát nhân. Đồ sát nhân.
Mắt tôi bỏng rát. Khói dày đặc, tôi có thể cảm thấy nó tấp vào hai má. Ở đâu đó, tiếng trống vẫn vang lên, lớn dần, lớn dần nhưng tôi không biết liệu nó có đến từ bên trái, bên phải, hay từ đằng sau. Tôi đã đứng lên mà không hề nhận ra.
“Anh sẽ đến với em,” tôi hét lên, át cả tiếng trống. “Và anh sẽ đến tiêu diệt hắn. Chỉ cách cho anh đi. Cho anh biết làm thế nào để đến đó!” Em rùng mình. Khói, gió và tiếng thét, không thể biết được tất cả những thứ đó đến từ hướng nào. Tôi hạ giọng. “Anna. Em muốn anh làm gì?”
Trong tích tắc, tôi nghĩ em sẽ ngăn lại. Em run rẩy, thở gấp gáp. Nhưng rồi em nhìn tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi và tôi không quan tâm trước đó em đã nói gì. Em nhìn thấy tôi. Tôi biết thế.
“Cassio,” em thì thầm. “Hãy đưa em ra khỏi đây.”