Hồi 4 Kẻ bí hiểm gặp người giả mạo-Xác giai nhân, rùa dạo nhà hoang
Địch Công lấy ngựa của một Bộ khoái, nhanh chóng lên yên rồi giục ngựa buông cương nhằm hướng nam thẳng tiến. Cái quan nhộn nhịp những khách bộ hành từ nội thành trở về tư gia, họ chẳng hề chú ý gì đến kỵ sĩ cô độc đang phi nước đại băng qua.
Cái quan xuôi theo kênh đào ước chừng một dặm đường. Nhiều nhóm nhỏ nam thanh nữ tú vẫn đang ngồi nguyên tại vị trí theo dõi cuộc đua thuyền bên bờ kênh. Rồi Địch Công tiến vào khu vực đồi núi. Nơi đó, rừng rậm đen kịt âm u hiện lên dọc hai bên đường. Khi đã hạ sơn xuống lại vùng đồng bằng, ông nhìn thấy ánh đèn rực rỡ sắc màu của những quầy hàng ven đường đánh dấu lối vào thôn Thạch Kiều. Băng qua cây cầu đá cao cong cong, vốn là nguồn cảm hứng đặt tên cho ngôi làng, ông trông thấy cột buồm của những chiếc thuyền mành đi biển đồ sộ được neo đậu tại bến tàu phía xa, tại ngã ba giao nhau giữa dòng sông với con kênh đào Đại Vận Hà.
Nơi họp chợ ở phía bên kia Thạch Kiều lung linh hàng trăm ánh đèn dầu và đèn lồng xen kẽ. Một đám đông dày đặc đang thơ thẩn dạo quanh các quầy hàng. Địch Công xuống ngựa và dẫn cương đến cửa hiệu của một thợ rèn. Nhân lúc rỗi việc, gã đồng ý trông nom con ngựa đổi lấy vài đồng. Ông có vẻ hài lòng khi tay thợ rèn không nhận ra mình là Huyện lệnh.
Địch Công thẩn thơ tản bộ xuôi theo dòng người, tìm một nơi thích hợp để thu thập thông tin. Phía dưới hàng cây cao bên bờ sông, ông trông thấy các cột trụ sơn thiếp đỏ của một miếu thờ nhỏ. Ông hòa vào dòng người lần lượt đi ngang qua nó. Mỗi bách tính đều bỏ vài xu vào thùng công đức nằm ở đầu bậc thềm đá dẫn vào miếu thờ. Trong khi đang quyên góp, Địch Công tò mò nhìn vào phía trong. Một lão đạo sĩ, đầu đội mũ nâu sòng rách nát, đang châm dầu vào chiếc đèn duy nhất treo lủng lẳng trên bàn. Ở đó, ông thấy bức tượng Nữ thủy thần, có kích cỡ y như người thật, đang tĩnh tọa trên đài sen. Đôi mắt khép hờ dường như đang ngó xuống Huyện lệnh, môi cong khẽ lên một nụ cười mơ hồ.
Là một môn đồ trung thành của đức Khổng Tử, Địch Công ít để tâm tới tín ngưỡng sùng bái thông thường. Tuy nhiên, khuôn mặt xinh đẹp đang mỉm cười của nữ thần tạo cho ông một cảm giác bất an kỳ lạ. Ông nhún vai, bực bội quay xuống các bậc tam cấp và tiếp tục đi về hướng ban đầu dự định. Cuốc bộ một quãng, ông trông thấy một quầy cắt tóc quay mặt thẳng ra phía bến tàu.
Lúc bước vào và ngồi xuống ghế đẩu, Huyện lệnh bắt gặp một thiếu phụ mảnh mai tách mình khỏi đám đông và đi về phía quầy. Nàng vận áo khoác ngoài dệt từ vải hoa đen bóng, đầu quấn một tấm khăn choàng đen che kín nửa dưới khuôn mặt. Hẳn nàng không phải là kỹ nữ, bởi cách phục sức trang nhã và phong thái đường hoàng đã chỉ ra đây là một nữ nhân có địa vị. Trong lúc cởi bỏ mũ chỏm, Địch Công thoáng băn khoăn. Điều gì có thể khiến một vị phu nhân thân hành đến khu chợ ồn ã lúc trễ tràng thế này, mà không có ai hộ tống?
Rồi ông chú tâm chỉ dẫn tỉ mỉ cho người thợ cách cắt tỉa tóc mai và râu ria theo ý mình.
"Lão gia từ đâu đến vậy?" Tay thợ cắt tóc bắt chuyện trong lúc bắt đầu chải râu cho Địch Công.
"Ta là một võ sư ở huyện bên", Huyện lệnh đáp. Nghiệp võ sư đòi hỏi người trong giới phải sống theo một cung cách khổ hạnh, nó là nghề được nhiều bách tính kính nể và họ thường rất cởi mở với các võ sư.
Ông tiếp lời, "Ta đang trên đường về kinh để thăm thân bằng quyến thuộc. Chắc hẳn tối nay ông kiếm chác khá ngon lành, tất cả dân chúng vùng này đều đến đây xem đua thuyền mà."
"Chẳng quá thơm tho gì đâu, nói thật với lão gia! Dân chúng có ối chuyện hay ho để làm hơn là cắt tóc. Lão gia thấy tửu lâu ở bờ đối diện đó không? Trước khi các thuyền khởi hành, hai vị đại gia họ Biện và họ Kha đã khoản đãi những tay chèo ở đấy, thêm cả các bằng hữu lẫn gia quyến của họ nữa. Giờ tiểu nhân hỏi lão gia nhé, ai sẽ tốn ngân lượng cho tóc tai khi có thể được ăn uống no say, tất cả đều miễn phí mới ác chứ?"
Địch Công đồng tình với y. Qua khóe mắt, ông nhận thấy thiếu phụ áo đen đang đứng gần hàng lan can ngăn cách hiệu cắt tóc với con lộ. Cũng không chừng ả là một kỹ nữ, đang chờ ở đó để mồi chài khi ông rời đi.
Huyện lệnh nói với tay thợ cắt tóc, "Ta chỉ thấy bốn tiểu nhị ở tửu lâu đằng kia. Chắc hẳn họ đã có khoảng thời gian bận bù đầu bù cổ để phục vụ tất cả các tay chèo! Ta nghe chừng là năm nay có chín thuyền rồng."
"Họ không bận bịu gì đâu. Lão gia có thấy cái bàn ở phía sau không? Ôi, họ đã phải đặt đến sáu chum rượu lớn ở đó. Bất cứ kẻ nào cũng có thể múc đầy bát rượu bao nhiêu lần tùy ý. Còn hai cái bàn nhỏ ở góc phòng chất đầy đồ nhắm mát lạnh. Thực khách cứ tự nhiên mà thưởng thức. Xem nào, tiểu nhân cũng có hai vị khách là thuyền phu. Bụng dạ nghĩ ít nhiều gì mình cũng được phép tham gia, tiểu nhân bèn lẻn vào giữa đám thực khách đó. Nói cho lão gia biết, họ chỉ toàn phục vụ rượu ngon với cao lương mĩ vị thôi! Khi cao hứng, hai vị đại gia kia chẳng biết tiếc ngân lượng đâu! Không hề tỏ chút thái độ hợm hĩnh trịch thượng gì cả, họ liên tục đi lại khắp phòng tiệc, luôn ăn nói hòa nhã với mọi người. Lão gia có muốn gội đầu không?"
Thấy Địch Công lắc đầu, tay thợ tóc nói tiếp, "Dân làng sẽ tiếp tục uống đến tận nửa đêm, tiểu nhân cược thế, mặc dù giờ này thì họ sẽ phải tự bỏ ngân lượng ra mà trả! Có một tai nạn trong cuộc đua, lão gia biết đó, một gã đã toi đời. Đấy lý do tại sao dân ở đây đều hồ hởi. Lúc này, Bạch Nương đã có cống phẩm, rồi vụ thu tới đây sẽ đầy ắp thóc lúa cho coi."
"Ông tin chuyện Bạch Nương à?"
"Ôi lão gia ơi, tiểu nhân tin hay không thì cũng thế. Việc làm ăn của tiểu nhân đâu có phụ thuộc vào sông nước hay đồng ruộng. Thế nên tiểu nhân muốn giữ đầu óc thông thoáng với mọi vấn đề. Nhưng tiểu nhân sẽ không bao giờ tự mình lai vãng đến gần rừng Mạn Đà La ở phía trên kia đâu."
Tay thợ huơ chiếc kéo chỉ và tiếp lời, "Vì khu rừng đó thuộc về Người. Cẩn tắc vô ưu, tiểu nhân muốn tránh chuyện phiền phức!"
"Ta cũng thế, thôi ông ngừng múa kéo quanh đầu ta đi! Thế chỉn chu rồi, xin đa tạ. Ta thiếu ông bao nhiêu vậy?"
Địch Công trả cho người thợ vài đồng, đội lại mũ chỏm rồi đi ra.
Thiếu phụ kia tới gần ông và buông câu nhát gừng, "Ta có đôi lời muốn nói với ông."
Huyện lệnh khựng lại và đưa ánh mắt dò xét nhìn nữ nhân. Chất giọng danh môn khuê các và khẩu khí tự tin của nàng khiến cho ông có ấn tượng ban đầu rằng đây thực sự là một quý phu nhân.
Nàng tiếp lời, "Vừa rồi ta có nghe ông xưng là một võ sư. Có lẽ ta có một sự vụ cần ông tối nay."
Địch Công tò mò muốn biết ý đồ của nữ nhân lạ lùng này. Ông đáp, "Ta thường ngao du bốn bể, tứ hải giai huynh đệ, mà chu du thiên hạ thì tiêu tốn ngân lượng. Ta có thể làm thêm vài việc khác cũng được."
"Vậy theo ta!"
Nữ nhân rảo bước về phía hàng ghế đá nhám dưới những tán cây liễu rủ dọc theo bờ sông. Đoạn nàng ngồi xuống, Địch Công ngồi đối diện. Nữ nhân bỏ tấm khăn che mặt, đôi mắt bồ câu long lanh như nước hồ thu nhìn thẳng vào ông. Đó là một thiếu phụ có nhan sắc khuynh thành. Khuôn mặt trái xoan không son phấn, bờ môi chúm chím ánh lên sắc hồng đào tự nhiên, gò má mịn màng thoáng ửng hồng. Ông đoán chừng nàng khoảng hai mươi lăm xuân xanh.
Thoáng thăm dò qua đi, nữ nhân mở lời, "Ông có vẻ là một nam tử hán đại trượng phu, hẳn sẽ không lạm dụng tình huống này để vòi vĩnh thái quá. À, thật ra sự vụ cũng khá giản đơn thôi! Ta nhận lời hẹn gặp tại một gia trang bỏ hoang gần rừng Mạn Đà La để bàn về một giao dịch quan trọng, cách đây hai khắc vi bộ. Nhưng khi hẹn, ta lại ngớ ngẩn không lưu tâm rằng vào đêm hội đua thuyền, sẽ có đủ loại tiện dân lảng vảng quanh đây. Ta muốn ông hộ tống đến gia trang đó, bảo vệ ta khỏi bọn cướp và các loại đạo tặc khác. Ông chỉ cần tống tiễn ta đến cửa gia trang là được."
Thiếu phụ cho tay vào ống áo, rút ra một đĩnh bạc sáng loáng, rồi tiếp lời, "Ta sẵn sàng trả công hậu hĩnh cho sự vụ nhẹ nhàng này."
Huyện lệnh thầm nghĩ mình nhất định phải biết thêm về chuyện này. Thế nên ông đột ngột nhổm dậy, lạnh lùng buông lời, "Ta chả ham gì việc đánh đổi danh tiếng võ sư gầy dựng bao năm qua bằng thứ ngân lượng dễ kiếm kia. Ta từ chối thông đồng với những cuộc gặp gỡ ám muội."
"Sao ông dám cuồng ngôn!" Nữ nhân giận dữ thốt lên. "Đây hoàn toàn là việc đường hoàng giữa thanh thiên bạch nhật, ta nói cho ông hay!"
"Trước tiên nàng phải chứng minh điều đó, nếu muốn ta ra tay tương trợ."
"Ông ngồi xuống đi! Giờ khắc thi gấp rút, nhưng ta sẽ chiều ý ông. Sự miễn cưỡng của ông đã khẳng định thiện cảm ban đầu của ta là đúng. Ôi dào, ta được giao phó việc mua một báu vật vào tối nay. Giá cả đã được dàn xếp xong xuôi, nhưng sự vụ đặc biệt này cần phải được giữ bí mật tuyệt đối. Những kẻ khác cũng muốn mua vật này và chủ nhân của nó cũng không muốn cho đám người đó biết y bán lại cho ta. Thiên hạ sẽ đại loạn, giang hồ sẽ dậy sóng! Y đang chờ ta ở gia trang đấy. Một gian nhà hoang lạnh nhiều năm, không ai có thể mường tượng ra đấy là nơi an toàn cho một giao dịch tín cẩn liên quan đến nhiều ngân lượng thế này."
Địch Công nhìn vào tay áo trái nặng trĩu của nữ nhân.
"Ý nàng là," ông hỏi, "một nữ nhân độc lai độc vãng, lại đang mang theo một số ngân lượng lớn để mua hàng à?"
Thiếu phụ rút ra một gói vuông vắn từ ống tay áo và lặng lẽ trao cho Huyện lệnh. Sau khi đoan chắc không có ai quan sát cả hai, ông nới lỏng một góc giấy dày. Ông há hốc miệng đầy kinh ngạc. Trong gói có đến mười nén vàng ròng sáng ngời, được lèn chặt và gói ghém chắc chắn.
Trao lại gói vàng, Địch Công hỏi, "Nàng là ai?"
"Ông thấy đấy, ta hoàn toàn tin tưởng ông", thiếu phụ bình thản trả lời trong khi cất lại gói vàng vào ống tay áo. "Ta mong chờ điều tương tự từ ông."
Lại lấy ra đĩnh bạc, nàng hỏi, "Thỏa thuận thế nhé?"
Huyện lệnh gật đầu và nhận đĩnh bạc. Câu chuyện với tay thợ cắt tóc đã khiến ông ngộ ra, việc lần ra dấu vết của vụ đầu độc Đổng Mai là một công vụ hão huyền. Ngày mai, ông sẽ phải thẩm tra kỹ lưỡng những địa bàn mà nạn nhân hay lui tới cũng như các mối quan hệ của y, nhằm khám phá ra manh mối về động cơ thủ ác. Việc khảo cung sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, vì kẻ nào cũng có thể bỏ độc vào rượu hay đồ ăn của Đổng Mai trong suốt bữa thiết yến tại tửu lâu. Giữa mù tịt giữa biển khơi luận chứng như thế này, ông cũng có thể xem xét nữ nhân lạ mặt này định làm những gì.
Khi hai người đang băng qua, ông hỏi, "Tốt hơn là nên mua một cái đèn bão ở đây."
"Ta thuộc mọi ngõ ngách của gia trang đó trong lòng bàn tay rồi", thiếu phụ sốt ruột nói.
"Nhưng ta thì không, ta sẽ phải tìm đường về một mình", Địch Công bình phẩm. Ông dừng lại trước một hàng xén và mua một đèn lồng nhỏ bằng giấy dầu căng trên khung tre.
Khi cả hai tiếp tục lên đường, Huyện lệnh hỏi với vẻ hiếu kỳ, "Làm thế nào mà cái gã nàng sắp gặp tìm được đường đến nơi hẹn?"
"Y từng sống ở đó. Và y sẽ đưa ta về làng, trong trường hợp ông lo lắng về chuyện đó!"
Họ tiếp tục rảo bước trong im lặng. Sau khi bước vào con đường tối như mực dẫn đến khu rừng, họ đi ngang qua một toán lưu manh non choẹt đang đùa ghẹo với ba ả kỹ nữ. Bọn chúng định buông lời bình phẩm tục tĩu với hai người, nhưng thoáng thấy dáng người lừng lững của Địch Công, chúng chợt im bặt.
Đi xa hơn một chút, thiếu phụ rẽ trái vào một con đường mòn dẫn tới khu rừng. Họ chạm mặt hai tên đầu trâu mặt ngựa đang lảng vảng dưới những rặng cây. Chúng xấn tới định vây ráp họ, nhưng vừa thấy ông xắn tay áo với tấn pháp của một võ sư lão luyện, chúng liền nhanh chóng lủi mất.
Địch Công nghĩ thầm, "Ít ra mình cũng đáng đồng tiền bát gạo đấy chứ. Một nữ nhân lẻ loi sẽ chẳng bao giờ có thể đi đến nơi mà không bị quấy rầy."
Rồi ông không còn nghe thấy những âm thanh ồn ào của khu chợ nữa. Không gian tĩnh mịch chỉ bị phá vỡ bởi tiếng kêu kỳ quái của lũ cú muỗi. Con đường mòn quanh co dẫn lối xuyên qua một mảnh rừng rậm rạp đầy những cây cổ thụ sừng sững, đến nỗi chỉ có vài mảnh ánh trăng lọt xuống mặt đất bị bao phủ bởi tầng lá khô dày.
Thiếu phụ quay người lại và đủ vào một cây thông cao có nhiều mấu.
"Hãy nhớ cái cây này", nàng nói. "Trên đường về, ông rẽ bên trái ở đây và cứ men theo bên trái mà đi tiếp."
Nữ nhân đi vào một con lộ nhỏ, cỏ dại mọc cao kín lối. Dường như nàng quen thuộc mọi đường đi lối bước, còn Địch Công phải rất vất vả mới theo kịp, vì chân ông cứ va vấp trên con đường đất gồ ghề.
Để có chút thời gian nghỉ chân, ông hỏi, "Sao gia trang ấy bị bỏ hoang vậy?"
"Vì dân tình nghĩ là nơi đó bị ma ám. Gia trang tiếp giáp rừng Mạn Đà La và ông đã nghe những gì gã thợ cắt tóc ngu ngốc nói rồi chứ. Liệu ông có phải một kẻ hèn nhát?"
"Ta thấy bản thân gan dạ hơn kha khá người."
"Tốt. Giờ hãy giữ yên lặng, chúng ta gần tới nơi rồi."
Sau khi cuốc bộ một quãng đường mà Địch Công cảm thấy dài dằng dặc, nữ nhân dừng lại. Nàng đặt tay lên cánh tay ông và chỉ về phía trước. Nơi đó, các ngọn cây thưa thớt dần, ông thấy bên dưới ánh trăng ảm đạm một chòi gác cũ kĩ, lớp gạch vữa đã bị bào mòn vì gió mưa. Phía bên kia là bức tường cao. Thiếu phụ bước lên bậc tam cấp dẫn tới một cánh cổng gỗ nặng nề đã xuống nước, đẩy mở nó và thì thầm, "Vô cùng cảm tạ ông đã hộ tống. Xin cáo từ!"
Nữ nhân lẩn nhanh vào trong.
Địch Công quay người lại và bước đi. Nhưng ngay khi vừa khuất dạng sau hàng cây, ông dừng lại, đặt đèn lồng xuống đất, vén tà áo giắt vào thắt lưng và xắn tay áo. Đoạn ông cầm đèn lên và tiếp cận chòi gác. Huyện lệnh định vị nơi diễn ra cuộc hẹn của cặp đôi thần bí kia và tìm một góc thuận lợi để theo dõi bọn họ. Nếu đây thật sự là một thương vụ đường hoàng thì ông sẽ quay về ngay. Bằng không, nếu có bất cứ điểm đáng nghi nào, ông sẽ xuất đầu lộ diện, tiết lộ danh tính của mình và yêu cầu họ giải trình đầy đủ.
Tuy nhiên, ngay khi bước chân vào bên trong, ông nhận ra nhiệm vụ không dễ dàng như mường tượng, vì gia trang này không được xây dựng theo cấu trúc thông thường. Thay vì băng qua khoảng sân trước thoáng đãng, ông lại đang dò dẫm trong một đường hầm mờ tối. Không muốn thắp đèn, ông dựa vào cảm quan để lần mò dọc theo bức tường đá phủ đầy rong rêu, tiến về phía ánh sáng leo lét tỏa ra phía trước.
Xuyên qua đường hầm, Địch Công bước ra một sân rộng bị bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm giữa các phiến đá lát vỡ vụn. Ở phía bên kia, khối nhà chính lờ mờ hiện ra, phần mái ngói bị lún hằn lên nền trời sáng trăng. Ông băng qua khoảng sân, rồi dừng lại. Ông nghĩ mình đã nghe thấy tiếng ồn thấp thoáng đâu đó phía bên phải nơi có một cánh cửa hẹp có lẽ dẫn đến chái nhà phía đông. Ông nhanh chóng đi qua cửa và nghe ngóng. Những giọng nói xuất phát từ phương lầu trên nền đất cao chừng bốn thước, nằm phía bên kia một hoa viên nhỏ có tường bao quanh, cỏ dại mọc đầy. Tường và mái của ngôi lầu trông như đã được sửa chữa so với phần còn lại của khu nhà. Cửa ra vào đóng chặt và cánh cửa sổ cũng khép im lìm. Giọng nói vọng ra từ ô cửa sổ nhỏ trổ phía trên cửa chính.
Huyện lệnh nhanh chóng khảo sát tình hình. Bờ tường bao bên trái chỉ cao hơn bốn thước, phía bên kia là các thân cây cao vút của khu rừng tối đen. Tường bao bên phải thì cao hơn. Nếu ông trèo lên đỉnh tường thì có thể mắt thấy tai nghe chuyện đang xảy ra bên trong lầu, thông qua ô cửa sổ kia.
Ông chọn một vị trí lở gạch trên bờ tường để tạo thế phi lên dễ dàng. Thế nhưng, khi ông đang trèo lên đỉnh tường thì mặt trăng bị mây che khuất, khiến cho không gian trở nên tối đen như mực. Ông khẽ khàng bò nhanh về phía phương lầu.
Địch Công nghe tiếng nữ nhân nói, "Ta sẽ chẳng tiết lộ nửa lời, cho đến khi ta biết được vì sao ngươi lại ở đây?"
Có một lời thề thốt, rồi âm thanh của một vụ tranh giành. Nữ nhân hét lên, "Buông bàn tay dơ bẩn của ngươi ra. Ta nói ngươi không được sờ vào nó."
Đúng lúc ấy, một mảng tường sụt xuống dưới sức nặng của Địch Công. Khi ông đang ngả nghiêng cố giữ thăng bằng, một mảng gạch lớn đổ sầm xuống đám đá vụn bên dưới. Lúc đang dò dẫm giữa mép gạch nát để trèo xuống, ông chợt nghe tiếng la thất thanh của thiếu phụ. Rồi tiếng cánh cửa mở bung ra và những bước chân vội vã.
Ông thả mình xuống giữa đám cây bụi dưới chân tường và lớn tiếng, "Tất cả ở yên tại chỗ, người của ta đã giăng thiên la địa võng bao quanh gia trang!"
Đó là mưu kế hay nhất ông có thể nghĩ ra, nhưng rõ là nó chẳng đủ trọng lượng. Trong lúc xoay trở bò dậy, ông lại nghe thấy từ xa vọng lại tiếng cành cây răng rắc gãy gần chòi gác. Kẻ bôn tẩu đang trốn thoát vào rừng.
Địch Công nhìn vào khu lầu. Qua cánh cửa khép hờ, ông có thể thấy phần nào nội tình bên trong, nhờ ánh sáng từ ngọn nến duy nhất. Thiếu phụ đang nằm sóng soài trên nền nhà. Ông loạng choạng vấp vào đám cỏ dại, vội vã phóng nhanh lên các bậc đá, rồi khựng lại trước ngưỡng cửa mở. Nữ nhân nằm ngửa, cán của một con dao găm cắm phập vào ngực nàng. Ông nhanh chóng ngồi xổm xuống cạnh thiếu phụ và đau đáu ngắm nhìn khuôn mặt giai nhân. Nàng đã trút hơi thở cuối cùng.
"Nữ nhân đã trả công cho ta để bảo vệ nàng, vậy mà ta lại để nàng bị hạ sát!" Ông lẩm bẩm, giận run người.
Rõ là nàng đã cố gắng tự vệ, bàn tay phải còn siết chặt một thanh chủy thủ lưỡi mỏng vấy máu. Những chấm máu đỏ tươi kéo dài trên sàn nhà đến tận cửa ra vào.
(Chủy thủ: Một loại kiếm ngắn)
Ông lần vào trong ống tay áo của nữ nhân. Gói vàng biến mất. Chỉ còn hai chiếc khăn tay và một tờ chi phiếu có đóng triện đã chi trả, đề là "Hổ Phách phu nhân, ở biệt phủ của tiên sinh Kha Nguyên Lương".
Địch Công nhìn lại gương mặt xanh xao bất động của người xấu số. ông từng loáng thoáng nghe bách tính rỉ tai nhau, rằng đại phu nhân của Kha gia đã đau yếu suốt nhiều năm bởi một chứng bệnh nan y, rồi họ Kha đã cưới một thiếu phụ trẻ trung và ban tặng danh phận nhị phu nhân. Đó chắc chắn là nàng. Lão Kha ngu ngốc đó đã để cho nương tử chường mặt đến chốn này mua một món đồ cổ giá trị cho bộ sưu tập của mình! Nhưng đây lại là một cái bẫy được dựng lên để cướp đoạt ngân lượng.
Huyện lệnh đứng dậy, thở dài và thẩm tra gian phòng trống trải. Ông nhăn mày, vầng trán hằn nếp nhăn đầy vẻ tư lự. Cạnh bên một cái ghế thì thứ vật dụng duy nhất trong phòng là chiếc phản bằng tre ghép. Chẳng có tủ hay hốc tường gì cả, không có nơi để cất trữ bất cứ món đồ nào. Trần và tường mới được sơn sửa lại, cửa sổ được lắp thêm các chấn song sắt. Cánh cửa bằng ván dày còn mới tinh, có treo một ổ khóa lớn. Lắc đầu vẻ khó hiểu, ông với lấy cây nến và thắp sáng đèn lồng. Rồi ông bước xuống hoa viên nằm lọt thỏm giữa các bức tường và thả bộ về phía khu nhà chính.
Chẳng còn thứ gì giá trị sót lại trong các căn phòng ẩm thấp và tối đen. Ở sảnh chính xập xệ đã hư hỏng hoàn toàn, mắt ông chạm phải những chữ chạm khắc trên lớp vữa tường chắn. Hai hàng chữ lớn hiện ra, "Thủy Trang viên Đổng Nhất Quán lão chủ đề bút".
"Hảo thư pháp!" Địch Công khẽ trầm trồ trong lúc tiếp tục xem xét gian nhà. Trong các hành lang trống huơ trống hoác, vài con dơi vỗ cánh bay xung quanh đầu ông, dường như bị cuốn vào ánh sáng của ngọn đèn lồng. Ngoài đám dơi và một số con thú lớn đang nháo nhào lẩn trốn khi ông đến gần, không gian còn lại lặng im như một khu nhà mồ.
Ông thoái bộ trở lại phương lầu để thu lại con dao găm và thanh chủy thủ. Sau đó, ông sẽ trở lại Thạch Kiều và lệnh cho trưởng thôn cùng các tuần đinh đến nơi đây để mang thi thể của nữ nhân xấu số về lại thành. Chẳng còn việc gì để làm ở cái chốn ma quái ảm đạm này nữa cả. Khi vào hoa viên có tường rào kín, ông thấy mặt trăng trên cao lại ló dạng lần nữa, lần này Hằng Nga đã tươi tỉnh và rạng rỡ hơn.
(Tuần đinh: Trai tráng được cắt cử làm công việc tuần phòng ở xã thôn)
Bất chợt ông chết sững người, kẻ nào đó đang lén lút bước đi dọc phía bên kia bờ tường thấp ngăn cách hoa viên với cánh rừng. Ông chỉ kịp thấy cái đầu bù xù tổ quạ của kẻ thâm nhập đang dịch chuyển ra xa khỏi phương lầu. Rõ là kẻ lạ mặt chưa nhận ra sự có mặt của ông, hắn tiếp tục thong thả đi men theo bờ tường.
Huyện lệnh thu mình, bước êm ru về phía bờ tường thấp. Tay nắm chắc đỉnh tường, ông tung người qua và đáp xuống một con rãnh phủ đầy cây cỏ dại. Lóng ngóng đứng dậy, ông nhận thấy ở phía bên này, bờ tường cao hơn sáu thước phía trên bờ rãnh hẹp. Không có bóng dáng kẻ nào cả.
Ông ngước lên nhìn bờ tường, toàn thân đông cứng trong nỗi kinh hoàng không tên. Chỉ duy nhất một cái đầu tổ quạ đang rón rén bò dọc đỉnh tường, với những bước đi xóc nảy kỳ quái.
Địch Công đứng lặng người, nín thở trong thoáng chốc, mắt nhìn xoáy vào cái thứ quái gở ấy. Thế rồi, ông chợt mỉm cười và thở nhẹ nhõm, tưởng như đã trút được gánh nặng ngàn cân. Ánh trăng đã đánh lừa mắt người. Nghệ thuật là ánh trăng của sự dối lừa. Đó chỉ là một túm cỏ rối được một con thú nhỏ cõng trên lưng.
Ông vươn tay về phía trước, túm lấy đám cỏ dại rồi giật sang bên. Một con rùa nhỏ bên dưới đang rướn đôi mắt mờ đục nhìn ông đầy trách móc, rồi nó mau mắn rụt đầu và co chân vào trong mai.
"Cách hành xử khôn khéo đấy, tiểu bằng hữu à!" Địch Công thầm thì. "Giá mà ta có thể làm được như ngươi!"
Thật thoải mái khi nói thế. Không khí gớm ghiếc của chốn ma quái này bắt đầu đè nặng lên Huyện lệnh. Ông đưa mắt nhìn mông lung vào cánh rừng tối đen, đang vươn cao từ tầng cây thấp rắn rỏi ở bờ bên kia của rãnh hào. Rõ ràng đó là khu rừng Mạn Đà La, nơi bất khả xâm phạm của Nữ thủy thần. Chẳng có nổi một chiếc lá dám phất phơ lay động dưới ánh trăng dát bạc.
Ông lấy khăn tay ra, đặt chú rua lên đó, thắt nút khăn lại rồi bỏ vào tay áo mình. Đoạn ông leo qua bức tường lần nữa, trở vào trong hoa viên.
Huyện lệnh tiếp tục quay lại phương lầu và cẩn thận rút con dao găm từ ngực nữ nhân ra. Nó đã xuyên thẳng vào tim nàng, khiến mặt trước của tà áo đen đẫm trong máu tanh. Rồi ông lấy thanh chủy thủ từ bàn tay vô hồn của thiếu phụ, bọc cả hai thứ vũ khí vào một trong hai chiếc khăn tay của nữ nhân. Nhìn gian phòng lần cuối, ông quay người bước đi.
Đến chòi gác, Địch Công tra xét đường hầm. Bấy giờ, ông thấy một hàng lan can chạy dọc theo đỉnh của bờ tường ngoại vi. Rõ ràng chủ nhân của trang viên hiu quạnh này đã gia cố đường ngang lối dọc, có lẽ vì lo sợ bọn đạo tặc tấn công. Ông nhún vai và rời khỏi hang viên. Với chiếc đèn lồng trên tay, ông tìm đường trở lại Thạch Kiều chẳng mấy khó khăn.
Khung cảnh chợ hãy còn đông vui, dân làng chẳng thiết đến chuyện hồi gia. Địch Công lệnh cho một kẻ bá vơ gần đó dẫn mình đến gặp trưởng thôn. Sau khi xưng danh, ông diễn giải cho kẻ đang khiếp sợ ấy về tử thi. Ông cũng ra lệnh cho y cử mười hai tuần đinh đến trang viên, đứng đó canh phòng cho đến lúc tảng sáng. Sau đó, ông lấy ngựa từ chỗ tay thợ rèn, đặt hai thứ vũ khí và chú rùa vào túi bên yên ngựa, rồi giục tuấn mã phi nước đại quay về thành.