CHƯƠNG 22
"Đây là khu rừng già,” Jestine nói, sau khi phong cảnh dần dần thay đổi từ đồng cỏ và thông thành những cây trơ trụi lá cùng thân cây đổ bám đầy rong rêu.
“Đẹp quá,” Carmel reo lên và đúng thế thật. Bên trên là hàng cây cao lừng lững, dưới chân là tấm thảm dương xỉ và rêu xanh. Mọi thứ trong tầm mắt đều xanh mướt hoặc xam xám. Nơi có đất lộ ra, thì có màu đen như hắc ín. Ánh sáng lọt qua những kẽ lá, nhảy nhót và phản chiếu từng đường nét, tươi sáng rực rỡ. Chỉ có tiếng động do chúng tôi tạo ra, những người ngoài cùng những bước chân vụng về và tiếng ba lô nghe lạo xạo.
“Kìa,” Thomas nói. “Có một tấm biển.”
Tôi ngước lên. Một tấm biển bằng gỗ màu đen được đóng vào thân cây. Trên đó có viết một dòng chữ bằng sơn trắng:
“Thế giới có rất nhiều nơi tươi đẹp.”
“Hơi kỳ quái,” cậu ấy nói và chúng tôi nhún vai.
“Có vẻ khiêm tốn đấy. Như thể họ biết khu rừng này đẹp, nhưng không phải là đẹp nhất,” Carmel bình phẩm. Jestine mỉm cười, nhưng khi chúng tôi đi ngang qua tấm biển, đầu óc tôi chợt nảy lên suy nghĩ. Những hình ảnh bắt đầu vụt qua trong trí nhớ, rời rạc, những hình ảnh tưởng tượng về những thứ tôi chưa từng thực sự nhìn thấy, tựa như những bức tranh trong một cuốn sách.
“Mình biết nơi này,” tôi nói khẽ, ngay lúc Thomas kêu lên.
“Một cái nữa kìa.”
Lần này thì biển hiệu đề:
“Hãy nghĩ về tình yêu gia đình bạn.”
“Cái này có hơi ngẫu nhiên,” Carmel nói.
“Không ngẫu nhiên chút nào, nếu cậu biết bọn mình đang ở đâu,” tôi nói và cả bọn nhìn tôi căng thẳng. Tôi không biết Gideon nghĩ gì khi gửi chúng tôi đến đây. Ngay khi gặp ông ở Hội, chắc tôi sẽ bẻ cổ ông mất. Tôi hít sâu và lắng nghe. Chẳng thấy gì. Không có tiếng chim hót, không có tiếng nhốn nháo của lũ sóc chuột. Không có cả tiếng gió. Làn gió nhẹ bị che khuất bởi tầng cây dày cộp. Bên dưới tầng không khí trong trẻo, mũi tôi gần như không nhận ra nó, hòa trộn với đất mùn và thảm thực vật bị phân hủy. Nơi này đầy mùi chết chóc. Đó là nơi tôi chỉ được những tên hay bốc phét như Daisy Bristol kể, một nơi thường gắn với những câu chuyện quanh đống lửa trại.
Là rừng Tự Sát. Tôi đang đi qua khu rừng Tự Sát với hai phù thủy và một con dao cứ thấy người chết là lóe lên như một ngọn hải đăng.
“Rừng Tự Sát?” Thomas rít lên. “Cậu bảo ‘rừng Tự Sát’ là sao?” Câu này đương nhiên đã kéo theo hàng loạt câu hỏi hoảng hốt tương tự từ Carmel và cả vài câu từ Jestine.
“Ý tớ là trông nó giống vậy thôi,” tôi đáp và ảm đạm nhìn tấm biển vô dụng chẳng thể thay đổi suy nghĩ của người khác. “Đây là nơi người ta tới để chết. Hoặc, chính xác hơn, đây là nơi người ta đến để tự vẫn. Họ đến từ khắp các nơi. Để sốc thuốc, cứa cổ tay, hay treo cổ.”
“Kinh khủng quá,” Carmel nói. Cô ấy co rúm người lại và dịch gần hơn vào Thomas, lúc này cũng xích lại gần, mặt xanh lét như rêu. “Cậu chắc không?”
“Khá chắc.”
“Kinh thật. Và ở đây chỉ có những tấm biển ngớ ngẩn này thôi ư? Nên có những... đội tuần tra hoặc... trợ giúp, hay gì đấy chứ.”
“Tôi nghĩ là có đội tuần tra,” Jestine nói. “Chỉ có điều họ chủ yếu là đi lượm xác chứ không phải ngăn tự tử.”
“Cô bảo cô ‘nghĩ’ là sao?” tôi hỏi. “Đừng có nói với tôi là cô không hề biết chúng ta đang dấn thân vào việc gì nhé. Tôi ở nước khác còn biết, thì ở đây cô phải biết rõ.”
“Tất nhiên là tôi có nghe nói,” nó nói. “Từ tụi con gái ở trường hay gì đấy. Tôi chưa bao giờ nghĩ nó thực sự tồn tại. Giống như chuyện một cô trông trẻ nghe điện thoại nhưng cuộc gọi lại đến từ trong nhà. Giống như Ông Kẹ ấy.”
Thomas lắc đầu, nhưng chẳng có lý do gì để không tin cô ta. Rừng Tự Sát không phải là thứ mà cảnh sát muốn công bố, chỉ tổ có thêm người kéo đến đây tự vẫn.
“Tớ không muốn đi qua,” Carmel tuyên bố. “Chỉ là... thấy không ổn lắm. Chúng ta phải đi vòng thôi.”
“Không có đường vòng đâu,” Jestine nói. Nhưng đương nhiên là phải có. Rừng Tự Sát không thể tiếp giáp với hư vô. “Chúng ta phải đi thôi. Nếu không, chúng ta sẽ bị lạc. Cậu đã đúng khi nói rằng chỗ chết trong khu rừng này kéo dài hàng dặm. Tôi cũng không muốn gặp thêm một xác người trong rừng.”
Câu nói đánh trúng tim đen Thomas và Carmel. Họ nhìn xuống đất và cây cối xung quanh. Tôi sẽ là người đưa ra lá phiếu quyết định. Nếu tôi muốn cố tìm đường vòng, thì Jestine sẽ đi với chúng tôi. Có lẽ tôi nên làm vậy. Nhưng tôi sẽ không làm. Vì hồn ma ở nhà trọ không phải là thử thách mà Hội đã bày ra. Đây mới là thử thách đó. Và chúng tôi đã đến được tận đây rồi.
“Hãy đi sát vào nhau,” tôi nói và tia hy vọng trên mặt Carmel biến mất. “Cùng lắm là đụng phải vài ba xác chết thôi. Cứ đi thật vững.”
Chúng tôi thay đổi đội hình - tôi đằng trước, Jestine đằng sau, Thomas và Carmel chính giữa. Khi chúng tôi đi ngang qua tấm biển thứ hai, tôi không thể không có cảm giác như chúng tôi đang đi vào một cái lỗ đen. Nhưng có thể đó là cảm giác tôi nên quen đi là vừa.
10 phút căng thẳng trôi qua và cảnh tượng đầu tiên đập vào mắt chúng tôi. Carmel thở gấp, nhưng đó chỉ là một đống xương, một khung xương sườn và gần một cánh tay, bám đầy rong rêu.
“Không sao,” Thomas thì thào trong khi tôi để mắt tới đống xương để đảm bảo chúng không ráp lại.
“Có đấy,” Carmel thì thào đáp lại. “Thậm chí còn tệ hơn. Tớ không biết lý do nhưng đúng thế đấy.”
Cô ấy nói đúng. Nét đẹp của khu rừng đã bị tước mất. Không còn gì nữa ngoài buồn thảm và im lặng. Không thể nào có người lại muốn dành những giây phút cuối đời ở đây. Tôi tự hỏi phải chăng khu rừng dẫn dụ họ bằng những cơn gió nhẹ và ánh nắng giả dối, mang mặt nạ yên bình cùng một hệ thống rễ và cành cây giăng bẫy con người như lũ nhện.
“Chúng ta sắp ra khỏi đây rồi,” Jestine nói. “Giờ thì chỉ còn độ 1,5 cây số nữa thôi. Cứ đi thẳng về hướng đông bắc.”
“Cô ấy nói đúng,” tôi nói, bước tránh một thân cây đổ. “Nửa tiếng nữa là chúng ta ra khỏi đây.” Một xác chết nữa thình lình xuất hiện trong tầm mắt tôi, còn mới, vẫn mặc nguyên quần áo và thân thể lành lặn. Nó treo lủng lẳng trên một cái cây. Tôi chỉ nhìn thấy một bên cái xác và cố hướng mắt về phía trước trong khi để ý bất cứ chuyển động nào, như là cái cổ đã gãy đột ngột quay về phía chúng tôi. Không có gì. Chúng tôi đi qua và đó chỉ là một xác chết nữa thôi. Chỉ là một linh hồn lạc lối.
Chúng tôi tiếp tục đi, vừa cố giữ cho tiếng bước chân thật khẽ, vừa muốn chạy thục mạng. Có rất nhiều xác chết trong khu rừng, có khi chất thành đống, có khi nằm rải rác. Một cái xác mặc com-lê và đeo cà vạt nằm im lìm tựa vào một thân cây đổ, hàm há to và hốc mắt đen ngòm. Tôi muốn với ra sau nắm lấy tay Carmel. Chúng tôi nên tìm cách để neo lại với nhau.
“Nói cho tôi nghe lần nữa, tại sao cậu lại nhất định phải làm chuyện này cho được,” Jestine nói từ đằng sau. “Gideon đã kể cho tôi một ít và rồi Thomas kể cho tôi thêm ít nữa. Nhưng nói lại tôi nghe đi. Tại sao nhất định phải đương đầu với những khó khăn này, vì một cô gái đã chết?”
“Cô gái đã chết đó một lần cứu sống bọn tôi,” tôi đáp.
“Tôi nghe rồi. Nhưng chỉ cần thỉnh thoảng, cậu thắp lên một cây nến và cúi đầu tưởng nhớ thôi là được rồi. Việc gì phải vượt qua cả một đại dương và băng qua một khu rừng đầy xác chết chỉ để tìm cách đến thế giới bên kia kéo cô ấy ra khỏi đấy lần nữa. Cô ấy đã cố tình làm thế, đúng không?”
Tôi liếc nhìn xung quanh. Lúc này không thấy xác chết nào. “Không đúng như thế,” tôi nói. “Cô ấy đã làm điều phải làm. Và cô ấy lại tới nơi mình không thuộc về.”
“Dù ở đâu, thì đó cũng là do cô ấy quyết định,” Jestine nói. “Cậu biết điều đó, đúng không? Cậu biết cô ấy ở đâu. Đó không phải như hầu hết mọi người nghĩ như là thiên đường hay Địa ngục. Bên ngoài mọi thứ. Bên ngoài luật lệ, logic và luật pháp. Nó không có giá trị, tốt hay xấu. Đúng hay sai.”
Tôi đi nhanh hơn, dù đôi chân có cảm giác như hai sợi bún. “Sao cô biết?” tôi hỏi và Jestine bật cười rũ rượi.
“Tôi đâu có biết. Tôi chỉ được dạy và nghe kể thế thôi.”
Tôi ngoái lại nhìn Thomas và cậu ấy nhún vai.
“Mỗi niềm tin đều có giả thiết riêng,” cậu ấy nói. “Có thể tất cả đều đúng. Có thể không cái nào đúng. Dù thế nào, tớ cũng đâu có phải là triết gia.”
“Thế Morfran sẽ nói gì?”
“Ông sẽ nói bọn mình là một lũ ngốc khi quyết định đi qua rừng Tự Sát. Bọn mình vẫn đi đúng hướng đấy chứ?”
“Ừ,” tôi nói, nhưng ngay khi cậu ấy hỏi, tôi không còn chắc nữa. Ở đây, ánh sáng thật buồn cười và tôi không thể theo dấu mặt trời. Có cảm giác như chúng tôi đang đi theo một đường thẳng, nhưng một đường thẳng có thể vòng ngược lại nếu bạn đi đủ xa. Và chúng tôi đã đi khá lâu rồi.
“Vậy,” Jestine nói sau vài phút im lặng ngột ngạt. “Các cậu đều là bạn của cô gái đã chết đó à?”
“Đúng vậy,” Carmel nói ngắn gọn. Giống như cô ấy muốn Jestine ngậm miệng. Không phải vì cô ấy thấy tự ái, mà vì cô ấy muốn tập trung vào những cái cây và xác chết. Nhưng cho đến lúc này, chỗ nào cũng chỉ thấy xác chết đang thối rữa. Đáng lo ngại, nhưng không nguy hiểm.
“Và có thể là còn trên mức bạn bè?”
“Cô có vấn đề gì với chuyện này à, Jestine?” Carmel hỏi.
“Không,” Jestine đáp. “Không hẳn. Chỉ là tôi tự hỏi có ý nghĩa gì chứ. Kể cả nếu các cậu sống sót trở về rồi bằng cách nào đó cứu được cô ấy ra, thì cô ấy và Cas cũng đâu thể lập gia đình.”
“Mọi người có thể thôi nói và đi cho hết khu rừng chết chóc này không?” tôi gắt và giữ ánh mắt nhìn thẳng về phía trước. Nói chuyện này để làm gì, khi mà xác người treo đầy các nhánh cây hệt như đồ trang trí trên cây thông Giáng sinh? Tập trung vào thời khắc hiện tại quan trọng hơn nói chuyện tào lao.
Jestine không im miệng. Cô ta tiếp tục nói, chỉ là không phải với tôi. Cô ta nói với Thomas, rất khẽ, tán gẫu về Morfran và ma thuật. Chắc Jestine làm vậy để chứng minh tôi không có quyền ra lệnh cho cô ta. Nhưng tôi nghĩ cô ta làm vậy để che giấu cảm giác hồi hộp ngày càng lớn của mình. Vì chúng tôi đã đi thế này quá lâu và quá xa rồi, mà vẫn chưa thấy đích. Dù vậy, chân chúng tôi vẫn cứ tiến về phía trước và ai cũng nghĩ là không thể nào xa hơn được nữa. Có thể nếu chúng tôi nghĩ đủ nhiều, nó sẽ hóa thành sự thật.
Chúng tôi chắc phải đi được gần 1 cây số nữa thì Carmel mới nói, “Bọn mình không đi đúng đường rồi. Lẽ ra bây giờ phải đến nơi rồi chứ.”
Tôi ước cô ấy không nói gì cả. Trán tôi rịn mồ hôi vì căng thẳng. Trong ít nhất 5 phút vừa rồi, tôi đã nghĩ như thế. Chúng tôi đã đi quá xa. Hoặc Jestine đã sai về khoảng cách, hoặc rừng Tự Sát đã mở rộng ra. Nhịp đập nơi cổ cho tôi biết đó là khả năng thứ hai. Chúng tôi đã đi vào và khu không để chúng tôi đi. Nói gì thì nói, có lẽ không ai định tự sát ở đây cả. Họ chỉ làm vậy sau khi cánh rừng khiến họ phát điên.
“Dừng lại,” Carmel nói và túm lấy áo tôi. “Bọn mình đi lòng vòng rồi.”
“Vòng đâu mà vòng,” tôi nói. “Bọn mình chắc là toi rồi nhưng tớ biết là không phải thế. Tớ đã đi đường thẳng và lần cuối cùng kiểm tra, cả hai chân tớ có chiều dài bằng nhau.”
“Nhìn đi,” cô ấy nói. Cánh tay cô ấy đưa qua vai tôi, chỉ vào những cái cây. Bên trái chúng tôi, một xác người treo lủng lẳng bằng một sợi dây thừng nylon đen. Nó mặc một chiếc áo khoác bằng vải và áo thun màu nâu rách tả tơi. Một bên chân không thấy đâu.
“Bọn mình đã thấy các xác này. Đúng là cái đó. Tớ nhớ mà. Bọn mình đang đi vòng. Tớ không biết tại sao nhưng đúng thế.”
“Xong rồi,” tôi nói và quay người lại. Cô ấy nói đúng. Tôi cũng nhớ cái xác này. Nhưng tôi không biết chúng tôi đi vòng bằng cách nào.
“Không thể nào,” Thomas nói. “Nếu mà đi lòng vòng lâu đến thế thì bọn mình phải cảm thấy rồi chứ.”
“Tớ không đi như thế này nữa đâu,” Carmel lắc đầu. Ánh mắt dại đi, mặt tái mét. “Bọn mình phải thử cách khác. Một hướng khác.”
“Chỉ có một cách đến Hội thôi,” Jestine xen vào và Carmel cau mày.
“Thế thì có khi bọn mình không đang đi tới Hội!” Cô ấy hạ giọng. “Có lẽ ngay từ đầu bọn mình đã không nên đến.”
“Đừng hoảng lên,” là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để nói. Đó là điều quan trọng nhất. Tôi không hiểu bằng cách nào rừng cây này lại rộng ra. Tôi không hiểu sao mình lại lơ đãng đến mức đi vòng lại chỗ ban đầu. Nhưng tôi biết rằng nếu có bất kỳ ai trong chúng tôi hoảng loạn thì sẽ hỏng bét. Người nào bỏ chạy trước cũng sẽ làm người khác sợ hãi theo, giống như một phát súng và chúng tôi sẽ chạy hết. Chúng tôi sẽ bị lạc và có thể bị tách nhau thậm chí trước cả khi biết mình đang làm gì.
“Chết tiệt.”
“Gì thế?” tôi hỏi và nhìn Thomas. Hai mắt cậu ấy trố ra như hai quả trứng đằng sau cặp kính. Cậu ấy đang nhìn qua vai tôi.
Tôi xoay lại. Xác chết vẫn ở đó, treo lơ lửng, hàm dưới trễ và da chùng xuống. Hai mắt tôi quét xung quanh và không có gì chuyển động. Xác chết vẫn lơ lửng. Chỉ có điều - tôi chớp mắt - nó lớn hơn. Mà không phải là nó lớn hơn. Nó gần hơn.
“Nó chuyển động,” Carmel thì thào và chụp lấy tay áo tôi. “Lúc nãy, nó không hề ở chỗ đó. Nó ở chỗ kia,” cô ấy chỉ. “Xa hơn, tớ dám chắc.”
“Có thể không phải,” Jestine nói. “Có thể là do mắt cậu đánh lừa cậu.” Chắc chắn rồi. Đó là lời giải thích hợp lý và là một lời giải thích không khiến tôi tè ra quần rồi vừa chạy vừa hét. Chúng tôi ở trong rừng này đã quá lâu, thế thôi. Thực tại bắt đầu méo mó.
Đằng sau chúng tôi có thứ gì đó chuyển động sột soạt qua đám lá và làm gãy những cành cây nhỏ. Theo phản xạ, chúng tôi quay người lại. Đó là tiếng động đầu tiên của những cái cây kể từ khi chúng tôi đi vào rừng. Dù là gì thì nó cũng không đủ gần để nhìn thấy. Vài cây dương xỉ bám vào một thân cây tần bì trông như đang đung đưa, nhưng tôi không dám chắc đúng là thế hay là do đầu tôi tưởng tượng ra.
“Quay lại!”
Tiếng hét của Thomas khiến da đầu tôi căng lên khi tôi quay lại. Cái xác lại chuyển động. Nó tiến lại gần hơn ít nhất là ba cái cây và lần này, nó quay về phía chúng tôi. Đôi mắt thối rữa lờ mờ nhìn chúng tôi với vẻ như thích thú. Bên cạnh chúng tôi, những cái cây lại lào xào, nhưng tôi không quay lại nhìn. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Lần kế tiếp tôi quay lại, có thể đôi mắt trắng dã đó chỉ cách mặt tôi vài phân.
“Đứng sát vào nhau đi,” tôi nói, giữ giọng bình tĩnh hết sức có thể. Thời gian của chúng tôi có hạn. Âm thanh chuyển động tràn ngập và không dừng lại. Chắc là chúng đã lén đi theo và tôi không thích nghĩ đến việc chúng xoay đầu nhìn chằm chằm sau lưng mình.
“Mở mắt to ra,” tôi bảo khi cảm thấy vai họ sát vào vai mình. “Chúng ta sẽ đi nhanh nhất có thể, nhưng phải thận trọng. Đừng để bị vấp ngã đấy.” Ở đằng sau về phía bên trái, tôi cảm thấy Carmel cúi xuống và nghe tiếng cô ấy nhặt lên thứ gì đó - chắc là một cây gậy. “Tin tốt là chúng ta không hề đi lòng vòng. Nên chắc chốc nữa sẽ ra khỏi chỗ này thôi.”
“Tin tốt ghê cơ,” Carmel gắt lên mai mỉa và dù đang trong tình thế ngặt nghèo, tôi vẫn cố nặn ra một nụ cười. Cứ sợ là cô ấy lại cáu như vậy.
Chúng tôi bắt đầu di chuyển cùng nhau, ban đầu hơi do dự nhưng sau đó nhanh dần lên. Nhưng không đủ nhanh để trông như chúng tôi đang vội. Những xác chết này rất thích rượt đuổi chúng tôi.
“Có một cái xác nữa kìa,” Thomas nói, nhưng tôi vẫn nhìn vào xác gã mắt trắng đục. “Chết tiệt, một cái nữa.”
“Phía tôi có hai cái,” Jestine chêm vào. “Nhanh quá nên không nhìn rõ được. Chúng chỉ xuất hiện thoáng qua.”
Khi đi tiếp, tôi rốt cuộc cũng phải nhìn về phía trước và thôi để ý gã mắt trắng. Tôi hy vọng một trong ba người còn lại để mắt tới nó, nhưng khi tôi trông thấy ba cái xác nữa, hai cái treo trên cây trước mặt và một cái tựa vào một thân cây cách đó một chút, tôi biết chúng tôi không có đủ mắt.
“Cứ thế này không ăn thua đâu,” Jestine nói.
“Từ đây đến bìa rừng bao xa?” Carmel hỏi. “Ta có chạy được không?”
“Chúng sẽ xử hết bọn mình, từng người một. Tớ không muốn quay lưng về phía chúng,” Thomas nói.
Nhưng không thể không quay lưng. Vấn đề là bằng cách nào. Tôi cố rời khỏi nơi này chăng? Hay tất cả chúng tôi đi cùng nhau? Bộ ba xác chết trước mặt nhìn chòng chọc chúng tôi bằng hốc mắt đen ngòm. Khuôn mặt vô hồn của chúng giống như một lời thách thức. Tôi chưa bao giờ trông thấy xác chết nào trông háo hức đến vậy, như những chú chó đợi được tháo xích.
Carmel hét lên. Có một tiếng đánh mạnh và cái xác rơi bịch xuống đất bên cạnh chúng tôi. Vòng tròn bị vỡ khi cô ấy lùi lại. Cô ấy quất gậy vào cái xác lần nữa, đánh gãy xương sống nó. Mãi đến khi tôi trông thấy cái xác đằng sau Thomas và cảm thấy bàn tay xôm xốp của xác chết xiết quanh cổ mình, tôi mới nhận ra chúng tôi đã mắc sai lầm. Chúng tôi đã mất cảnh giác. Chúng tôi đã quay lưng lại.
Tôi giằng ra khỏi những ngón tay trông có vẻ muốn bóp nát khí quản của tôi và thúc cùi chỏ đẩy hồn ma ra. Con dao tế nằm trong tay tôi ngay lập tức, lưỡi dao cắm phập vào xác chết đằng sau và nghe như nó rã ra thành từng mảnh. Khi tôi chém bộ xương Carmel vừa đánh gục, nó hóa lỏng và ngấm vào đất.
Diệt được 2, còn 25. Nhìn vào những cái cây, xác chết ở khắp nơi. Chúng không chuyển động, cũng không chạy tới, chỉ nằm yên và mỗi lần chúng tôi quay đi, chúng lại tiền gần hơn. Carmel rên rỉ, gào thét không ngớt và vung gậy tứ tung vào mọi thứ tiến đến gần. Tôi có thể nghe Jestine và Thomas đọc thần chú bằng các ngôn ngữ khác nhau và tôi không biết họ đang làm gì. Con dao của tôi chém qua một hốc mắt đen ngòm và xác chết rã ra thành một đống trông như đất dạng hạt.
“Nhiều quá,” Carmel hét lên. Hạ hết chúng là một ý nghĩ viển vông.
“Chạy đi!” tôi hét lên, nhưng Jestine và Thomas không động đậy. Giọng Thomas gãy gọn trong tai tôi. Png ngữ nhắc tôi nhớ về Morfran, về gã pháp sư. Là tà thuật. Trước mặt cậu ấy chừng 3 mét, một cái xác đang phân hủy nằm vắt trên một cành cây dưới thấp. Ngay lập tức, nó chỉ còn là một đống giòi.
“Cừ đấy, Thomas,” tôi nói và khi Thomas ngoái đầu lại, một cái xác nữa nhanh như chớp xuất hiện ngay trước mặt cậu ấy. Nó nhe răng cắn phập vào cổ Thomas và cậu ấy rít lên.
Jestine gầm lên gì đó bằng tiếng Gaelic và vuốt tay ngang ngực. Xác chết buông Thomas ra và sụm xuống, co rúm lại.
“Chạy đi!” Jestine hét lên và lần này thì chúng tôi chạy thật, chân đạp lên lớp lá rụng và dương xỉ. Tôi cố duy trì vị trí dẫn đầu, chém vào bất kỳ thứ gì cản đường. Bên trái tôi, Carmel đang biến mình thành Công chúa chiến binh, dùng gậy bằng một tay rất giỏi. Tay kia cô ấy giữ Thomas. Máu đã chảy ướt hết phần trên áo của cậu ấy. Thomas cần giúp đỡ. Cậu ấy không thể tiếp tục chạy nữa. Nhưng trước mặt có ánh sáng và có lối đi giữa những hàng cây. Chúng tôi sắp ra khỏi đây rồi.
“Cas! Coi chừng!”
Tôi quay đầu lại khi nghe tiếng hét của Jestine, vừa đúng lúc trông thấy đôi mắt trắng đục chỉ cách mặt vài phân và tôi bị hắn đánh ngã.
Nặng bất ngờ. Như là bị xe lu cán lên vậy. Dù rất khỏe nhưng tay hắn lại mềm nhũn. Mũi tôi ở quá gần cổ hắn. Tôi nghe thấy hắn nghiến răng. Phần da gần chỗ sợi dây thừng sưng phồng lên và đen kịt như lốp xe bơm quá căng. Lúc lăn lộn trên mặt đất, con dao tế bị kẹt ở góc bất lợi. Tôi không thể đâm dao vào bụng hắn và phải cố gắng lắm mới không khiến chính mình bị đâm. Khi tôi đẩy đầu hắn ra bằng tay kia, hắn nghiêng đầu và cắn vào ngón tay tôi. Hàm răng phủ đầy rêu cắn chặt vào xương tôi và theo phản xạ, tôi thu tay lại thành nắm đấm. Những ngón tay tôi chạm vào một thứ gì đó mềm và sần. Là cái lưỡi đang thối rữa của hắn.
“Cứ chạy tiếp đi!” Jestine hét lên rồi đá vào xương sườn cái xác. Hắn không ngã ra nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi có thể sử dụng con dao. Khi hắn lại cúi xuống, con dao đâm xuyên qua ức hắn và hắn tan biến thành một đám mây có mùi kinh khủng nhất tôi từng gặp.
“Cậu ổn chứ?” Jestine hỏi. Tôi gật đầu khi cô ta kéo tôi đứng lên, nhưng nghĩ tới cảm giác đụng phải cái lưỡi xác chết và mùi đầm lầy thối rữa, tôi như muốn nôn tại chỗ. Chúng tôi lảo đảo chạy tiếp. Rừng cây mở ra một không gian ngập tràn ánh nắng và đồng cỏ xanh mướt. Carmel đang quỳ bên cạnh Thomas đã gục xuống. Ở phía bên kia, Gideon đang đứng với hai người nữa, trước một chiếc xe hơi dài màu đen.