← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

Thomas không sao khi bay tới Toronto nhưng khi bay tới London, suốt 1 tiếng rưỡi đầu, cậu ấy cứ nắm chặt túi nôn. Cậu ấy không nôn ra, nhưng mặt mày xanh rớt. Nhưng sau khi uống 2 cốc nước gừng, cậu ấy đã ổn định lại và thấy thoải mái đủ để đọc một cuốn sách của Joe Hill21* mình mang theo.

(21) Nhà văn người Mỹ.

“Mấy con chữ chẳng chịu đứng yên,” cậu ấy lẩm bẩm và gấp sách lại. Thomas nhìn ra của sổ (tôi nhường cậu ấy ngồi đó), quan sát màn đêm lạnh lẽo.

“Bọn mình nên cố ngủ chút đi,” tôi nói, “để không phải lờ đờ khi hạ cánh.”

“Nhưng đến nơi sẽ là 10 giờ đêm. Chẳng phải bọn mình nên thức để đến nơi rồi ngủ sao?”

“Không. Ai mà biết được bao lâu nữa mới được ngủ chứ. Nghỉ ngơi khi có thể đi.”

“Đó là vấn đề,” cậu ấy càu nhàu và đấm vào cái gối không mấy êm ái được phát cho. Tội nghiệp. Chắc cậu ấy đang nghĩ cả triệu thứ trong đầu mà cái nhẹ nhàng nhất là nỗi sợ đi máy bay. Tôi chưa dám hỏi cậu ấy đã nói chuyện với Carmel chưa và cậu ấy cũng không đả động đến chuyện đó. Cậu ấy cũng không hỏi nhiều về việc bọn tôi sẽ làm gì khi đến London - chẳng giống Thomas chút nào. Có lẽ chuyến đi này là lối thoát đúng lúc với cậu ấy. Nhưng Thomas nhận thức đầy đủ về mối nguy hiểm có thể xảy đến. Cái bắt tay lưu luyến của cậu ấy với Morfran tại sân bay đã nói lên điều đó.

Cậu ấy cuộn tròn hết sức có thể trong chiếc ghế chật chội. Thomas rất lịch sự khi không ngả lưng ghế ra sau. Khi thức dậy, cổ cậu ấy sẽ y hệt như một chiếc bánh quy xoắn bị dẫm đạp cho mà xem, đương nhiên là nếu như cậu ấy ngủ được. Tôi nhắm mắt và cố hết sức thả lỏng. Gần như là không thể. Tôi không thể thôi nghĩ về con dao tế, vùi bên trong vali trong khoang hành lý. Tôi không thể thôi nghĩ về Anna và giọng nói của em bảo tôi đưa em ra khỏi nơi đó. Chúng tôi đi với tốc độ 500 dặm/giờ, nhưng thế vẫn còn quá chậm.

Lúc máy bay đáp xuống Heathrow, trông tôi giống như một thây ma thứ thiệt. Giấc ngủ chập chờn, được khoảng nửa tiếng rồi lại 15 phút và di chứng là cái cổ vẹo đau điếng. Thomas chẳng khá hơn là mấy. Mắt hai đứa đỏ ngầu và hơi ngứa. Không khí trên máy bay hanh đến mức chúng tôi như bị phơi khô rồi tan ra thành 2 đống cát Thomas và Cas. Mọi thứ đều có vẻ không tưởng, những màu sắc quá sáng và sàn không chắc chắn dưới chân. Lúc 10:20 tối, ga đón khách thật yên tĩnh nhưng ít nhất như thế cũng khiến mọi thứ dễ dàng hơn. Chúng tôi không phải bơi qua cả một biển người..

Dù vậy, não đứa nào cũng trì trệ và sau khi lấy hành lý (một nhiệm vụ thật mệt mỏi - đứng đợi quanh cái băng chuyền, trong đầu không ngớt hoang tưởng sợ con dao tế không qua được khi chuyển giao ở Toronto, có người đã lấy nó trước tôi), chúng tôi tần ngần không biết tiếp theo sẽ đi đâu.

“Tớ tưởng cậu từng đến đây rồi,” Thomas nói giọng bực bội.

“Ừ, khi lên 4,” tôi đáp, cũng bực bội không kém.

“Mình nên đón taxi. Cậu có địa chỉ của ông ấy phải không?”

Tôi nhìn quanh ga đón khách và đọc các biển chỉ dẫn trên đầu. Tôi định mua thẻ du lịch22* và đi tàu điện ngầm. Giờ như thế xem ra phức tạp quá. Nhưng tôi không muốn bắt đầu chuyến đi này với sự thỏa hiệp, nên kéo vali đi xuyên qua ga đón khách, theo những mũi lên chỉ dẫn về phía tàu.

(22) Travel card: thẻ trả trước khi dùng phương tiện công cộng ở London.

“Không quá khó, đúng không?” nửa tiếng sau, tôi hỏi Thomas, khi hai đứa kiệt sức ngồi trên ghế tàu điện ngầm. Cậu ấy nhướn mày và tôi mỉm cười. Sau một lần đổi chuyến khá luống cuống nữa, chúng tôi xuống tại ga Highbury và Islington rồi lê bước lên trên mặt đất.

“Có gì quen thuộc không?” Thomas hỏi khi liếc nhìn con phố, những ánh đèn chiếu sáng vỉa hè và mặt tiền của các cửa hiệu. Trông hơi quen quen, nhưng tôi nghĩ có khi cả thành phố London đều sẽ trông hơi quen quen. Tôi hít một hơi. Không khí trong lành và mát mẻ. Hơi thứ hai thì mang theo mùi rác. Cái này hình như cũng quen thuộc, nhưng có thể chỉ bởi các thành phố lớn thì chẳng khác nhau mấy.

“Thư giãn đi,” tôi nói. “Bọn mình sẽ đến nơi.” Tôi lật vali lên và mở khóa. Ngay lúc con dao tế được cho vào túi sau, máu tôi chảy dễ dàng hơn. Như là một nguồn năng lượng mới, nhưng tốt hơn hết là tôi không nên lề mề nữa. Thomas trông mệt đến nỗi muốn giết tôi rồi lột da làm võng. May thay, tôi tra Google Map ra địa chỉ của Gideon và nhà ông cách đây khoảng 1,5 km.

“Đi nào,” tôi nói và nó rên lên. Chúng tôi rảo bước, hai chiếc vali xóc nảy trên vỉa hè gập ghềnh, đi ngang qua những quán ăn của người Ấn với các tấm biển hiệu neon và quán rượu với những cánh cửa gỗ. Đi hết bốn dãy nhà, tôi rẽ phải theo suy đoán. Những con đường không tên hoặc có nhưng tôi không thể nhận ra vì trời quá tối. Trên những con phố nhỏ, đèn không sáng bằng và khu vực chúng tôi đang đi trông chẳng giống gì chỗ ở của Gideon. Một bên là những hàng rào lưới và bên kia là một bức tường gạch. Lon bia và rác rưởi vung vãi khắp rãnh nước và mọi thứ trông ẩm thấp. Nhưng có thể mọi thứ vẫn thế từ trước đến giờ và khi ấy tôi còn quá bé nên không nhớ nổi. Hoặc từ đó đến nay, nơi đây đã thành ra như vậy.

“Được rồi, dừng lại đi,” Thomas thở hổn hển. Cậu ấy dừng lại và dựa người vào vali.

“Gì thế?”

“Cậu đi lạc rồi.”

“Không phải.”

“Đừng có lừa tớ.” Cậu ấy gõ ngón tay trỏ lên thái dương. “Cậu nãy giờ cứ đi lòng vòng.”

Bản mặt câng câng của cậu ấy làm tôi phát cáu và tôi nghĩ trong đầu, Cái trò đọc ý nghĩ thổ tả của cậu đúng là làm người ta phát rồ. Thomas cười toe toét.

“Dù nó có thế nào thì cậu cũng vẫn đi lạc.”

“Tớ chỉ quay ngược lại thôi,” tôi nói. Nhưng cậu ấy nói đúng. Chúng tôi phải tìm điện thoại hoặc vào một quán rượu để hỏi đường. Quán rượu cuối cùng chúng tôi đi ngang qua thật mời gọi: cửa mở và ánh sáng vàng hắt ra phủ lên mặt chúng tôi. Bên trong, người ta cười nói rộn ràng. Tôi liếc nhìn ra sau con đường vừa đi và thấy một bóng đen di động.

“Gì thế?” Thomas hỏi.

“Không có gì,” tôi đáp và chớp mắt. “Chắc tại mắt mỏi quá.” Nhưng hai chân tôi nhất định không đưa tôi quay lại hướng đó. “Cứ đi đi.”

“Thôi được,” Thomas nói và ngoái đầu lại.

Chúng tôi tiếp tục đi trong im lặng và tai tôi tập trung nghe thử có âm thanh nào khác ngoài tiếng bánh xe vali lọc cọc trên vỉa hè không. Chẳng có gì cả. Là do kiệt sức nên mắt và đầu óc tôi mới nhầm lẫn như vậy. Chỉ là tôi không tin. Âm thanh tiếng bước chân tôi hình như nặng hơn và lớn hơn mức bình thường, như thể có gì đó giấu mình trong tiếng ồn. Thomas đã tăng tốc để đi song song với tôi chứ không để bị rớt lại. Cậu ấy cũng trở nên cảnh giác, nhưng có thể là do ảnh hường từ tôi. Giờ thì chẳng nơi nào tệ hơn con đường hoang vắng, tối thui, đan xen những con ngõ giữa các tòa nhà và những khoảng tối giữa những chiếc xe đang đỗ. Tôi ước giá như chúng tôi vẫn tiếp tục nói chuyện để phá vỡ sự im lặng ma quái mà đang khiến mọi tiếng động trở nên rõ mồn một. Sự im lặng đang làm chúng tôi rối trí. Chẳng có gì đi theo sau. Không có gì cả.

Thomas đi nhanh hơn. Cậu ấy đang bắt đầu hoảng loạn và nếu phải chọn giữa 2 phương án đánh hay chạy thì tôi biết cậu ấy sẽ chọn cái nào. Nhưng chạy đi đâu bây giờ? Chúng tôi không biết mình đang đi đâu và được bao xa. Và những chuyện này thì bao nhiêu phần trăm là do thiếu ngủ và tưởng tượng thái quá?

Cách chừng 3 mét trước mặt, vỉa hè biến mất vào khoảng tối hun hút. Chúng tôi sẽ đi trong bóng tối khoảng gần 20 mét. Tôi dừng lại và ngoái nhìn đằng sau, mắt quét một lượt những khoảng không bên dưới những chiếc xe đang đỗ xem có gì chuyển động không. Không hề.

“Cậu không sai,” Thomas thì thào. “Có gì đó bám theo bọn mình. Tớ nghĩ nó đã theo đuôi bọn mình từ lúc rời nhà ga.”

“Có thể chỉ là một tên móc túi thôi,” tôi lẩm bẩm. Toàn thân căng như dây đàn trước tếng động trong bóng tối. Thomas cũng nghe thấy và áp vào người tôi. Bằng cách nào đó, nó đã vượt qua chúng tôi. Hoặc có thể còn nhiều hơn một. Tôi rút con dao tế ra khỏi túi sau, tuốt nó ra khỏi vỏ và để ánh đèn đường phản chiếu lên lưỡi dao. Khá là ngớ ngẩn, nhưng có lẽ làm vậy sẽ khiến chúng sợ. Trong tình trạng sức cùng lực kiệt thế này, đấu với một con mèo hoang chưa chắc đã nổi, nói chi đến thứ gì khác.

“Mình làm gì bây giờ?” Thomas hỏi. Tại sao lại hỏi tôi? Tôi chỉ biết là chúng tôi không thể đứng dưới ánh đèn đường cho đến khi mặt trời mọc được. Không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiến lên phía trước, vào bóng tối.

Khi bị xô ngã quỳ xuống một bên gối, thoạt tiên, tôi nghĩ là do Thomas cho đến khi cậu ấy gào lên, “Cẩn thận!” nhưng muộn mất 3 giây. Những khớp tay trượt trên nền bê tông và tôi đẩy người đứng lên. Tôi chớp chớp đôi mắt mệt mỏi trong bóng tối khi đút con dao tế trở vào túi. Thứ tấn công tôi là gì đi nữa thì cũng không phải là đã chết và con dao không thể dùng với vật sống. Một vật thể hình tròn bay về phía tôi. Tôi cúi đầu né và nó va vào tòa nhà đằng sau kêu lóc cóc.

“Gì vậy?” Thomas hỏi và rồi bị đánh ngã ngửa, hoặc tôi nghĩ thế. Con đường quá tối và các ngõ ngách thì ở quá gần. Thomas bị đánh ngã ra dưới ánh đèn, bị đập vào một chiếc xe đang đỗ và bật ngược lại vào bức tường gạch như trong trò bắn bóng. Khi mắt đã nhìn rõ hơn, tôi trông thấy một bóng người giơ chân đá vào ngực tôi. Tôi ngã xuống vỉa hè. Người đó lại tấn công và tôi giơ tay lên đỡ, nhưng tất cả những gì tôi làm được chỉ là một cú đẩy. Cách người đó di chuyển chẳng biết đâu mà lần - nhanh và bất ngờ - khiến tôi mất phương hướng.

Bình tĩnh. Chỉ là do kiệt sức thôi. Hãy tập trung và lấy lại sức. Khi người đó tấn công lần nữa, tôi cúi người né và đỡ đòn rồi giáng một cú vào đầu khiến hắn lảo đảo.

“Chạy thôi,” tôi hét lên và suýt nữa bị hắn gạt ngã. Lúc đầu, tôi tưởng hắn sẽ phát hoảng và chạy trốn. Nhưng hắn lại đứng thẳng người và cao hơn khoảng 30 phân. Những lời nói dội vào tai tôi bằng thứ ngôn ngữ mà tôi nghĩ là tiếng Gaelic và không khí xung quanh trở nên ngột ngạt.

Đó là một lời nguyền rủa. Để làm gì, tôi không biết, nhưng áp suất ép lên tai tôi còn tệ hơn trên máy bay cả chục lần.

“Thomas, kẻ đó đang làm gì vậy?” tôi hét lên. Sai lầm. Tôi lẽ ra không nên xả khí ra ngoài. Hai buồng phổi của tôi quá đầy nên không thể chứa thêm được nữa. Câu thần chú vượt lên mọi thứ. Mắt tôi bỏng rát. Tôi không thở nổi. Tôi không thở ra hay hít vào được. Mọi thứ đông cứng. Vỉa hè ép vào hai đầu gối tôi. Tôi bị ngã.

Tâm trí tôi gào thét gọi Thomas hỗ trợ và tôi nghe tiếng cậu ấy đọc thần chú đáp trả. Bùa chú của đối phương thì có vần điệu và phát ra từ cổ họng, còn của Thomas thì trầm, tròn trịa và ngân nga. Giọng cậu ấy lớn dần lên và từ từ lấn át đối thủ cho đến khi giọng người kia nhỏ dần và rời rạc. Hai buồng phổi của tôi dịu lại. Một luồng khí đột ngột dồn xuống cổ họng và máu chạy lên não khiến tôi run bắn lên.

Thomas vẫn chưa dừng, dù kẻ tấn công chúng tôi đã co gập người lại. Người đó yếu ớt vẫy tay và tiếng thở của hắn gấp gáp.

“Dừng lại.”

Tôi chìa tay ra và Thomas dừng đọc. Người cất tiếng không phải là tôi.

“Dừng lại, dừng lại!” Người kia kêu lên và vẩy vẩy tay ra hiệu chúng tôi tránh ra. “Mấy người thắng rồi đó, được chưa? Mấy người đã thắng.”

“Thắng thứ gì?” tôi nạt. “Còn ngươi đang cố làm gì?”

Người kia từ từ lùi lại trên vỉa hè. Giữa những tiếng thở hổn hển nghe như xen cả tiếng cười. Người đó lùi vào khoảng sáng hắt ra từ ngọn đèn đường, ôm lấy ngực và bỏ mũ áo gió xuống.

“Là con gái,” Thomas thốt lên, và tôi huých khuỷu tay vào cậu ấy. Nhưng Thomas nói đúng. Một đứa con gái đang đứng nhìn chúng tôi, đầu đội mũ kẻ ca rô, trông cũng lương thiện. Cô ta thậm chí còn đang cười.

“Nhầm phố rồi,” cô ta nói. Giọng cô ta giống Gideon nhưng thanh hơn và khó nghe hơn. “Nếu các cậu đang tìm Gideon Palmer thì tốt nhất là đi theo tôi.”