CHƯƠNG 14
"Thomas? Cậu có nhà không?”
Tôi gõ cửa vài lần, nhưng khi đẩy vào thì mới biết hóa ra là không khóa. Thò đầu vào bên trong ngôi nhà, tôi không thấy bất kỳ thứ gì lạ thường. Với hai người đàn ông độc thân, Morfran và Thomas giữ nhà cửa khá sạch sẽ. Điều duy nhất mà mọi người có thể phàn nàn là họ luôn để cây cảnh chết héo. Tôi huýt sáo gọi con Stella, nhưng không bất ngờ khi nó không chạy đến mừng. Không thấy xe hơi của Morfran đâu và con chó thì luôn theo ông ấy ở cửa hàng. Tôi đóng cửa lại sau lưng và đi sâu hơn vào bên trong, qua nhà bếp. Có tiếng nhạc văng vẳng vọng ra từ cánh cửa phòng Thomas. Tôi gõ nhẹ và rồi vặn nắm cửa.
“Thomas?”
“Chào Cas.”
Cảnh tượng không như tôi mong đợi. Cậu ấy đã thức dậy, ăn mặc chỉnh tề và đang đi từ chiếc bàn bừa bộn đến chiếc giường còn bừa bộn hơn. Xung quanh đầy những cuốn sách để mở và những tờ giấy rải khắp nơi. Cậu ấy cũng mở laptop và để nó ở giữa 3 cái gạt tàn đầy ắp. Gớm quá. Có một điếu thuốc đang cháy giữa hai ngón tay cậu ấy và khói bay theo nó như một cái đuôi cong cong, uể oải.
“Tớ đã cố gọi cho cậu,” tôi nói, bước vào trong thêm một chút.
“Tớ tắt điện thoại,” cậu ấy nói và rít thuốc. Hai tay Thomas run run và cậu ấy không nhìn tôi, chỉ liên tục lật những trang sách. Đây là Thomas lúc say bét nhè, hút thuốc liên tục và đắm chìm trong nghiên cứu. Nhạc đến từ 2 cái loa nghe như Avenged Sevenfold. Lần cuối cậu ấy ăn là khi nào? Còn ngủ thì sao?
“Cậu nên bớt hút đi.” Tôi hất hàm về phía điếu thuốc và cậu ấy trông như thể đã quên mất trước khi dập nó vào một cái gạt tàn đã đầy ụ. Hành động ấy có vẻ khiến Thomas gai người và cậu ấy dừng lại gãi đầu như ai đó vừa tỉnh mộng.
“Chắc là tớ đã hút nhiều rồi,” cậu ấy nói và liếm môi. Khi cậu ấy nuốt nước miếng, khuôn mặt Thomas lộ vẻ chán ghét và cậu ấy đẩy cái gạt tàn ra xa. “Ọe. Có lẽ giờ là lúc tớ nên bỏ thuốc.”
“Chắc thế.”
“Cậu làm gì ở đây vậy?”
Tôi nhìn cậu ấy hoài nghi. “Để xem cậu ra sao,” tôi nói. “Cũng 4 ngày rồi còn gì. Tớ nghĩ ít nhất lúc đến đây thì sẽ thấy cậu nhuộm tóc đen và nghe Staind.”
Cậu ấy mỉm cười. “Mấy ngày đầu cũng bấp bênh lắm.”
“Cậu có muốn nói về nó không?”
Cậu trả lời ‘không’ của cậu ấy đột ngột đến nỗi tôi suýt lùi lại. Nhưng rồi cậu ấy so vai và lắc đầu.
“Xin lỗi vì đã lớn tiếng. Hôm nay, tớ cũng định gọi cậu. Thực lòng đấy. Tớ đang ngập đầu với đống sách vở, cố gắng tìm thấy cái gì đó hữu ích. Nhưng chưa thấy gì.”
Tôi suýt nói những lúc thế này thì cậu ấy không cần làm vậy nhưng Thomas lóng ngóng gãi đầu như thể xin tôi đừng nói. Cử chỉ đó muốn nói rằng thật tốt khi có việc khác để nghĩ. Có việc khác là cần thiết. Thế nên tôi lôi cái ảnh của Gideon hồi trẻ mặc áo chùng ra khỏi túi.
“Tớ nghĩ là mình có đầu mối rồi đây,” tôi nói. Thomas cầm lấy và nhìn lướt qua. “Là Gideon,” tôi nói, bởi vì có thể cậu ấy không nhận ra. Cậu ấy mới chỉ thấy 1, 2 tấm ảnh của Gideon lúc già.
“Những con dao,” Thomas nói. “Chúng giống y như của cậu.”
“Theo những gì tớ biết, một trong số chúng là của tớ. Tớ nghĩ họ chính là những người tạo ra con dao. Trực giác mách bảo thế.”
“Cậu nghĩ vậy? Sao cậu có được tấm ảnh này?”
“Ai đó đã gửi cho tớ bằng địa chỉ của Gideon.”
Thomas lại nhìn tấm ảnh lần nữa. Cậu ấy nhận ra thứ gì đó và nhướn mày.
“Gì thế?” tôi nói khi cậu ấy bắt đầu sục sạo khắp phòng ngủ, lục lọi mấy đống giấy và chồng sách.
“Tớ không biết là gì nữa,” cậu ấy đáp. “Chỉ là tớ cảm thấy hình như là mình nhìn thấy cái này ở đâu đó rồi.” Cậu ấy lật lật một chồng bản sao, mực đen dính đầy tay. “Đây rồi!” Cậu ấy rút ra một tập giấy được kẹp lại và lật các trang cho đến khi hai mắt sáng lên.
“Nhìn những cái áo chùng này đi,” cậu ấy nói và chỉ cho tôi. “Cái biểu tượng celtic ở đầu dây thắt lưng áo chùng và ở chỗ cổ áo nữa. Cũng giống như bức ảnh.”
Thứ tôi đang nhìn là một bản sao của bản sao, nhưng cậu ấy nói đúng. Những chiếc áo chùng đó y hệt nhau. Và tôi không tin ai cũng mua được chúng tại một hội chợ phục hưng. Đây là những chiếc áo đặt may. Chúng là đồng phục của một nhóm người cụ thể và được tuyển chọn tự xưng là Hội Biodag Dubh.
“Cậu lấy cái này ở đâu?” tôi hỏi.
“Một người bạn cũ của ông tớ có một thư viện huyền bí rất đỉnh. Ông ta sao hết mọi thứ mình có và fax cho tớ. Cái này được lấy từ một tờ thời báo Fortean19*.” Cậu ấy lấy mấy tờ giấy lại và bắt đầu đọc, phát âm tiếng Gaelic sai be bét. “Hội Biodag Dubh1. Hội Dao Găm Đen. Đây được cho là nhóm người kiểm soát một thứ gọi là ‘vũ khí bí mật’.” Cậu ấy dừng lại rồi liếc cái ba lô của tôi, nơi có con dao tế. “Không ai biết chính xác vũ khí đó là gì, nhưng có thể do Hội tự rèn lấy vào thời gian thành lập, khoảng từ 13 đến 8000 năm trước Công nguyên. Không ai biết chính xác sức mạnh của vũ khí này, tuy vậy có nhiều tài liệu cho rằng con dao găm đen được dùng để giết quái vật hồ Loch, tương tự như quái vật Nessie20* ngày nay.” Cậu ấy nhăn mặt và đảo mắt. “Không ai biết liệu con dao găm đen có phải chính là vũ bị bí mật không.” Cậu ấy lật những trang giấy còn lại, tìm thêm nhiều bài báo nữa, nhưng không có gì.
(19) The Fortean Times: một tờ tạp chí của Anh chuyên đăng tin về những hiện tượng kỳ bí.
(20) Tiếng Gael Scotland. 2 Quái vật hồ Loch Ness.
“Tớ chưa từng đọc bài báo nào mơ hồ như vậy cả.”
“Ừ, chán thật. Thường thì hay hơn nhiều. Chắc là bài của một cộng tác viên non tay.” Cậu ấy ném tập fax lên giường. “Nhưng cậu phải thừa nhận là nếu bỏ qua chi tiết quái vật hồ Loch Ness, thì sẽ thấy có gì đó. Nó có nhắc đến một loại vũ khí vô danh, có thể là một con dao găm bí mật và 2 tấm ảnh tương tự nhau. Đó là những manh mối cần được kết nối.”
Hội Dao Găm Đen. Đúng không nhỉ? Có phải họ chính là những người tạo ra con dao tế? Và tại sao cứ phải tự xưng là Hội gì đó mới được?
“Mà cậu quen biết Gideon Palmer đến đâu?” Thomas hỏi.
“Ông ấy là bạn của cha tớ. Ông ấy giống như là một người ông của tớ vậy,” tôi nói và nhún vai. Tôi không thích thái độ trong giọng nói của Thomas. Nghe rất đáng nghi. Và sau khi thấy bức ảnh, một mình tôi nghi ngờ là đủ rồi. “Đừng vội kết luận. Một bức ảnh đâu thể nói lên điều gì. Gideon đã dính líu đến những bí ẩn từ lúc nhỏ.”
“Nhưng đó là con dao tế của cậu, không phải sao?” Thomas hỏi, kiểm tra bức ảnh lần nữa để đảm bảo là mình không nhầm lẫn.
“Tớ không biết. Cũng khó nói lắm,” tôi nói dù sự thật không phải thế.
“Cậu không thực sự nghĩ vậy,” cậu ấy nói, rõ ràng lại đang đọc ý nghĩ của tôi. “Cậu đang cố thuyết phục bản thân tin thế.”
Chắc vậy. Việc Gideon dính dáng đến chuyện này là điều tôi thà không biết còn hơn. “Này,” tôi nói. “Không thành vấn đề. Bọn mình có thể trực tiếp hỏi thẳng ông ấy.” Thomas ngước nhìn lên. “Mẹ tớ sẽ đặt 2 vé đi London. Muốn đi không?”
“Đối mặt với một hội bí mật, cổ xưa mà rõ ràng muốn cậu biết là họ tồn tại?” Thomas giễu cợt. Cậu ấy liếc bao thuốc lá, nhưng lại chỉ đưa tay lên xoa mặt thật mạnh. Khi bỏ tay xuống, mắt cậu ấy trông rất mệt mỏi như thể chiếc mặt nạ bận rộn đang dần rơi xuống và cậu ấy không để tâm. “Tại sao không?” cậu ấy nói. “Tớ tin là bọn mình có thể đối phó với họ.”
“Mẹ không biết tại sao con không muốn mẹ cho ông ấy biết là con sẽ đến,” mẹ nói khi nhét thêm một đôi tất nữa vào vali cho tôi. Nó đã chật ních rồi mà mẹ cứ cho thêm vào. Tôi mất 10 phút để thuyết phục mẹ lấy ra mấy cái gói hương thảo vì cái mùi gắt nồng ấy sẽ đánh động lũ chó cảnh sát.
“Con muốn ông bất ngờ.” Đó là sự thật. Tôi muốn giành lợi thế trước Gideon, bởi vì kể từ khi trông thấy tấm ảnh, tôi có cảm giác như ông đang giành lợi thế trước tôi. Tôi tin tưởng giao phó cả mạng sống cho Gideon. Lâu nay tôi vẫn thế và cha tôi cũng vậy. Ông sẽ không bao giờ làm hại hay đẩy tôi vào nguy hiểm. Tôi biết thế. Hay là tôi quá ngốc nghếch?
“Bất ngờ,” mẹ lặp lại như những bà mẹ thường làm để được là người kết thúc câu chuyện. Mẹ đang lo lắng. Trên trán mẹ xuất hiện nếp nhăn và mấy ngày qua, các bữa ăn lúc nào cũng ê hề. Mẹ cho tôi ăn tất cả những món khoái khẩu, cứ như là lần cuối cùng tôi được ăn vậy. Mẹ vò đôi tất của tôi rồi thở dài trước khi đóng cái vali lại và kéo khóa.
Máy bay sẽ cất cánh trong 4 giờ nữa. Chúng tôi sẽ quá cảnh ở Toronto và sẽ đáp xuống sân bay Heathrow lúc 10 giờ đêm, giờ London. Thomas đã gửi tin nhắn suốt 1 tiếng rưỡi để hỏi phải mang theo những gì. Làm sao mà tôi biết được? Tôi chưa từng tới London hay gặp Gideon, kể từ khi lên 4. Toàn bộ những trải nghiệm đó là một ký ức mờ nhạt, vá víu. Tất cả những gì tôi có thể nói với cậu ấy là thời tiết ở đó ôn hòa và ấm áp.
“À,” mẹ đột ngột nói. “Suýt nữa thì quên.” Mẹ mở khóa vali và nhìn tôi, tay đưa ra đầy chờ đợi.
“Sao ạ?”
Mẹ mỉm cười. “Theseus Cassio, con không thể bay với cái đó trong túi được.”
“Đúng rồi,” tôi nói và lấy con dao tế ra. Có vẻ như đấy là một sai lầm ngu ngốc mà tâm trí tôi cố tình phạm phải. Nghĩ đến việc cho con dao vào hành lý được kiểm tra và có nguy cơ mất nó khiến tôi khá nôn nao. “Mẹ chắc là mẹ không thể dùng ma thuật với nó chứ?” tôi hỏi, nửa đùa nửa thật. “Làm nó vô hình với máy dò kim loại?”
“Đừng có mơ,” mẹ đáp. Tôi đưa con dao cho mẹ và nghiến răng nhìn mẹ nhét nó vào sâu bên trong rồi phủ quần áo lên.
“Gideon sẽ bảo vệ con,” mẹ thì thầm và lặp lại. “Gideon sẽ bảo vệ con,” như một cậu thần chú. Sự do sự xuất hiện trên gương mặt mẹ như những con côn trùng chậm chạp nhưng tay mẹ vẫn buông thõng. Tôi chợt nhận ra mình đã trói buộc mẹ vào chuyện này chắc như dùng dây thừng vì sự cứng đầu của tôi và vì tôi không chịu từ bỏ Anna.
“Mẹ,” tôi nói rồi im bặt.
“Sao con?”
Con sẽ quay về, là điều tôi định nói. Nhưng đây không phải là một trò chơi và đó không phải là điều tôi nên hứa.