← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 23

Cứ như vừa gặp ác mộng rồi ngã xuống giường. Chúng tôi thất thểu ra khỏi rừng Tự Sát, kiệt sức, máu me đầy người và sắp gục. Chúng tôi đang đứng trên một bãi cỏ cao tầm 10 phân, nheo mắt trước anh nắng ấm áp và nhìn vào những khuôn mặt bình tĩnh, hiền hòa mang vẻ kẻ cả.

Con dao tế vẫn nằm trong tay khi tôi quay đầu lại nhìn khu rừng, những tưởng sẽ trông thấy những khuôn mặt nhợt nhạt lấp ló giữa những thân cây, nhìn chòng chọc theo chúng tôi như đám tù nhân sau song sắt. Nhưng chỉ toàn là cây, lá cây và rong rêu. Ngay lúc chúng tôi rời khỏi lãnh địa này, chúng đã rút lui, về lại nơi mình treo lủng lẳng, hoặc nằm chất đống.

“Có vẻ như ông đúng, Palmer,” ai đó nói. “Cậu ta đã làm được.” Tôi nhìn về phía xe ô tô. Người đàn ông vừa nói hơi thấp hơn và trẻ hơn Gideon. Tôi không chắc trẻ hơn bao nhiêu. Tóc ông ta có màu vàng, xen lẫn những sợi đã ngả bạc nhưng không hiểu sao nhìn vào lại giống bạch kim. Ông ta mặc sơ mi đen cài khuy và quần đen. Ít nhất là ông ta không mặc áo chùng nâu, tay cầm một cái lư hương.

“Đừng lo,” ông ta nói và đi về phía chúng tôi. “Chúng sẽ không ra tới đồng cỏ được đâu.”

Chất giọng lãnh đạm khiến tôi khó chịu và Carmel tóm lấy tay tôi ngay khi tôi định bảo tên hề này đi chết cùng cái “đồng cỏ” của ông ta.

“Cậu ấy vẫn còn chảy máu,” cô ấy nói. Tôi nhìn xuống Thomas. Cậu ấy vẫn còn thở và máu rỉ ra giữa những ngón tay ép chặt của Carmel rất chậm, không phải là vỡ động mạch. Tôi nghĩ Thomas mệt đến vậy phần lớn là do đọc thần chú, hơn là từ vết cắn của hồn ma nhưng tôi không đời nào lại nói với Carmel. Cô ấy sắp bốc hỏa đến nơi rồi.

Bên cạnh chúng tôi, người đàn ông kia đặt tay lên vai Jestine và nhìn cô ta trìu mến. “Cháu làm tốt lắm,” ông ta nói và cô ta cúi đầu. “Không một vết xước.”

“Cậu ấy cần bác sĩ,” tôi rít lên và khi quý ngài Khốn Nạn không đáp, Jestine nhắc lại lần nữa.

“Cậu ấy vẫn còn chảy máu. Có bác sĩ Clements ở đây không ạ?”

“Có đấy,” ông ta nói, nhưng chẳng có vẻ gì là vội vàng. Khi ông ta mỉm cười, tôi liên tưởng tới một con rắn duỗi ra trước khi xơi tái con chuột. “Đừng lo. Căn cứ cách đây không xa. Người bạn phù thủy của cậu sẽ được chăm sóc. Và cả cậu nữa.” Ánh mắt ông ta nhìn xuống những ngón tay đang xòe ra của tôi và tôi thề là mình nhìn thấy khóe miệng ông ta giật giật.

“Tôi là Colin Burke.” Ông ta còn dám chìa tay về phía tôi. Carmel gạt phắt nó đi, để lại một vệt máu đỏ trong lòng bàn tay ông ta.

“Tôi chẳng cần biết tên ông là gì,” cô ấy rít lên. “Và tôi cũng cóc cần biết ông là ai. Nếu ông không tìm cách giúp cậu ấy, tôi thề sẽ đốt rụi cái căn cứ thổ tả của ông.” Carmel cố lên. Burke vẫn không có vẻ phiền lòng, nhưng Gideon rốt cuộc cũng lên tiếng và bảo cô ấy giao Thomas cho mình. Ông đỡ cậu ấy đứng lên và dìu ra xe, tránh ánh mắt tôi.

“Nhớ lót cái gì lên ghế đấy,” Burke nói và tôi suýt nữa thì nện cho ông ta một cú. Nhưng Thomas cần giúp đỡ, nên tôi ngậm miệng và bước ra xe.

Chuyến xe rất ngắn, dọc con đường nửa trải nhựa nửa không, xuyên qua những hàng cây phía bên kia đồng cỏ nhưng rõ ràng là gã tài xế không vội vã. Gã chẳng nói gì với ai và tôi sẽ cho rằng gã chỉ là một tài xế nếu như không vì cái cảm giác chẳng người nào ở đây đơn giản cả. Tôi liếc nhìn Jestine. Cô ta đã lôi ra một mảnh vải từ ba lô và đưa Carmel áp vào cổ Thomas. Trán cô ấy hằn âu lo.

Chúng tôi lên một ngọn đồi nhỏ và bắt đầu đi chậm lại. Bao bọc giữa thung lũng nhỏ và xanh mướt là một nơi chắc hẳn là căn cứ của Hội. Trông nó như một khu nghỉ dưỡng trượt tuyết biệt lập, kiêu kỳ với mấy tòa nhà gỗ đỏ, tấm năng lượng mặt trời và toàn bộ các bức tường làm bằng kính mờ. Chắc cũng đáng giá khoảng vài triệu đô, nhưng vẫn không nổi bật như một pháo đài hay tu viện bằng đá màu xám. Thomas chắc cảm thấy được thắc mắc của tôi, vì từ trong lòng Carmel, cậu ấy cố gượng dậy nhìn ra cửa sổ. Máu gần như đã ngừng chảy. Cậu ấy sẽ ổn, miễn là không bị nhiễm trùng gì từ hàm răng của xác chết.

“Hoan nghênh,” một tên nào đó nói và mở cửa xe khi nó đỗ trước tòa nhà chính. Y còn trẻ và ăn mặc chải chuốt, trong bộ vest đen, như thể rớt ra từ trang bìa của tạp chí thời trang GQ. Y và gã lái xe chắc là anh em sinh đôi. Trông hơi ghê ghê, giống như Fembot35* phiên bản nam vậy. Tôi cá là đầu bếp trông cũng giống thế này.

(35) Người máy được tạo hình giống nữ giới.

“Robert, mau gọi bác sĩ Clements,” Burke nói. “Bảo ông ấy là cần khâu vết thương.” Robert đi gọi bác sĩ và Burke quay sang tôi. “Những thành viên cấp thấp,” ông ta giải thích. “Họ tìm hiểu về Hội thông qua quan sát và ở đây làm phục vụ.”

“Có lý,” tôi đáp và nhún vai. Nghe hơi rờn rợn nhưng tôi nghĩ ông ta cũng biết thế.

Nhìn quanh, tôi có cảm tưởng như mình vừa bị tạt nước lạnh. Tôi không biết mình mong đợi điều gì, nhưng không như thế này. Tôi cứ tưởng... Tôi nghĩ tôi tưởng nơi này có nhiều người giống Gideon. Những ông già mặc áo len ấm áp, lải nhải với tôi như những người ông. Nhưng mà tôi lại gặp Burke và cảm giác ghét bỏ ngay lập tức từ cả đôi bên. Gideon thì vẫn không chịu nhìn tôi. Ông thấy hổ thẹn và ông nên thế. Chúng tôi sống sót trở ra nhưng đáng ra không cần phải thế.

“A, bác sĩ Clements.” Giờ mới đúng là thứ tôi mong đợi. Một người đàn ông râu quai nón, tóc hoa râm, mặc áo len màu rượu chát và quần kaki. Ông ấy đi thẳng tới chỗ Thomas và rút mảnh vải vấy máu ra, để lộ một vết cắn nham nhở hình lưỡi liềm. Ruột tôi nhộn nhạo khi hình ảnh của Will, Chase và hình ảnh tưởng tượng về cha tôi lóe lên trong đầu. Những vết cắn chết tiệt.

“Chỗ này cần được rửa sạch rồi khâu lại,” ông ấy nói. “Đắp thảo dược là sẽ nhanh lành và gần như không để lại sẹo.” Ông ấy đặt miếng vải trở lại chỗ vết thương và Thomas giữ nó. “Tôi là bác sĩ Marvin Clements,” ông ấy nói và bắt tay cậu ấy. Khi bắt tay tôi, ông ấy lật nó lại và nhìn. “Cậu cũng cần khâu đấy.”

“Không sao đâu ạ,” tôi nói.

“Ít nhất cũng phải rửa sạch,” ông ấy nói. “Không nhẹ đâu.” Ông ấy quay đi và nắm tay Thomas dắt cậu ấy vào bên trong. Tôi cũng đi vào và Carmel theo sau. Jestine ở lại với Burke. Tôi không ngạc nhiên.

Sau khi Thomas được khâu và tay tôi được bôi i-ốt, chúng tôi được dẫn tới một dãy phòng quanh khu vực sinh hoạt chung. Tôi nhanh chóng đi tắm và băng lại tay. Tôi không tin nơi này chút nào và để Thomas cùng Carmel một mình thậm chí chỉ 20 phút thôi cũng khiến tôi lo ngay ngáy.

Căn phòng họ xếp cho tôi khá rộng rãi, có một lò sưởi nhỏ và kê một cái giường lớn với những tấm chăn trông có vẻ đắt tiền. Nó khiến tôi liên tưởng đến ngôi nhà nhỏ bằng gỗ đi săn trong một bộ phim tôi từng xem. Thứ duy nhất còn thiếu là những cái đầu thú nhồi bông trên tường.

“Tớ nghĩ chỗ này nếu mà có đầu nhồi bông, thì chắc là đầu người,” Thomas châm biếm. Cậu ấy và Carmel tay trong tay bước vào.

“Ờ,” tôi cười. Cửa sổ được gắn bên trong tường và có trần nhà cong đón nắng. Khu này chắc có cả triệu cửa sổ, nhưng không mang lại cảm giác thông thoáng hoặc sáng sủa, mà là cảm giác bị theo dõi.

Gideon gõ gõ cánh cửa mở và Thomas quay ngoắt lại. Cậu ấy nhăn mặt và ấn tay vào chỗ mới băng.

“Xin lỗi, chàng trai,” Gideon nói và vỗ vai cậu ấy. “Thuốc đắp cây kỳ nham của bác sĩ Clements rất tốt. Sẽ hết đau trong vòng một giờ.” Ông hất đầu về phía Carmel, chờ một lời giới thiệu.

“Gideon, đây là Carmel. Carmel, đây là ông Gideon,” tôi nói.

“Vậy ra ông là Gideon,” cô ấy nói, nheo nheo mắt. “Chẳng lẽ đi ô tô rồi gặp mặt ở hồ Loch gì đấy khó lắm hay sao?” Cô ấy quay đi, vẻ chán ghét mà không cần nghe câu trả lời.

“Cháu không tin nổi ông lại bảo bọn cháu đến đó,” tôi nói và ông nhìn thẳng vào tôi không chớp mắt. Ông nghiêm nghị và có thể có chút hối hận. Nhưng không còn xấu hổ nữa, nếu quả thật là ông đã từng thế.

“Ông đã cảnh báo cháu rồi,” ông đáp. “Hãy quyết định, Theseus. Cháu hoặc là một đứa trẻ, hoặc là không.”

Ông già và mớ lý lẽ chết tiệt của ông.

“Ông không bao giờ muốn cháu đến đây. Ông muốn giữ lời hứa với cha mẹ cháu và giữ cho cháu được an toàn. Nhưng cháu là con trai của cha cháu. Cháu luôn lao đầu vào nguy hiểm. Rất cứng đầu.”

Giọng ông trìu mến, có phần âu yếm. Và ông đúng. Đây là quyết định của tôi. Từ trước đến nay vẫn vậy, ngay từ năm 14 tuổi lúc bắt đầu cầm con dao tế.

“Colin muốn gặp cháu,” ông nói và đặt tay lên vai Thomas có ý bảo tôi sẽ đi một mình. Chắc ông cũng sẽ đặt tay kia lên vai Carmel nếu không sợ bị cắn. Dù thế nào, ông cũng sẽ không để họ một mình. Nên tôi nghĩ là mình không cần lo lắng nữa, lúc này thôi.

Một người phụ nữ đưa tôi đi dọc theo những hành lanh và lên cầu thang đến nơi Burke đợi. Bà ta là người phụ nữ đầu tiên tôi trông thấy và tôi thấy khá nhẹ nhõm khi biết ở đây cũng có phụ nữ dù bà ta trông hơi đáng sợ. Bà ta quãng 50 với mái tóc vàng nhạt cắt ngắn kiểu cách. Khi chúng tôi gặp nhau bên ngoài phòng họ xếp cho tôi, bà ta mỉm cười và gật đầu kiểu lịch sự, quan cách của một người thuộc tầng lớp thượng lưu. Chúng tôi đi ngang qua những căn phòng với những cánh cửa đôi mở toang và phòng nào cũng đốt lò sưởi. Trong một căn phòng bên trái, có một nhóm người ngồi thành vòng tròn. Khi chúng tôi đi ngang qua, tất cả đều quay đầu nhìn. Tất cả ấy. Cùng nhau, cùng lúc.

“Họ đang làm gì vậy?” tôi hỏi.

“Cầu nguyện,” bà ta mỉm cười. Tôi muốn hỏi cầu nguyện tới cái gì, nhưng tôi sợ bà ta sẽ nói là con dao tế. Thật khó tin Jestine được nuôi dạy bởi những người này. Người nào cũng đáng sợ. Ngay cả bác sĩ Clements, khi rửa và băng bó tay cho tôi, ông ấy nhìn máu như thể nó là chén thánh. Ông có thể sẽ đốt băng gạc trong một lò đầy cây xô thơm hay gì đấy.

“Đến nơi rồi,” người hộ tống tôi nói. Bà ta chỉ đứng đó, bên cạnh cửa, dù tôi ra hiệu bảo bà ta có thể đi. Kỳ quặc.

Khi tôi vào phòng, Colin Burke đang đứng gần lò sưởi. Ông ta chụm đầu các ngón tay vào nhau trông vô cùng giả dối, ánh lửa màu cam chiếu lên hai gò má góc cạnh của ông ta. Ngay lập tức tôi nghĩ đến Faust36*.

(36) Nhân vật chính trong vở bi kịch cùng tên của Johann Wolfgang von Goethe.

“Cậu là Theseus Lowood,” ông ta nói và mỉm cười.

“Ông là Colin Burke,” tôi nói, rồi nhún vai. “Thực ra, tôi chưa từng nghe nói đến ông.”

“À,” ông ta đi xa khỏi lò sưởi và đứng bên cạnh một chiếc ghế cao bằng da. “Vài người giữ bí mật tốt hơn người khác.”

Ồ. Ra là thế.

Tôi đỡ cằm bằng ngón cái và ngón trỏ, trầm ngâm. “Tôi từng nghe cái tên này. Burke. Một tên sát nhân hàng loạt người Anh, phải không nhỉ?” Tôi lật lòng bàn tay lên. “Có bà con gì không?”

Đằng sau nụ cười hòa nhã, ông ta đang nghiến răng. Tốt. Nhưng trong đầu, tôi đang nghĩ mình không nên gây thù chuốc oán với người đàn ông này. Rằng tôi đến đây để nhờ ông ta giúp đỡ. Nhưng tôi cũng nghĩ mình có làm gì cũng không thể thù địch hơn thế này được nữa.

Burke xòe tay và mỉm cười. Đó là một cử chỉ vuốt giận khiến tôi hơi hoang mang. Ấm áp và gần như thành thật.

“Chúng tôi rất vui được tiếp đón cậu tại đây, Theseus Cassio Lowood,” ông ta nói. “Suốt thời gian qua, chúng tôi vẫn mong cậu quay lại.” Ông ta lại mỉm cười, thậm chí còn ấm áp hơn. “Chào mừng chiến binh trở về nhà.”

Xu nịnh giả tạo. Không đủ để khiến tôi quên ông ta là một kẻ khốn. Dù vậy cũng thừa nhận là ông ta là một kẻ khốn có sức hút.

“Vui?” tôi hỏi. “Vậy chắc ông biết tại sao tôi đến đây.”

Burke nhìn xuống, gần như hối tiếc và mắt ông ta lóe lên, màu xám như tóc. “Cậu đã đi một ngày vất vả. Ta có thể nói chuyện đó sau. Có lẽ trong bữa tối. Tôi đã thu xếp một bữa cơm chào mừng, cho những thành viên khác có cơ hội gặp cậu. Ai cũng tò mò đấy.”

“Nghe này,” tôi nói. “Ông... ông thật tốt bụng. Nhưng tôi không có thời gian...”

“Tôi biết tại sao cậu ở đây,” ông ta nói, giọng quyết đoán. “Hãy nghe lời tôi. Đến dùng bữa tối. Và để những người khác cố thuyết phục cậu không đi vào chỗ chết.”

Tôi những muốn phun ra mấy lời khó nghe nhưng kìm lại được.

“Được,” tôi mỉm cười. “Ông là chủ nhà mà.”

Trên đường đến phòng ăn cùng với Thomas, Carmel và Gideon, tôi để mắt đến các bức tường. Quả thực là có những cái đầu trên tường - nai sừng tấm, gấu và một loài dê nào đó. Chúng khiến tôi nghĩ về lời nói đùa của Gideon ở nhà ông, về những con mắt di chuyển trong những bức tranh quanh nhà tôi.

“Tại sao ta làm chuyện này?” Carmel hỏi, nhìn chằm chằm vào cái đầu dê. “Tớ không tin chỗ này. Và tất cả những con thú bị giết hại này sắp biến tớ thành người ăn chay rồi.”

Gideon mỉm cười khi nghe thế. “Chúng ta làm thế để Colin có thể đóng trọn vai một thủ lĩnh biết điều. Ông ta muốn thủ tiêu cháu, Theseus.” Ông nói ra điều đó một cách điềm nhiên khiến tôi giật thót. “Ông ta muốn giết cháu và đoạt lấy con dao tế cho Jestine. Nấu chảy nó và đúc lại nó cùng với máu con bé. Ông ta nghĩ nó sẽ được thanh tẩy.”

“Vậy sao chúng ta không bỏ chạy?” Carmel hỏi. “Và tại sao ông ta lại cho cậu ấy ăn?”

“Không phải ai trong Hội cũng đồng ý. Họ tôn trọng những cách thức cũ, trong đó có dòng dõi huyết thống chiến binh nguyên thủy. Họ sẽ về phe cháu, nếu cháu thề gìn giữ truyền thống.”

“Thế nếu cháu không thì sao?”

Gideon không nói gì. Chúng tôi đã tới phòng ăn, không lớn hơn những phòng khác là mấy. Đương nhiên là có lò sưởi và một đèn chùm tỏa ánh sáng màu vàng trên trần nhà cao. Có ít nhất hơn chục người ngồi bên một cái bàn, được phục vụ bởi vài ‘thành viên cấp thấp’ trông như người máy. Chẳng thấy Jestine đâu. Có thể cô ta đang được canh giữ cẩn mật như một kho báu. Khi chúng tôi đi vào, mọi người đứng lên. Burke đã có mặt và cố làm ra vẻ như ông ta là người ngồi đầu, dù cái bàn hình tròn.

Người đàn ông ngồi gần tôi nhất, chìa tay ra và mỉm cười. Tôi bắt tay và anh ta tự giới thiệu mình là Ian Hindley. Anh ta có mái tóc nâu thưa và để ria mép. Nụ cười của anh ta có vẻ thành thật và tôi tự hỏi liệu anh ta có phải là người phản đối Burke không. Khi tôi tiếp tục bắt tay và nghe những cái tên, tôi không thể xác định được ai trong số họ muốn tôi chết ngay hay đợi lát nữa.

Tôi ngồi xuống bên cạnh Burke và thức ăn được dọn lên gần như ngay lập tức. Bít tết và nước sốt mâm xôi. Đột nhiên tôi ngập trong những câu chuyện phiếm. Thậm chí có ai đó còn hỏi tôi về việc học hành. Tôi tưởng mình sẽ căng thẳng đến không ăn nổi. Ngờ đâu khi nhìn xuống đã thấy đĩa trống trơn.

Cuộc nói chuyện tiếp diễn thật dễ chịu, đến mức tôi không hề hay biết họ lái sang chủ đề truyền thống từ lúc nào. Chủ đề đó được từ từ đề cập và dễ dàng đi vào tai tôi. Họ nói về tính đạo đức của con dao và về mục đích của việc tạo ra nó - những lời nói vo ve như tiếng ong. Thật thú vị. Lại là một quan điểm nữa. Và nó có lý. Nếu tôi thề sẽ giữ gìn, họ sẽ về phe tôi. Nếu tôi thề sẽ giữ gìn, Anna sẽ mãi mãi ở dưới Địa ngục.

Mắt tôi bắt đầu quét quanh bàn, lướt qua những khuôn mặt tươi cười, qua những bộ trang phục giống nhau đến kỳ quái. Gideon đang nói chuyện thân mật với họ. Cả Thomas và thậm chí cả Carmel nữa, mắt họ hơi sáng lên. Burke ngồi bên phải tôi và không hề rời mắt khỏi khuôn mặt tôi.

“Họ nghĩ họ thuyết phục được tôi,” tôi nói, quay sang ông ta. “Nhưng ông biết rõ hơn thế mà, đúng không?”

Ngay lập tức cả bàn im phăng phắc. Như thể họ chưa từng nói gì.

Burke giả vờ rất tốt khi ra vẻ hối tiếc nhìn xung quanh.

“Tôi đã hy vọng gặp gỡ hội và lắng nghe mục đích thật sự của mình sẽ khiến cậu không phạm phải sai lầm,” ông ta nói.

“Đừng,” một giọng phụ nữ cất lên và tôi nhìn qua bàn, trông thấy người phụ nữ tóc màu tro lúc nãy, tên là Mary Ann Cotton. “Đừng phỉ báng bản thân, hoặc con Dao Găm Đen.” Ôi, Mary Ann. Tôi và con Dao Gam Đan vẫn ổn mà.

“Ông có một giáo phái khá đấy, Burke,” tôi nói.

“Chúng tôi là một Hội linh thiêng,” ông ta sửa lại.

“Không. Các ông là một giáo phái. Một giáo phái Anh, ăn mặc sang trọng và làm ra vẻ trịch thượng, nhưng vẫn là một giáo phái.” Tôi quay lại với những người khác và rút con dao tế ra khỏi ba lô, tuốt vỏ, để họ thấy ánh lửa phản chiếu dọc theo lưỡi dao. “Con dao này là của tôi,” tôi nói, át những tiếng thở dài rợn người. “Con dao này đã từng là của cha tôi và trước đó là của ông nội tôi. Các người muốn lấy lại nó ư? Tôi muốn một cánh cửa đến thế giới bên kia, để giải cứu một người không thuộc về nơi đó.”

Bầu không khí im lặng đến mức tôi nghe cả tiếng Gideon và Thomas đẩy gọng kính. Rồi Burke lên tiếng,

“Chúng ta không thể cứ thế lấy lại con dao được.” Và khi bác sĩ Clements phản đối rồi cầu xin cho dòng dõi cổ xưa, ông ta giơ tay ra gạt đi. “Hội Dao Găm Đen sẽ mãi mãi phục vụ dòng dõi của cậu. Cho đến khi dòng dõi đó không còn nữa.”

Qua khóe mắt, tôi trông thấy tay Carmel nắm chặt lấy ghế, sắp đánh người đến nơi rồi.

“Đây không phải là cách,” Gideon nói. “Ông không thể sát hại chiến binh.”

“Ông không có quyền lên tiếng, Palmer,” một thành viên có mái tóc đen cắt sát da đầu lên tiếng. Hắn là người trẻ nhất, có khi là mới nhất. “Ông không còn là thành viên của Hội mấy chục năm nay rồi.”

“Gì cũng được,” Gideon nói tiếp. “Các người cũng không thể nói với tôi rằng không ai khác có cùng cảm nhận đó. Dòng dõi huyết thống đã tồn tại hàng ngàn năm nay. Và các ông định kết thúc nó theo ý Colin?”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Thomas, Carmel và tôi cũng thế.

“Ông ấy nói đúng,” bác sĩ Clements nói. “Nguyện vọng của chúng ta không quan trọng.”

“Vậy ông đề xuất điều gì?” Burke hỏi. “Rằng ta mở cửa và cho phép một kẻ sát nhân đã chết trở lại dương gian sao? Ông có nghĩ rằng điều đó thuận với ý muốn của con dao tế?”

“Hãy để con dao tế chọn,” Clements đột nhiên nói, như thể được tiếp thêm sức mạnh. Ông ấy nhìn xung quanh. “Mở cửa và để cả hai đi. Chiến binh trở về xứng đáng là người được sở hữu con Dao Găm Đen.”

“Thế nếu không ai trở về thì sao?” ai đó hỏi. “Con dao tế sẽ bị mất!”

“Nếu cậu ta đưa được cô gái đã chết kia trở về thì sao?” người khác hỏi. “Cô ta không thể ở trên trần gian này được. Không được phép.”

Thomas, Carmel và tôi đưa mắt nhìn nhau. Sự phản đối đến từ những người ủng hộ trung thành nhất của Burke, nhưng những người còn lại có vẻ như cùng phe với bác sĩ Clements. Burke trông như đang nhai thủy tinh nhưng chỉ trong nháy mắt, ông ta đã nở nụ cười ấm áp, có chút ngượng ngùng của một người biết sửa sai.

“Vậy thì sẽ thế này,” ông ta nói. “Nếu Theseus Cassio sẵn sàng trả giá.”

Bắt đầu rồi đây.

“Tôi sẽ mất gì?”

“Mất ư?” Ông ta mỉm cười. “Nhiều đấy. Nhưng lát nữa, chúng ta sẽ nói chuyện này.” Không thể tin nổi, ông ta gọi cà phê. “Khi làm con dao tế, những người tạo ra nó biết cách mở cửa vào thế giới bên kia. Nhưng những ma thuật này đã bị thất truyền suốt nhiều thế kỷ. Hàng chục thế kỷ. Giờ cách duy nhất để mở cánh cửa đó nằm trong tay cậu.”

Tôi nhìn con dao.

“Cửa chỉ có thể được mở thông qua con Dao Dăm Đen. Cậu thấy đấy, cậu có chìa khóa trong tay suốt từ bấy đến giờ. Cậu chỉ là không biết cách mở thôi.”

Tôi bắt đầu mệt vì người ta cứ nói về con dao như thể nó không phải là một con dao, như thể nó là một cánh cổng, một chiếc chìa khóa hay một đôi giày đỏ37*.

(37) The ruby slippers: đôi giày ma thuật mà nhân vật Dorothy Gale đi trong phim “Phù thủy xứ Oz” (1939).

“Chỉ cần cho tôi biết tôi sẽ mất gì,” tôi nói.

“Giá phải trả,” ông ta nói và mỉm cười. “Giá phải trả chính là máu tươi chảy trực tiếp từ bụng cậu.”

Ở đâu đó quanh tôi, Thomas và Carmel thở gấp. Burke trông có vẻ tiếc nuối, nhưng tôi không tin.

“Nếu cậu vẫn quyết tâm,” ông ta nói. “Tối mai, chúng ta sẽ thực hiện nghi lễ.”