← Quay lại trang sách

Hồi 12 Quan huyện trò chuyện thương buôn-Tường tri bao kẻ vẫn luôn giấu mình

Huyện lệnh hướng ngựa về phía tây. Tử Lan đã đưa ra một đầu mối hoàn toàn mới cho các vụ án mạng. Do đó, ông quyết định đến thăm thêm một người trước khi hồi phủ.

Đến miếu Khổng Tử, Địch Công dừng ngựa trước một gia trang hai lầu trang nhã ở bên phố. Cửa sổ lầu trệt được gia cố bởi các chấn song sắt, cửa sổ lầu trên thì cắm một hàng đinh dài nhọn hoắt dọc theo bệ cửa để đề phòng bọn đạo chích leo lên. Một tấm bảng nhỏ gắn kín đáo ở cửa ra vào, "Tàng kinh cổ vật". Ông xuống ngựa và buộc dây cương vào một cột đá ở hàng hiên để tránh nắng cho tuấn mã.

Một tiểu nhị trẻ, mặt tươi như hoa, mau mắn chạy ra và niềm nở đón khách.

"Thưa đại nhân, Dương lão gia vừa mới về! Lão gia đã phóng ngựa đến một nông trang, nơi người ta mới đào được một tấm bia đá cổ có khắc chữ. Hiện lão gia đang ở thư phòng trên lầu."

Y dẫn Huyện lệnh đi dọc theo các giá tủ bày đầy những món đồ cổ to nhỏ đủ thể loại, tới cầu thang ở phía trong.

Gian phòng lầu trên rộng rãi và mát mẻ, nhờ hai chậu đồng chất đầy các tảng nước đá đặt trên sàn. Ánh sáng được lọc bớt qua các màn giấy của hai cánh cửa sổ cao. Những cuộn tranh bạc màu treo trên bức vách giữa hai cửa sổ, dựa vào vách tường bên là một giá gác chất kín những quyển sách quăn mép.

Vị thương gia đồ cổ đang ngồi sau một cái bàn gỗ mun bóng loáng. Ngả thân hình hộ pháp vào lưng ghế, ông ta đang ngắm nghía một chiếc bình gốm men đỏ thanh nhã. Khi tiểu nhị thông báo chuyến viếng thăm của Huyện lệnh, họ Dương cẩn thận đặt chiếc bình xuống bàn, rồi nhanh chóng đứng dậy.

Ông ta kính cẩn thi lễ, kéo một chiếc ghế khác đến bên bàn và sang sảng cất lời, "Chắc hẳn đại nhân tới để xem họa phẩm mà thảo dân đã đề cập đến tối qua! Ngài sẽ thấy bức tranh quả đáng để chiêm ngưỡng, thảo dân cam đoan là vậy! Nhưng trước tiên, xin mời ngài dùng một chén trà đã!"

Địch Công ngồi xuống và nhận chiếc quạt lụa tròn từ tay tiểu nhị.

"Đa tạ chén trà của ngươi", ông nói, tay phe phẩy quạt, "Nhưng hãy chờ lúc khác để bàn đến bức tranh. Ta ghé thăm Dương tiên sinh để tìm hiểu một vài thông tin. Chuyện hệ trọng."

Vị chưởng quỹ ra hiệu cho tiểu nhị lui ra. Ông ta tự tay châm trà mời khách, rồi lại ngồi xuống ghế, cặp mắt sắc sảo nhìn Huyện lệnh với vẻ chờ đợi.

Ông bắt đầu mở lời, "Bản quan đang đối mặt với ba vụ án mạng, Dương tiên sinh à. Ngươi đã biết về Đổng Mai và Kha phu nhân rồi, và có lẽ cũng nghe được là Hạ Quảng đã bị sát hại vào sáng nay."

"Bẩm, Hạ Quảng ư? Thảo dân chưa nghe tin đó. Thảo dân chỉ mới hồi gia thôi. Giờ thảo dân nhớ ra cái tên ấy rồi! Có người từng đề cập đến một tay lang bạt tên là Hạ Quảng, chuyên giao du với đủ loại tiện dân để mua bán cổ vật, và cảnh báo thảo dân đừng giao dịch với hắn. Vậy là một trong các bằng hữu bất hảo đã đâm chết hắn ạ?"

"Vụ án mạng của hắn chắc chắn có liên hệ với hai tội ác kia. Bản quan phải thừa nhận rằng mình đang rơi vào ngõ cụt. Nếu biết thêm chút ít về những người có quan hệ với nạn nhân, để ta nảy ra được ý niệm nào đó về kẻ đứng sau những tội ác khủng khiếp ấy, thì tốt biết bao."

Ông nhấp một ngụm trà, rồi cười mỉm nói tiếp, "Dương tiên sinh không chỉ sở hữu kho kiến thức phong phú về đồ cổ, mà còn có con mắt nhìn người tinh tường. Do vậy mà bản quan đến gặp ngươi."

Họ Dương cúi đầu.

"Thưa, đại nhân đã quá đề cao thảo dân rồi! Tiếc là ngoài khách hàng của mình ra, thảo dân không gặp gỡ nhiều bách tính ở Phổ Dương, cũng ít khi để tai những chuyện ngồi lê đôi mách. Kể từ khi tiện nội qua đời sáu năm trước, hai nhi tử lại an cư lạc nghiệp ở phương nam, thảo dân chỉ sống với nghề thương buôn và khảo cứu cổ vật, ít nhiều trải nghiệm đời sống khổ hạnh! Thảo dân tự lo liệu những việc đơn giản thường nhật, chẳng muốn bọn gia nhân vụng về đi quẩn đi quanh để rồi đánh vỡ mấy bình cổ trân quý! Ban đêm không có ai làm phiền thảo dân, vì đứa tiểu nhị chỉ đến vào ban ngày. Đó là đời sống mà thảo dân hằng mong ước, thưa ngài. Nhưng nó cũng khiến thảo dân trở nên xa lạ với thế thái nhân tình bên ngoài!"

(Tiện nội: Cách nói khiêm nhường chỉ vợ mình)

"Bản quan chỉ quan tâm đến những khách hàng của ngươi, Dương tiên sinh à. Chẳng hạn, ngươi thấy Biện Gia là người thế nào?"

Dương chưởng quỹ uống cạn chén trà, khoanh hai tay lại rồi đáp, "Thưa, Biện đại phu chuyên sưu tầm ngọc. Trên thế gian này, chuyện gì cũng có lý do của nó. Cổ ngọc được cho là sở hữu giá trị liên thành trong việc chữa bệnh, vì thế hầu hết các đại phu và dược sư đều quan tâm đến trân châu. Vị đại phu này có một bộ sưu tập khiêm tốn mà tinh túy. Ông ta khảo cứu các miếng ngọc, chứ chẳng để tâm đến việc bán lại kiếm lời. Về điểm này, Biện đại phu trái ngược hẳn với vị đồng sự là Quách Minh. Họ Quách thường mua các hạt châu quý, nhưng đơn thuần chỉ để đầu tư ngân lượng, có cơ hội là bán lại ngay với giá cắt cổ. Bản tính con buôn đã ăn sâu vào máu gã. Thỉnh thoảng Kha tiên sinh có mua ngọc của họ Quách. Còn thảo dân thì chẳng bao giờ, giá cao quá."

"Ta từng gặp Quách Minh. Hình như gã sống ở kinh thành", Địch Công bình phẩm.

"Bẩm, đúng là thế. Nhưng họ Quách chu du rất nhiều nơi và cứ khoảng hai tháng là gã lại viếng thăm Phổ Dương. Nhưng chuyện này ta bàn kín đáo thôi, thưa ngài!"

"Tại sao?"

Dương chưởng quỹ đáp lại với nụ cười ranh mãnh, "Thưa đại nhân, bởi vì họ Quách cũng cung cấp thảo dược cho các đối thủ cạnh tranh của Biện đại phu ở huyện này. Ngoài ra, gã đề nghị thảo dân giữ bí mật vì một lý do khác nữa. Quách Minh giải thích rằng cách đây vài năm, mình đã mua được một mảnh đất tiếp giáp rừng Mạn Đà La với giá rẻ, nhờ Biện đại phu làm người trung gian. Ông ta tin là gã mua địa sản chủ yếu để đầu tư. Nhưng thực ra, gã láu cá ấy thường xuyên cử thuộc hạ đến thu thập dược thảo ở bìa rừng. Nếu biết việc đó, dĩ nhiên Biện đại phu sẽ đòi gã một khoản tiền thưởng. Như thảo dân đã nói ban nãy, Quách Minh là một con buôn xảo trá đích thực!"

"Quả đúng là vậy", Huyện lệnh nói. Ông nhận ra Quách Minh, tuy không thực sự nói dối, nhưng đã thành công trong việc gây cho ông ấn tượng sai lầm về các hoạt động của gã. Và vì gã gian thương lịch lãm ấy chuyên thu thập cổ vật nhằm kiếm chác ngân lượng, gã hoàn toàn có thể thuê bọn Đổng Hạ đi dò la tìm kiếm các món hời, cũng như phục vụ các mục đích khác.

Ông hỏi, "Ngươi có tình cờ hay biết nơi họ Quách thường xuyên trú ngụ khi gã tới Phổ Dương này không?"

"Thưa, khi không ở trên thuyền mành thì gã thuê một buồng nghỉ ở khách điếm Bát Tiên." Họ Dương thêm lời với một nụ cười khinh khỉnh, "Một khách điếm bé tẹo và rẻ tiền."

"Ta biết nơi đó. Quách Minh rõ là một nam nhân keo kiệt."

"Bẩm đại nhân, kim ngân là tất cả lẽ sống của họ Quách. Gã chả quan tâm chút gì đến cổ vật, chẳng qua nó chỉ là một món sinh lời. Kha tiên sinh mới là nhà sưu tầm đồ cổ đích thực! Miễn là sở hữu được cực phẩm quý hiếm nhất, Kha Nguyên Lương chẳng bận tâm mình phải trả bao nhiêu! Và nam nhân may mắn đó lúc nào cũng rủng rỉnh tiền!"

Họ Dương trầm tư xoa cằm, đoạn rụt rè tiếp lời, "Còn thảo dân là sự pha trộn giữa hai nam nhân đó, ít nhiều là vậy. Công việc của thảo dân là giao thương cổ vật, dĩ nhiên rồi. Nhưng thỉnh thoảng thảo dân vẫn phải lòng một món đồ cổ nào đó và giữ riêng nó cho mình, quyết không nhượng lại với bất cứ giá nào. Và khi thảo dân già đi, điểm yếu này ngày càng tệ hơn. Trước kia, thảo dân ham mê thẩm định tất cả những tuyệt phẩm bảo vật trong bộ sưu tập của Kha tiên sinh, thường thăm viếng Kha gia ít nhất một lần mỗi tuần. Nhưng độ bốn hay năm năm trở lại đây, thảo dân chỉ đến đó khi được mời và chẳng bao giờ đi xa hơn khách sảnh. Thảo dân từ chối thưởng lãm bộ sưu tập của gia chủ. Chỉ vì lòng ghen tỵ, tất cả chỉ có thế thôi!"

Dương chưởng quỹ lắc đầu với một nụ cười uể oải. Đột nhiên ông ta hỏi, "Thưa, tiện đây cho kẻ hèn này hỏi, đại nhân đã khám phá ra manh mối nào về vụ mưu sát Đổng Mai, trống thủ trên thuyền của Biện đại phu chưa?"

"Vẫn chưa. Như bản quan vừa nói, đây là một vụ án mơ hồ khó tường tận được chân tơ kẽ tóc. Trở lại với Kha tiên sinh, ta thường được nghe rằng y sở hữu một bộ sưu tập vô cùng tinh tế. Nam nhân này cũng có con mắt nghệ thuật tinh đời, cứ nhìn cách y chọn thê tử là thấy. Mặc dù đau ốm suốt một thời gian dài, đại phu nhân Kim Liên vẫn là một trang tuyệt sắc giai nhân. Tối qua, ta đã tình cờ gặp nàng. Còn về nhị phu nhân Hổ Phách, phải nói rằng nàng cũng có dung mạo mỹ miều, thế gian này ít đóa hoa nào bì kịp."

Họ Dương nhấp nhổm vẻ khó chịu trên ghế. Một hồi sau, ông ta lên tiếng, cứ như thể đang độc thoại với chính mình, "Đôi mắt của Kha Nguyên Lương không bao giờ đánh lừa chủ. Thảo dân nhớ hồi phu nhân Hổ Phách còn là một nô tỳ nhỏ lóng ngóng vụng về ở Đổng gia. Nhưng Kha tiên sinh đã mua lại Hổ Phách, dạy bảo nàng nên vận xiêm y nào, tô son điểm phấn ra sao, cả cách sửa soạn đầu tóc và xức dầu thơm. Chính tay tiên sinh đã lựa chọn cho nàng nào hoa tai, nào vòng xuyến và các món nữ trang lộng lẫy khác. Chỉ sau một năm, nàng đã lột xác trở thành một mỹ nhân tuyệt sắc. Nhưng tạo hóa trớ trêu, thiên mệnh đã định đoạt rằng họ Kha không xứng đáng sở hữu cả hai giai nhân ấy. Giờ thì phu nhân Kim Liên bệnh tật triền miên, còn phu nhân Hổ Phách đã về nơi chín suối."

Họ Dương mơ hồ nhìn về phía trước, trầm ngâm giật hàm râu ngắn.

"Cũng không phải không có lý do", Địch Công nói, "tiền nhân đã nói rằng những người như Kha Nguyên Lương, vì ra sức sở hữu cái đẹp không tì vết, nên đã kích động ngọn lửa giận dữ của các vị thần."

Dương chưởng quỹ dường như không nghe thấy lời bình phẩm. Bất chợt ông ta nhìn thẳng vào Huyện lệnh và cất cao giọng, "Không, thưa đại nhân, Kha Nguyên Lương không hề xứng đáng với giai nhân! Vì chúng ta đang trò chuyện thân mật, thảo dân tiết lộ rằng họ Kha là một nam nhân trái tính trái nết. Để thảo dân kể một chuyện. Có lần, tiên sinh đưa ra một cực phẩm vô giá đến từ Ba Tư, đó là một cái bát pha lê trong như nước. Trong khi đang ngưỡng mộ xoay nó trên tay để ngắm nghía, thảo dân chỉ để ý thấy một vết bạc màu gần đáy bát. Vừa chỉ ra cho họ Kha, thảo dân vừa bình phẩm với một nụ cười, 'Đây, một nét chấm phá cho một vẻ đẹp hoàn mỹ!' Tiên sinh liền giật phắt chiếc bát từ tay thảo dân, nhìn vào tì vết ấy, rồi đập nó xuống sàn vỡ tan tành. Quả là một tội ác, thưa đại nhân!"

"Quách Minh sẽ không bao giờ hành xử như vậy!" Địch Công nói khô khan. "Ngay cả Biện đại phu cũng không làm thế, bản quan dám chắc như vậy. Nhân nói đến Biện Gia, ta nghe ai đó nói rằng vị đại phu này, tuy cung cách bề ngoài đường hoàng nghiêm nghị là thế, nhưng thật ra là một kẻ phóng đãng, dĩ nhiên là trong vòng cương tỏa bí mật thôi."

"Thưa, thảo dân chưa bao giờ nghe nói về việc Biện đại phu lui tới những chốn thanh lâu kĩ viện. Mà nếu ông ta có đến đó đi chăng nữa, cũng chẳng ai trách cứ gì đâu. Dân tình đều biết Biện phu nhân là một nữ nhân ác nghiệt có tiếng ở trấn Phổ Dương. Mặc dù chẳng thể rặn nổi mụn nhi tử nào, bà ta cấm không cho phu quân lập nhị thất hay nạp tiểu thiếp."

Dương chưởng quỹ lắc đầu, đoạn ngước lên và mau mắn nói thêm, "Nhưng họ Biện là một vị trượng phu chung thủy và chân thành. Ông ta chịu đựng những nỗi đau đó trong âm thầm."

"Bản quan cũng nghe bách tính đồn thổi là Biện đại phu đang lâm vào cảnh túng thiếu."

Vị thương gia đồ cổ quắc mắt nhìn ông.

"Bẩm, túng thiếu sao? Thảo dân mong là không phải! Biện đại phu nợ thảo dân khá nhiều ngân lượng. Không, thảo dân không tin. Biện Gia là một vị đại phu có tiếng, y quán của ông ta làm ăn rất phát đạt, tất cả thân hào nhân sĩ ở Phổ Dương đều lui đến đó khám chữa bệnh, ông ta còn thường xuyên cắt thuốc cho đại phu nhân của Kha gia nữa."

Huyện lệnh gật đầu, uống cạn trà, rồi cẩn thận đặt cái chén mỏng manh như vỏ trứng xuống bàn. Ông lặng lẽ vuốt bộ râu đen nhánh trong một lúc.

Cuối cùng, Địch Công ướm hỏi, "Bây giờ, bản quan muốn hỏi ý kiến ngươi về một vấn đề hoàn toàn khác. Dĩ nhiên ngươi quá quen thuộc với câu chuyện nổi tiếng về viên ngự châu bị đánh cắp gần trăm năm trước rồi. Vậy ngươi có bất cứ giả thuyết nào về bí ẩn cổ xưa ấy không?"

"Bẩm, cấm quân đã xới tung cả Hoàng cung Đại nội lên rồi mà minh châu vẫn biệt tăm biệt tích. Thảo dân tin rằng thủ phạm không phải ai khác ngoài Hoàng hậu nương nương. Bậc mẫu nghi thiên hạ ấy đã lén giấu ngự châu đi, chỉ để có cơ hội thanh trừng một vài tình địch, những cung phi đang được Hoàng đế sủng ái, đem họ ra tra khảo cho đến chết! Đạt được mục đích, nương nương bèn ném viên ngọc đi, xuống giếng sâu chẳng hạn. Biết bao thảm kịch đã xảy ra đằng sau những cánh cổng vàng của tam cung lục viện! Với lại, ai lại đi ăn trộm một thứ mà mình chẳng bao giờ có thể bán lại?"

"Dương tiên sinh cứ giả định là viên ngọc đã thực sự bị đánh cắp đi. Chả lẽ hoàn toàn không có cách nào chuyển minh châu thành ngân lượng được à?"

"Thưa, chuyện đó là vô phương, chừng nào ngự châu vẫn ở trong thiên hạ của Đại Đường. Nhưng nếu tên đạo chích đó có quan hệ tốt với các lái thương Uy Mã Á hoặc Ba Tư ở Quảng Châu, hắn có thể bán minh châu với giá rẻ chỉ bằng một phần giá trị thực, để rồi sau đó viên ngọc sẽ được bán lại ở một man quốc xa xôi nào đấy. Đó là cách duy nhất. Chỉ có cách đó mới có thể kiếm lời từ ngự châu mà không chịu cảnh máu chảy đầu rơi."

(Uy Mã Á (661-750): Một vương triều Hồi giáo Ả Rập do các khalip (vua Hồi) cai trị)

"Bản quan rõ rồi. À, giờ ta phải lên đường để chuẩn bị cho phiên thăng đường trưa nay. Tiện thể đây cho hỏi, ngươi đã bao giờ đến thăm ngôi miếu đổ nát ở rừng Mạn Đà La chưa?"

Dương chưởng quỹ xịu mặt, "Bẩm đại nhân, tiếc là thảo dân chưa có cơ hội. Không có nổi một con đường tử tế đi xuyên qua rừng rậm, chưa kể dân địa phương rất căm ghét việc ngoại nhân thâm nhập. Dù thế, thảo dân vẫn có một cuốn chỉ dẫn về ngôi miếu này."

Ông ta đứng dậy, đi về phía giá sách để lấy xuống một quyển, rồi trao nó cho Huyện lệnh.

"Thưa, quyển sách này được một vị tiền nhiệm của ngài xuất bản nội bộ."

Địch Công đọc lướt qua quyển sách rồi trả lại. "Bản quan cũng có quyển này ở nha phủ. Sách này khá thú vị. Nó miêu tả rất chính xác về bức tượng nữ thần bằng đá cẩm thạch."

"Thưa, giá mà thảo dân có thể ngắm nhìn bức tượng một lần!" Vị thương gia đồ cổ nói vẻ khao khát. "Thiên hạ đồn rằng pho tượng có từ Hán triều. Nó cùng bệ đá được điêu khắc từ một khối cẩm thạch duy nhất. Án thờ vuông vức trước pho tượng cũng được tạc bằng đá cẩm thạch, đó là nơi người ta hạ sát một nam tử để cúng tế thần linh. Một thánh tích quan trọng của lịch sử! Liệu đại nhân có thể đệ trình lên Bộ Lễ để họ cho phát quang khu rừng và trùng tu lại ngôi miếu? Nếu Bộ Lễ giải thích rằng các điềm gở là dấu hiệu cho thấy nữ thần đang nổi giận về việc bỏ bê miếu thờ, bách tính địa phương sẽ không phản đối kế hoạch ấy đâu. Ngôi miếu ấy có thể trở thadnh một di tích lịch sử của huyện chúng ta, thưa ngài!"

"Quả là một đề xuất tuyệt vời. Bản quan sẽ ghi nhớ. Ta không muốn trong địa hạt của mình có một khu vực giới nghiêm bị tấm màn mông lung thần bí che phủ. Chỉ có trời mới biết chuyện gì có thể xảy ra trong đó!"

Ông đứng dậy và thêm lời, "Xin đa tạ tấm thịnh tình của Dương tiên sinh!"

Trong lúc dẫn đường cho Huyện lệnh xuống dưới nhà, họ Dương nói, "Thưa, chốc nữa thảo dân cũng sẽ tới nha phủ. Tất cả những người có liên quan đến nạn nhân đều là khách hàng của cửa hiệu này, vì thế thảo dân cảm thấy mình có bổn phận tham dự phiên thăng đường xét xử!"