
Địa Ngục Đỏ
Tổng số chương: 30
Tôi nghĩ mình đã từng xử lý một cô gái trông giống như cô này. Đúng rồi. Tên cô bé là Emily Danagger. Cô bé bị một tay thầu khoán thi công xây dựng nhà cho bố mẹ cô sát hại vào năm cô 13 hay 14 gì đấy. Thi thể cô bé bị nhét vào tường trong tầng áp mái rồi xây lấp lại.
Tôi chớp mắt và lầm bầm trả lời qua quýt cho câu gì đấy mà cô gái trước mặt vừa hỏi. Xương gò má của Emily cao hơn. Cái mũi trông cũng khác. Nhưng hình dáng khuôn mặt thì khá giống, cứ như thể tôi đang nhìn vào cô bé mình đã lần theo lên đến phòng dành cho khách trên lầu. Tôi mất gần một tiếng đồng hồ dùng dao tế chém hết bức tường này đến bức tường khác khi cô bé cứ thoắt ẩn thoắt hiện và cố lén ra đằng sau tôi.
“Tớ thích phim quái vật,” cô gái ngồi trước mặt, tên gì tôi cũng chẳng nhớ, lên tiếng. “Tớ mê Jigsaw 1* và Jason2*. Còn cậu?”
* Nhân vật phản diện trong phim kinh dị Saw.
** Jason Voorhees: nhân vật phản diện trong phim Friday the 13th.
“Tớ không khoái phim quái vật mấy,” tôi đáp và chẳng buồn đính chính rằng cả Jigsaw lẫn Jason về cơ bản không phải là quái vật. “Tớ thích những vụ nổ, hiệu ứng đặc biệt.”
Là Cait Hecht, tôi bất chợt nhớ ra tên cô. Cô là học sinh lớp 10 trường Winston Churchill. Cait có đôi mắt màu nâu lục nhạt, quá to so với khuôn mặt, nhưng trông cũng xinh. Tôi không biết mắt của Emily Danagger màu gì. Lúc tôi gặp Emily, mắt cô bé đã không còn chút huyết sắc. Tôi nhớ khuôn mặt cô bé, trắng bệch nhưng vẫn có hai con mắt, ẩn hiện giữa lớp giấy dán tường bạc màu. Nghĩ lại thì có vẻ ngớ ngẩn nhưng lúc ấy, nó là trò chơi đập chuột phiên bản ma quái vô cùng căng thẳng. Tôi ướt đẫm mồ hôi. Chuyện xảy ra cũng lâu lắm rồi, khi tôi nhỏ tuổi hơn và dễ bị kích động hơn. Phải nhiều năm sau tôi mới bắt đầu đối mặt với những linh hồn có sức mạnh thực sự - những linh hồn như Anna Korlov, người con gái lẽ ra đã có thể xé xác tôi bất kỳ khi nào em muốn, nhưng rốt cuộc lại cứu mạng tôi.
Tôi đang ngồi ở cái bàn trong góc một tiệm cà phê trên phố Bay. Carmel đối diện với hai người bạn nữa của cô ấy, Jo và Chad. Tôi nghĩ hai người này đã cặp kè nhau từ năm lớp 7. Rùng cả mình. Bên cạnh tôi, Cait Hecht nghiễm nhiên được cho là bạn hẹn của tôi. Chúng tôi vừa đi xem phim. Tôi không nhớ phim có nội dung gì nhưng hình như có mấy con chó khổng lồ. Cô đang nói chuyện với tôi kèm theo những cử chỉ điệu bộ quá đà, nhướng cao mày các kiểu, phô hàm răng hoàn hảo nhờ đeo niềng từ bé, cố duy trì sự chú ý của tôi. Nhưng trong đầu tôi chỉ toàn nghĩ sao cô giống Emily Danagger đến vậy, mỗi tội ít thú vị hơn.
“Ừm,” cô ngượng ngập nói, “cậu thấy cà phê thế nào?”
“Ngon,” tôi đáp. Tôi cố mỉm cười. Đây không phải lỗi tại cô. Carmel mới chính là người lôi tôi vào trò hề này và tôi làm theo để cô ấy thôi lải nhải. Tôi cảm thấy mình thật khốn nạn khi làm lãng phí thời gian của Cait. Còn khốn nạn hơn khi ngầm so sánh cô với một linh hồn tôi đã tiêu diệt 4 năm trước.
Cuộc nói chuyện đi vào ngõ cụt. Tôi uống một ngụm lớn cà phê. Mà đúng là nó rất ngon, nhiều đường, kem đánh xốp và quả phỉ. Bên dưới bàn, Carmel đá một cái khiến suýt chút nữa thì tôi sặc. Khi tôi ngước lên thì cô ấy đang nói chuyện với Jo và Chad những rõ là cô ấy cố ý. Tôi đang là một bạn hẹn bất lịch sự. Bên dưới mắt trái cô ấy bắt đầu giật giật.
Tôi nhanh chóng tìm cách lịch sự trò chuyện. Nhưng tôi không khuyến khích chuyện này hay bật đèn xanh với cô. Dù sao tôi cũng không hiểu lý do cô muốn đi chơi với tôi. Sau những gì xảy đến với Mike, Will và Chase năm ngoái - Mike bị Anna giết, còn Will và Chase bị gã pháp sư ăn thịt - tôi bị cả trường xa lánh. Tôi không hề dính líu đến cái chết của mấy đứa đó, nhưng tất thảy đều nghi ngờ. Mọi người biết ba đứa đó ghét tôi và cuối cùng, chúng nó lại chết
Có cả những giả thuyết về những chuyện có thể đã xảy ra, những đồn thổi thất thiệt cứ lan truyền rồi biến thành một mớ hổ lốn lố bịch, nhảm nhí và biến mất dần. Là ma túy đấy, thiên hạ rỉ tai nhau. Không phải, là một đường dây mại dâm ngầm. Cas cung cấp thuốc kích thích để chúng nó thể hiện tốt hơn. Cậu ta kiểu như một tên ma cô buôn ma túy ấy.
Mọi người lờ tôi đi ở hành lang và tránh nhìn vào mắt tôi. Tôi nghe họ bàn tán về mình và nhiều khi, tôi nghĩ lại về quyết định học hết cấp ba ở Thunder Bay. Tôi không chịu nổi những đứa đầu đất với một mớ giả thuyết mà hầu hết đều vô cùng kỳ dị, nhưng chẳng đứa nào nhắc đến câu chuyện ma mà ai cũng biết. Không ai nói về Anna. Đó ít ra cũng là một tin đồn đáng nghe.
Mấy lần tôi đã bảo mẹ chuẩn bị tìm cho chúng tôi một ngôi nhà ở một thành phố khác, nơi tôi có thể đi săn bao nhiêu linh hồn sát nhân cũng được. Lẽ ra chúng tôi đã dọn đi cách đây mấy tháng rồi nếu không phải vì Thomas và Carmel.
Liếc nhìn đồng hồ trên tường, mới có 5 phút kể từ lần cuối cùng tôi nhìn nó. Tôi nghĩ có lẽ nó đã bị hỏng. Khi những ngón tay của Cait khẽ chạm vào cổ tay tôi, tôi rụt lại và uống một hớp cà phê. Tôi cũng để ý thấy cô trở mình ngượng ngùng và khó chịu trước phản ứng của tôi.
Đột nhiên, Carmel nói lớn, “Tớ không nghĩ Cas đã tìm hiểu các trường Đại học đâu. Phải không, Cas?” Cô ấy lại đá chân tôi, mạnh hơn. Cô ấy đang nói gì vậy? Tôi mới học lớp 11. Tại sao phải nghĩ về trường Đại học chứ? Đương nhiên, Carmel có thể đã vạch tương lai của mình từ hồi mẫu giáo rồi.
“Tớ nghĩ tới trường St. Lawrence,” Cait nói khi tôi ngồi im. “Bố tớ bảo trường St. Clair có thể tốt hơn. Nhưng tớ không biết ông ấy bảo ‘tốt hơn’ là sao.”
“Ừm,” tôi ậm ừ. Carmel nhìn tôi như thể tôi là một thằng đần. Tôi suýt nữa phá lên cười. Cô ấy có ý tốt, nhưng tôi tuyệt đối chẳng có gì để nói với mấy người này. Tôi ước có Thomas ở đây. Khi điện thoại trong túi bắt đầu rung, tôi liền đứng bật dậy ra khỏi bàn. Cả bọn sẽ bắt đầu nói về tôi ngay giây phút tôi ra cửa, thắc mắc không biết tôi bị gì và Carmel sẽ bảo rằng chỉ là tôi hồi hộp thôi. Muốn nói gì thì nói.
Là Thomas gọi.
“Này,” tôi nói. “Cậu đang đọc ý nghĩ của tớ đấy à, hay chỉ là trùng hợp?”
“Tệ vậy hả?”
“Không tệ hơn tớ nghĩ. Chuyện gì thế?”
Tôi gần như có thể cảm thấy cậu ấy nhún vai bên kia đầu dây. “Không có gì. Chỉ nghĩ là có thể cậu cần lý do để chuồn. Tớ vừa lấy ô tô khỏi hàng sửa chữa chiều nay. Giờ nó có khi đưa được bọn mình tới Grand Marais.”
Tôi vừa định nói, “Ý cậu có khi là sao?” thì cửa quán cà phê bật mở và Carmel đi ra.
“Khỉ thật,” tôi làu bàu.
“Sao?”
“Carmel đang đến.”
Cô ấy dừng lại trước mặt tôi, hai tay khoanh trước ngực. Thomas vẫn léo nhéo hỏi có chuyện gì và liệu có nên qua nhà đón tôi không. Trước khi Carmel kịp nói, tôi đã áp điện thoại vào tai và đáp được.
Carmel kiếm cớ cho chúng tôi. Trong chiếc Audi, cô ấy chiến tranh lạnh thành công trong 40 giây khi lái xe xuyên qua những con phố của Thunder Bay. Có một sự trùng hợp khá lạ lùng là đèn đường nhất loạt bật lên khi chúng tôi đi qua, cứ như một người hộ tống màu nhiệm. Những con đường vẫn còn ướt với băng đọng bên lề đường. Kì nghỉ hè sẽ bắt đầu trong hai tuần nữa, nhưng có vẻ như thị trấn không hay biết điều đó. Đã cuối tháng Năm rồi mà vào ban đêm, trời vẫn lạnh toát. Dấu hiệu duy nhất cho thấy mùa đông sắp kết thúc là những cơn bão: gào thét, cùng cơn gió thổi qua hồ và quay trở lại, cuốn đi những lớp băng mỏng của mùa đông. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho quá nhiều tháng lạnh lẽo như vậy. Mùa đông bao quanh thành phố như một nắm tay siết chặt.
“Tại sao cậu còn vác xác đến làm gì?” Carmel hỏi. “Nếu cậu định hành xử kiểu đấy? Cậu đã làm Cait buồn.”
“Chúng ta đã làm Cait buồn. Ngay từ đầu, tớ đã không muốn dính dáng gì đến rồi. Cậu mới chính là người gieo hy vọng cho cô ấy.”
“Cô ấy đã thích cậu từ lớp Hóa học kỳ trước,” Carmel lườm.
“Vậy lẽ ra cậu nên nói cho cô ấy biết tớ đáng ghét đến mức nào. Cậu làm tớ giống như một thằng đần.”
“Tốt hơn cả là để cô ấy tự mình trải nghiệm. Cậu gần như không nói quá 5 từ với bất kỳ ai.” Nét mặt cô ấy cau lại thất vọng, thêm chút nữa là thành chán ghét. Thế rồi, cô ấy dịu mặt lại và vén mái tóc vàng ra sau lưng. “Tớ chỉ nghĩ cũng tốt nếu cậu ra ngoài và kết bạn mới.”
“Tớ gặp nhiều người mới rồi.”
“Ý tớ là người sống kìa.”
Tôi nhìn thẳng về phía trước. Có thể cô ấy nói bóng gió về Anna, cũng có thể không. Nhưng tôi thấy hơi bực. Carmel muốn tôi quên chuyện đó đi. Quên rằng Anna đã cứu tất cả chúng tôi, rằng em đã hy sinh bản thân và kéo gã pháp sư xuống Địa ngục. Carmel, Thomas và tôi đã cố tìm hiểu chuyện gì xảy đến với em sau đêm đó, nhưng vô vọng. Tôi đoán Carmel nghĩ đã đến lúc thôi tìm kiếm và để em đi. Nhưng tôi sẽ không làm thế. Chuyện tôi có nên làm thế hay không không quan trọng.
“Cậu đâu cần phải ra về với tớ,” tôi nói. “Tớ có thể nhờ Thomas đến đón mà. Hoặc tớ đi bộ cũng được.”
Carmel cắn đôi môi xinh xắn, cái cách cô ấy thường làm để đạt được mục đích. Chúng tôi đã làm bạn gần một năm rồi mà cô ấy vẫn trưng ra bộ mặt cún con bối rối mỗi khi tôi không nghe lời. Dễ thương đến lạ.
“Bên ngoài lạnh đấy. Và dù sao cũng không có gì thú vị.” Cô ấy có vẻ thản nhiên trong chiếc áo khoác màu nâu nhạt và găng tay đỏ. Chiếc khăn quàng cổ màu đỏ được cột cẩn thận, dù chúng tôi đã hấp tấp rời đi. “Tớ chỉ muốn giúp Cait thôi. Giúp cô ấy gặp người trong mộng. Không phải lỗi bọn tớ nếu cô ấy không quyến rũ được cậu.”
“Cô ấy có hàm răng đẹp,” tôi nói. Carmel mỉm cười.
“Có thể đó là một ý tồi. Không nên gượng ép, đúng không?” cô ấy nói và tôi vờ không nhận ra ánh mắt chứa chan hy vọng đó, như thể tôi nên tiếp tục cuộc trò chuyện này. Chẳng có gì mà tiếp tục.
Khi chúng tôi về đến nhà tôi, con Tempo cà tàng của Thomas đã đỗ trên lối vào nhà. Tôi có thể nhìn thấy bóng cậu ấy bên trong, đang trò chuyện với mẹ tôi. Carmel đậu xe ngay đằng sau. Tôi tưởng cô ấy định thả tôi xuống ngoài vỉa hè.
“Đi xe của tớ. Tớ sẽ đi với các cậu,” cô ấy nói và xuống xe. Tôi không phản đối. Bất chấp ý tốt của tôi, Carmel và Thomas vẫn nhập hội. Sau những gì xảy đến với Anna và gã pháp sư, tôi không thể nào gạt họ ra được.
Bên trong nhà, Thomas trông như một mớ giẻ lau trên sofa. Cậu ấy đứng bật dậy khi trông thấy Carmel, hai mắt đảo qua đảo lại cho tới khi cậu ấy chỉnh kính và trở lại bình thường. Mẹ tôi ngồi trên ghế, trông thoải mái và ra dáng mẹ hiền trong chiếc áo len. Tôi không biết người ta lấy ở đâu cái ý nghĩ rằng phù thủy đều kẻ mắt đen xì và mặc áo choàng nhung. Mẹ mỉm cười và tế nhị hỏi bộ phim thế nào, thay vì hỏi cuộc hẹn ra sao.
Tôi nhún vai. “Con chẳng hiểu gì cả,” tôi nói.
Mẹ thở dài. “Thomas bảo bọn con định đến Grand Marais.”
“Xem ra lại là một đêm vui vẻ,” tôi nói rồi nhìn Thomas. “Carmel cũng đi cùng. Vậy nên, bọn mình có thể dùng xe cô ấy.”
“Vậy tốt rồi,” cậu ấy đáp. “Nếu mà đi cái xe cà tàng của tớ thì chắc nó sẽ nằm lại bên lề đường trước khi kịp vượt qua biên giới.”
Cả bọn hơi thiếu tự nhiên khi có mặt mẹ tôi. Mẹ không phải là một người bình thường, nhưng tôi cố không kể lể nhiều. Sau lần tôi suýt mất mạng vào mùa thu trước, mái tóc đỏ của mẹ bắt đầu lốm đốm bạc.
Cuối cùng, mẹ cũng đứng lên và ấn ba cái túi nhỏ bằng nhung nặng mùi vào tay tôi. Không nhìn tôi cũng biết chúng là gì. Hỗn hợp hương thảo tươi kinh điển mẹ dùng làm bùa hộ thân, mỗi đứa một túi. Mẹ dí một ngón tay vào trán tôi.
“Giữ cẩn thận,” mẹ thì thầm. “Con cũng thế.” Mẹ quay về phía Thomas. “Giờ cô đi làm thêm nến cho cửa hàng của chú cháu đây.”
“Nến cầu thịnh vượng bán chạy lắm ạ,” cậu ấy cười tươi.
“Nguyên liệu cũng đơn giản thôi. Chanh và húng quế. Và lõi đá nam châm. Thứ Ba cô sẽ mang đến cửa hàng mẻ mới.” Mẹ lên lầu, vào căn phòng dùng để làm bùa chú. Trên đó chất đầy sáp ong, các loại dầu và những chai thảo dược đầy bụi. Tôi nghe nói những bà mẹ khác có cả những căn phòng dành riêng cho việc khâu vá. Chắc là lạ lắm.
“Chừng nào về, con sẽ phụ mẹ cho nến vào thùng,” tôi nói khi mẹ biến mất nơi cầu thang. Tôi ước mẹ nuôi một con mèo khác. Có một khoảng trống nơi từng là con Tybalt, quẩn quanh mỗi bước chân của mẹ. Nhưng nó mới mất được 6 tháng. Có thể vẫn còn quá sớm.
“Đi được chưa?” Thomas hỏi. Cậu ấy đang cặp nách một cái túi đưa thư bằng vải bạt. Mọi thông tin chúng tôi có được về một linh hồn, một công việc nào đó, cậu ấy đều nhét vào cái túi. Tôi không dám nghĩ tới việc cậu ấy sẽ bị hỏa thiêu trên cọc nhanh thế nào nếu có ai lấy được cái túi đó. Không cần nhìn vào mớ lộn xộn bên trong, cậu ấy cho tay vào túi, làm cái trò ngoại cảm như mọi khi và tìm thấy bất cứ thứ gì mình muốn, lần nào cũng thế, giống như đứa con gái trong phim Poltergeist3*.
* Phim kinh dị phát hành năm 2015.
“Grand Marais,” Carmel lẩm bẩm khi Thomas đưa những tờ giấy cho mình. Chủ yếu là một lá thư từ một giáo sư tâm lý tại trường sau đại học Rosebridge, đồng thời là bạn thân của cha tôi. Trước khi trở thành người định hình tâm lý cho lớp trẻ, ông ấy đã từng tự mở rộng tầm mắt khi tham gia vào những cuộc gọi hồn do cha mẹ tôi tổ chức vào đầu những năm 80. Trong thư, ông ấy nói về một linh hồn ở Grand Marais, Minnesota, nghe đồn là sống trong một chuồng gia súc bỏ hoang. Ba thập kỷ qua đã có 6 người chết tại đó. Ba người trong số họ được cho là bị mất mạng dưới những tình huống đáng ngờ.
6 người chết thì đã sao? Những số liệu kiểu thế không nằm trong danh sách ưu tiên của tôi. Nhưng vì giờ tôi cắm rễ ở Thunder Bay, lựa chọn của tôi bị giới hạn lại chỉ còn vài chuyến dã ngoại trong một năm và những nơi tôi có thể đến vào cuối tuần.
“Vậy là nó giết người bằng cách làm người ta gặp tai nạn?” Carmel đọc qua lá thư rồi nói. Hầu hết những nạn nhân đều có vẻ như bị tai nạn. Một nông dân đang sửa máy cày thì cái xe trượt khỏi đống gạch và đè lên ông ta. Bốn năm sau, bà vợ của người nông dân đó ngã sấp vào một cái xỉa rơm. “Làm sao mình biết chúng không phải chỉ là tai nạn? Grand Marais xa như vậy nhỡ đến nơi hóa ra chẳng có gì hết thì sao?”
Carmel luôn gọi những linh hồn là nó. Không bao giờ định rõ giới tính và hiếm khi gọi bằng tên.
“Bọn mình có gì hay hơn để làm sao?” tôi nói. Trong ba lô, con dao tế cựa quậy. Biết nó ở đó, được bọc kỹ trong bao da, bén ngọt hệt một lưỡi lam mà không đời nào cần phải mài, khiến tôi cảm thấy bứt rứt. Tôi gần như ước mình trở lại cái ngày chết dẫm đó.
Kể từ lần đối mặt với gã pháp sư, khi tôi phát hiện ra con dao có sự kết nối với hắn, tôi... tôi cũng không biết nữa. Không phải là tôi sợ nó. Tôi vẫn có cảm giác nó là của tôi. Cả Morfran và Gideon đều đảm bảo với tôi rằng sự kết nối giữa nó và gã pháp sư đã bị cắt đứt, rằng những linh hồn tôi tiêu diệt không còn đến với hắn, tiếp năng lượng và làm hắn mạnh hơn. Giờ họ đã đến nơi mà họ thuộc về. Khi tôi vẫn còn băn khoăn, Morfran và Gideon lần lượt giảng cho tôi một bài về cách năng lượng tồn tại ở những không gian nhất định và gã pháp sư cùng con dao tế không còn ở chung một không gian nữa. Chẳng hiểu thế nghĩa là gì. Nhưng tôi tin họ.
Vậy nên, tôi không sợ nó. Nhưng đôi lúc, tôi cảm thấy sức mạnh của nó thoát ra và xô vào tôi. Nó không hẳn là một thứ vô tri và đôi khi, tôi tự hỏi không hiểu nó muốn gì.
“Mà,” Carmel nói, “cho dù nó đúng là một linh hồn đi nữa, sao vài năm mới giết một người? Nếu nó không muốn giết bọn mình thì sao?”
“À,” Thomas thẽ thọt, “sau lần cuối cùng mình trở về tay không, tớ bắt đầu làm cái này.” Cậu ấy thọc tay vào túi áo khoác quân đội rộng thùng thình và lôi ra một hòn đá hình tròn sáng màu. Nó dẹt và dày khoảng 1 phân, hệt như một đồng xu lớn. Có một hình khắc trên một mặt, trông giống như một biểu tượng Celtic cải biên.
“Đá khắc cổ ngữ Rune,” tôi nói.
“Đẹp thế,” Carmel nói và Thomas đưa nó cho cô ấy. Quả thực, nó được làm rất khéo. Nét khắc rất sắc sảo và được Thomas đánh bóng đến sáng lóa.
“Một thứ mồi nhử.”
Carmel đưa nó cho tôi. Một viên đá nhử ma. Nếu thành công thì quả là rất thông minh. Tôi lật nó lại trong tay mình. Cảm giác mát lạnh và nặng cỡ quả trứng gà.
“Thế nào?” Thomas nói, lấy lại viên đá và bỏ vào túi. “Các cậu có muốn thử không?”
Tôi nhìn bọn họ và gật đầu.
“Vậy thì đi nào.”
Chuyến lái xe trong đêm đến Grand Marais, Minnesota dài lê thê và tẻ ngắt. Những nhánh thông ẩn hiện trong ánh đèn pha và nhìn những dòng chữ khiến tôi bắt đầu thấy xây xẩm. Hầu như tôi đều cố ngủ ở ghế sau hay ít nhất là giả vờ ngủ rồi nghe hai người kia nói chuyện, câu được câu mất. Khi họ nói thầm, tôi biết là họ nói về Anna, nhưng không bao giờ gọi tên em. Tôi nghe Carmel nói chuyện này tuyệt vọng rồi, rằng chúng tôi sẽ không bao giờ tìm ra em đã đi đâu và dù có thể đi nữa, thì cũng không nên. Thomas không tranh cãi nhiều, cậu ấy không bao giờ làm thế với Carmel. Những cuộc trò chuyện kiểu này từng làm tôi bực mình. Nhưng giờ thì hết rồi.
“Rẽ vào đi,” Thomas nói. “Tớ nghĩ là đúng đường rồi.”
Tôi nghển cổ lên khỏi ghế khi Carmel cố lái con Audi vào một lối đi đầy bùn lầy lội. Chiếc xe có hệ dẫn động bốn bánh, nhưng nguy cơ bị mắc kẹt vẫn khá cao. Chắc mấy hôm trước có mưa lớn nên con đường đầy vũng nước. Tôi đang định bảo Carmel quên chuyện này đi và quay lại thì thấy có một thứ màu đen nhấp nháy trong ánh đèn xe.
Xe phanh kít lại.
“Có phải nó không?” Carmel hỏi. ‘Nó’ là một chuồng gia súc màu đen to đùng, đứng ngay mé một cánh đồng hoang với những thân cây chết chĩa lên hệt như những sợi tóc cứng đơ. Căn nhà từng sở hữu cái chuồng này đã bị dỡ bỏ từ lâu, giống như những tòa nhà khác. Chỉ còn sót lại mỗi cái chuồng, tối thui và đơn độc, im lìm đợi chúng tôi ở trước một cánh rừng tịch mịch.
“Giống như miêu tả,” tôi nói.
“Miêu tả đã là gì.” Thomas nói, cho tay vào túi. “Bọn mình có bức phác họa, nhớ không?” Cậu ấy lấy nó ra và Carmel bật đèn xe. Tôi ước gì cô ấy đừng làm thế. Ngay lập tức cảm giác bị theo dõi ập đến, như thể ánh đèn phơi bày ra toàn bộ những bí mật của chúng tôi. Carmel với tay toan tắt đèn, nhưng tôi đặt tay lên vai cô ấy.
“Quá muộn rồi.”
Thomas giơ bức họa lên cửa sổ, so sánh nó với hình dáng mờ ảo của cái chuồng. Tôi nghĩ nó chẳng được việc mấy. Nét vẽ thô bằng than nên mọi thứ vẫn mờ ảo như thế, chỉ có khác màu. Nó được gửi qua đường bưu điện cùng với tin chỉ điểm và là sản phẩm của một ông đồng. Ai đó đã vẽ thứ này khi bị nhập hồn. Người này đáng ra nên mở mắt ra nhìn xuống giấy. Trông bức vẽ khá ảo với viền ngoài mờ và nét vẽ đậm. Nó trông như tác phẩm của một đứa trẻ 4 tuổi. Nhưng khi tôi so sánh chúng, cái chuồng và bức họa bắt đầu có vẻ giống nhau hơn, như thể hình thù chẳng quan trọng bằng bất kỳ điều gì ẩn chứa đằng sau đó.
Ngớ ngẩn thật. Cha tôi đã nói tự thân địa điểm không thể xấu xa bao nhiêu lần rồi nhỉ? Tôi thò tay vào ba lô lấy con dao tế rồi xuống xe. Nước ngập tới dây giày và khi tôi ra được cốp xe, giày tôi đã ướt sũng. Xe của cả Thomas và Carmel đều được trang bị như một hầm lánh nạn, đầy những đèn hiệu, chăn và đủ những dụng cụ sơ cứu để làm hài lòng những người hoang tưởng nhất. Thomas đứng bên cạnh tôi, dò dẫm bước trong bùn đất. Carmel mở cốp lên và chúng tôi lấy ra ba cây đèn pin cùng một chiếc đèn bão. Cả ba dò dẫm trong bóng tối, cảm thấy chân mình tê dại và nghe tiếng tất ướt nhẹp trong giày. Trời ẩm ướt và lạnh. Những tảng băng lì lợm vẫn bám chặt lấy những gốc cây và xung quanh chuồng gia súc.
Tôi lại sởn gai ốc lần nữa bởi cái vẻ quái gở của nó. Thậm chí còn tệ hơn ngôi nhà kiểu Victoria xập xệ của Anna. Nó đứng như một con nhện, chờ đợi chúng tôi tới đủ gần trong khi giả vờ bất động. Ngớ ngẩn thật. Chỉ là do trời lạnh và tối nên tôi thấy rờn rợn vậy thôi. Nhưng mà, tôi sẽ không phản đối nếu có người quyết định đến đây xách theo một can xăng và diêm.
“Này.” Tôi đưa Thomas và Carmel bùa hộ mạng mới. Thomas bỏ vào túi quần và Carmel cầm lấy cái của mình như cầm chuỗi hạt. Chúng tôi bật đèn bão và đèn pin lên ngay bên ngoài cánh cửa kẽo kẹt đung đưa như một ngón tay mời gọi. “Bám sát nhau nhé,” tôi thì thào và hai người kia đi sát vào tôi.
“Lần nào tớ cũng tự nhủ bọn mình đúng là điên mới làm chuyện này,” Carmel lầm bầm. “Lần nào tớ cũng nghĩ mình nên ngồi đợi trong xe.”
“Cậu còn lâu mới chịu đứng nhìn,” Thomas thì thào và tôi cảm thấy Carmel nở nụ cười.
“Lôi nhau vào phòng luôn đi,” tôi làu bàu và với tay mở cửa.
Thomas có thói quen khó ưa là cứ liên tục lia đèn khắp nơi như thể mong sẽ bắt được một linh hồn đang trên đường đi săn. Nhưng những linh hồn thường rất nhát. Không nhát thì cũng thận trọng. Cả đời tôi chưa bao giờ mở cửa mà thấy ma ngay. Tuy vậy, mỗi lần tôi bước vào bên trong là ngay lập tức cảm thấy bị quan sát. Lần này cũng không ngoại lệ.
Đó là một cảm giác lạ lùng - cái nhận thức rất rõ có thứ rình rập đằng sau bạn. Khi bị người chết theo dõi, cảm giác đó lại càng kỳ quái hơn, vì bạn không thể xác định được nó đến từ bên cạnh hay phía sau. Nó chỉ ở đó thôi. Khó chịu nhưng không làm gì được. Giống như thói lia đèn pin của Thomas vậy.
Tôi đi vào chính giữa chuồng và đặt cây đèn bão xuống đất. Không khí nặng mùi bụi bặm và cỏ khô lâu ngày vung vãi khắp mặt sàn bẩn thỉu. Khi tôi từ từ quay người, luồng sáng từ ngọn đèn pin ổn định và cảnh giác, sàn nhà thì thầm và kêu kẽo kẹt dưới chân. Carmel và Thomas vẫn đứng sát bên tôi, để ý từng chút một. Tôi biết, vì là phù thủy, Thomas ít nhất cũng nhận ra chúng tôi đang bị theo dõi. Cậu ấy lia đèn pin lên bức tường, cố tìm chỗ có thể lẩn trốn. Thomas đang làm chúng tôi lộ tẩy, vì không dùng ánh đèn làm mồi nhử và chú ý tới những nơi tối tăm. Những âm thanh sột soạt từ quần áo phát ra rõ mồn một, tóc của Carmel sượt qua sượt lại trên vai khi cô ấy ngó nghiêng xung quanh nghe như tiếng thác đổ.
Tôi đưa hai tay ra trước và lùi lại, để ánh sáng từ chiếc đèn bão chiếu qua khe hở giữa chúng tôi. Mắt đã quen với bóng tối nên tôi cùng Carmel tắt đèn pin đi. Chuồng gia súc trống trơn, ngoại trừ thứ gì đó trông giống như khung một chiếc máy cày cũ ở góc phía nam và ánh sáng từ chiếc đèn bão phủ lên không gian một màu vàng sệt.
“Chỗ này á?” Carmel hỏi.
“Ừm, ở lại qua đêm cũng tạm được,” tôi nói. “Sáng mai, bọn mình sẽ cố đi chỗ nào khá khẩm hơn và gọi một chiếc xe tải kéo.”
Carmel gật đầu. Cô ấy hiểu. Vờ là du khách gặp nạn hiệu quả hơn mọi người vẫn tưởng. Đó là lý do tại sao gần như phim kinh dị nào cũng khai thác chi tiết đó.
“Trong này chẳng ấm hơn bên ngoài là bao nhỉ,” Thomas nhận xét. Cậu ấy rốt cuộc cũng đã tắt đèn pin. Có tiếng sột soạt bên trên làm cậu ấy nhảy dựng lên, cuống cuồng bật đèn pin và lia thẳng lên trần.
“Hình như là bồ câu,” tôi nói. “Tốt. Nếu bọn mình mắc kẹt ở đây quá lâu thì có thể phải ăn thịt chim nướng.”
“Nghe... kinh quá,” Carmel nói.
“Đó là thịt gà giá rẻ. Thử xem.” Có một cái thang mục lung lay dẫn lên cửa sập. Tôi đoán trên ấy chỉ là một vựa cỏ khô cùng một bầy bồ câu và chim sẻ đang ngủ. Nhưng tôi không cần phải bảo Thomas và Carmel cảnh giác. Họ ở ngay đằng sau. Khi Carmel dẫm phải chĩa của một cái xỉa rơm bị lấp một nửa trong cỏ, cô ấy nhăn mặt. Chúng tôi nhìn nhau và cô ấy lắc đầu. Nó chẳng thể nào là cái xỉa mà bà vợ người nông dân đã ngã vào được. Chúng tôi tự nhủ thế dù tôi nghĩ chẳng có lý do gì nó không phải.
Tôi trèo lên vựa cỏ trước. Ánh sáng từ chiếc đèn chiếu sáng một khoảng sàn đầy cỏ và mấy đống rơm gần bức tường phía nam. Khi lia đèn pin về phía cái mái nghiêng, tôi nhìn thấy khoảng 50 con bồ câu, nhưng chẳng con nào trông có vẻ hoảng loạn.
“Lên đi,” tôi nói. Thomas leo lên và hai chúng tôi giúp Carmel. “Coi chừng đấy, chỗ cỏ khô này đầy phân chim.”
“Hay quá,” cô ấy lẩm bẩm.
Khi đã lên hết, chúng tôi nhìn quanh, nhưng chẳng có gì mấy để nhìn. Chỉ là một khoảng không mở rộng lớn, đầy cỏ khô và phân chim. Có một hệ thống ròng rọc hẳn là từng dùng để chuyển cỏ khô được treo trên trần nhà và những dây thừng dày được thắt lại thành vòng trên xà nhà.
“Cậu biết tớ ghét thứ gì ở đèn pin không?” Thomas hỏi và tôi nhìn ánh đèn của cậu ấy quét lia lịa khắp phòng, chiếu sáng mặt những con chim, những đôi cánh khẽ rung động và không có gì ngoài những tấm ván phủ đầy mạng nhện. “Chúng luôn khiến tớ nghĩ về những thứ không thể nhìn thấy. Những thứ vẫn còn trong bóng tối.”
“Đúng vậy,” Carmel nói. “Đó là phân cảnh đáng sợ nhất trong các bộ phim kinh dị. Khi ánh đèn rốt cuộc cũng tìm được thứ cần tìm, ta nhận ra thà không thấy còn hơn.”
Cả hai đứa nó đáng ra nên ngậm miệng lại. Giờ không phải là lúc tự làm mình hoảng loạn. Tôi đi cách xa họ một chút, hy vọng dừng được cuộc nói chuyện và đồng thời kiểm tra mức độ chắc chắn của sàn nhà. Thomas đi chếch sang hướng khác một chút, về phía bức tường. Tôi lia đèn pin lên những đụn rơm, căng mắt nhìn vào những nơi thứ gì đó có thể ẩn nấp. Tôi không thấy thứ gì ngoài những đụn rơm trông thật gớm guốc với nâu và trắng xen lẫn. Đằng sau tôi, một âm thanh kẽo kẹt cất lên kéo dài và khi tôi ngoái đầu lại, một luồng gió táp thẳng vào mặt. Thomas tìm thấy một cánh cửa và mở nó lên.
Cảm giác bị theo dõi biến mất. Chúng tôi chỉ là ba đứa trẻ vào một chuồng ngựa bỏ hoang chơi và vờ bị mắc kẹt ở đấy chẳng vì lý do gì cả. Có thể ngay từ đầu, chúng tôi đã đến nhầm chỗ và cái cảm giác lúc đó chỉ là ngẫu nhiên.
“Tớ nghĩ viên đá Rune của cậu không ăn thua rồi,” tôi nói. Thomas so vai. Cậu ấy lơ đãng đưa tay vào túi, nơi viên đá vẫn còn nằm nguyên.
“Tớ có nói là nó chắc chắn đâu. Tớ không thường xuyên dùng đến cổ ngữ Rune. Và tớ cũng chưa từng tự mình khắc bao giờ.” Cậu ấy cúi xuống nhìn xuyên qua cánh cửa vào màn đêm đen kịt. Trời lạnh hơn và hơi thở của cậu ấy ngưng đọng trong không khí. “Có lẽ thế nào cũng chẳng quan trọng. Ý tớ là, nếu đây đúng là chỗ đó thật, thì có bao nhiêu người thực sự gặp nguy hiểm? Ai lại đến một nơi như thế này để làm gì? Biết đâu con ma đã phát chán nên chuyển đi và tiếp tục gây tai nạn ở chỗ khác.”
Những cái chết do tai nạn. Những lời đó râm ran trong tâm trí tôi.
Tôi đúng là ngốc mà.
Một sợi dây thừng rơi xuống từ xà nhà. Tôi quay người, hét lên cảnh báo Thomas nhưng không kịp. Tôi chỉ kịp thốt lên tên Thomas và lao về phía cậu ấy bởi vì sợi dây thừng đang rơi xuống. Con ma nắm ở đầu dây kia hiện ra chỉ nửa giây trước khi nó đẩy Thomas xuyên qua cửa, lao đầu xuống nền đất cứng lạnh từ độ cao hơn 10 mét.
Tôi lao bổ xuống. Cỏ khô đâm vào áo khoác tôi, ghì tôi chậm lại, nhưng tôi không nghĩ về bất kỳ điều gì ngoài hình ảnh Thomas đang rơi. Khi lao ra cửa, tôi tóm được chân Thomas. Các khớp tay tôi gồng hết sức để giữ Thomas trong khi cậu ấy đập mạnh vào chuồng gia súc. Ngay lập tức, Carmel cũng chạy lại và nhoài người ra cửa.
“Thomas!” cô ấy hét lên. “Cas, kéo cậu ấy lên!” Mỗi người cầm một chân Thomas, chúng tôi kéo cậu ấy vào trong, trước tiên là ngón chân, rồi đến đầu gối. Thomas rất kiên cường, không hề gào thét hay gì cả. Chúng tôi gần lôi được cậu ấy vào bên trong thì Carmel gào lên. Tôi không cần nhìn cũng biết là do con ma. Một cảm giác lạnh toát đè lên lưng tôi và đột nhiên trong không khí có mùi như tủ đông đựng thịt.
Tôi ngoái đầu lại và hắn ở sát mặt tôi: một thanh niên mặc quần yếm bạc màu và sơ mi vải ngắn tay. Hắn béo tròn, bụng phệ và hai cánh tay núc ních như hai cái xúc xích trắng bệch. Đầu hắn trông hơi sai sai.
Tôi rút dao ra. Nó lóe sáng lên từ túi sau, sẵn sàng đâm hắn thì chợt có tiếng em cười.
Em cười khanh khách. Tiếng cười tôi biết rất rõ dù chỉ được nghe mấy lần. Tiếng cười vọt ra khỏi khoang miệng há hốc của gã nhà quê béo nục. Tôi suýt đánh rơi con dao tế. Thế rồi tiếng cười đột ngột ngưng bặt và con ma vùng dậy, rống lên, nghe như tiếng nói bị phát ngược lại qua loa điện. Bên trên, khoảng 50 con bồ câu nhất loạt vùng dậy và lao bổ về phía chúng tôi.
Trong tiếng vỗ cánh phành phạch và mùi chim mốc meo, tôi hét lên bảo Carmel tiếp tục kéo, đừng để Thomas rơi, nhưng tôi biết cô ấy sẽ không buông tay, bất chấp những cái mỏ và móng vuốt cấu cào lên tóc. Ngay khi lôi được Thomas vào bên trong, tôi đẩy hai người kia về phía cái thang.
Tiếng bước chân của chúng tôi hòa vào tiếng đập cánh hoảng loạn của lũ chim. Tôi tự nhủ phải ngoái đầu lại để đảm bảo hắn không đẩy chúng tôi nữa.
“Mình đang đi đâu đây?” Carmel hét lên, mất phương hướng.
“Tới cửa,” Thomas và tôi gào lên. Đến lúc chân tôi chạm vào bậc cuối của cái thang, Carmel và Thomas đã chạy được một quãng xa. Có cảm giác con ma hiện ra ở bên phải, tôi ngoái đầu lại. Ở cự ly gần hơn, tôi nhận ra phía sau đầu hắn bị bẹp. Tôi còn nhìn thấy hắn đang cầm cái xỉa rơm.
Ngay trước khi hắn phóng cái xỉa đi, tôi gào lên cái gì đấy với Carmel. Chắc cô ấy hiểu được nên mới né sang trái ngay trước khi cái xỉa cắm phập vào tường. Rốt cuộc, Carmel gào lên và tiếng hét làm tôi tỉnh táo. Tôi thu tay và ném con dao tế thật mạnh. Nó bay qua không trung và cắm vào bụng gã nông dân. Ngay lập tức, hắn nhìn thẳng về phía tôi bằng cặp mắt hệt như hai hồ nước lạnh căm. Lần này, tôi chẳng cảm thấy gì. Tôi không tự hỏi con dao sẽ gửi hắn đi đâu. Tôi không băn khoăn liệu gã pháp sư có còn cảm thấy nó hay không. Khi hắn tan biến như một gợn sóng nhiệt, tôi chỉ thấy mừng vì hắn đã biến mất. Hắn đã suýt giết chết hai người bạn của tôi. Kệ hắn.
Con dao tế rơi xuống đất cạch một cái và tôi chạy tới nhặt nó lên trước khi nhào đến chỗ Carmel. Cô ấy vẫn đang gào thét.
“Carmel! Cậu bị thương à? Nó có đâm trúng cậu không?” Thomas hỏi. Cậu ấy kiểm tra cô bạn trong khi cô ấy liên tục lắc đầu vì hoảng loạn. Cái xỉa suýt chút nữa đã đâm trúng cô ấy. Nó đâm xuyên qua áo khoác và ghim cô ấy vào tường. Tôi với tay rút cái xỉa ra và cô ấy nhảy dựng lên, phủi phủi áo như thể nó bị bẩn. Carmel vừa sợ vừa bực và khi cô ấy hét lên, “Đồ khốn ngu ngốc!”, tôi không thể không có cảm giác là cô ấy nói mình.