← Quay lại trang sách

Thứ Năm

Có người mới chuyển đến làng.

Người mới luôn khiến Bọn Chúng (*) bận tâm và suy đoán, nhưng lần này Pepper có mấy tin khá ấn tượng.

“Cô ta chuyển đến Nhà Hoa Nhài và cô ta là phù thủy,” con bé nói. “Tao biết vì bà Henderson dọn dẹp ở đó và kể với mẹ tao là cô ta đặt mua báo phù thủy. Cô ta cũng đặt mua báo thường nữa, nhưng cô ta có một tờ báo đặc biệt của phù thủy.”

“Bố tao bảo trên đời làm gì có phù thủy,” Wensleydale nói. Nó có mái tóc sáng màu lượn sóng và luôn nghiêm trang nhìn cuộc đời qua cặp kính gọng đen dày cộp. Có tin đồn là nó đã được rửa tội với cái tên Jeremy, nhưng không ai dùng cái tên đó, kể cả bố mẹ nó cũng chỉ gọi nó là Nhóc Tì. Họ làm vậy với niềm hy vọng tiềm thức là nó sẽ hiểu lời gợi ý đó; Wensleydale gây ấn tượng là nó được sinh ra với tâm hồn bốn mươi bảy tuổi.

“Tao không hiểu sao lại không được,” Brian nói, nó có khuôn mặt tròn, tươi vui, dưới một lớp ghét dường như luôn thường trực. “Tao không hiểu sao phù thủy lại không được có báo riêng. Với tin tức về các phép thuật mới nhất, đại loại thế. Bố tao đặt mua Báo Câu cá, và tao dám cá là có nhiều phù thủy hơn người câu cá.”

“Tờ báo tên là Tin tức tâm linh,” Pepper xen vào.

“Đây không phải là phù thủy,” Wensleydale nói. “Dì tao cũng có báo đấy. Đây chỉ toàn những chuyện uốn thìa với cả bói toán và những người nghĩ kiếp trước họ là Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất thôi. Thật ra, chẳng còn phù thủy nữa đâu. Người ta phát minh ra thuốc men và các thứ đại loại thế và bảo phù thủy là không cần đến họ nữa rồi bắt đầu thiêu sống họ.”

“Nó có thể có ảnh ếch và các thứ,” Brian nói, không muốn bỏ phí một ý tưởng hay. “Và... và các vụ bay thử chổi. Và một mục chuyên về mèo.”

“Lỡ dì mày là phù thủy thì sao,” Pepper nói. “Kiểu bí mật ấy. Ban ngày dì ấy là dì mày, còn ban đêm là phù thủy.”

“Dì tao thì không,” Wensleydale lầm lầm nói.

“Và công thức nấu ăn nữa,” Brian nói. “Các cách dùng cóc thừa.”

“Dào, im đi,” Pepper nói.

Brian khịt mũi. Nếu Wensley là người nói câu vừa rồi thì sẽ có một trận ẩu đả miễn cưỡng, như giữa bạn bè với nhau. Nhưng những đứa Bọn Chúng khác đã biết từ lâu rằng Pepper không coi mình bị ràng buộc bởi những thỏa thuận ngầm của các cuộc ẩu đả thân thiện. Nó có thể đá và cắn một cách chính xác không ngờ so với một con bé mười một tuổi. Hơn nữa, dù mới mười một tuổi, Bọn Chúng đã bắt đầu bị bối rối bởi cái ý niệm lờ mờ là chạm tay vào con bé Pep sẽ làm chúng bị hồi hộp bồn chồn theo một cách mà chúng còn chưa thực sự quen, ngoài việc phải hứng một cú đá nhanh như cắt sẽ hạ đo ván được cả Cậu bé Karate.

Nhưng có con bé trong nhóm cũng tốt. Chúng tự hào nhớ lại cái lần Johnson Bụng Mỡ (*) và nhóm của nó đã khích đểu chúng vì chơi với con gái. Pepper đã nổi cơn điên đến mức tối hôm đó mẹ Bụng Mỡ phải sang nhà nó than phiền.

Pepper coi nó, một thằng đực rựa khổng lồ, là một kẻ thù tự nhiên.

Con bé có mái tóc đỏ cắt ngắn và khuôn mặt không hẳn là đầy tàn nhang mà đúng hơn là một mảng tàn nhang lớn thỉnh thoảng điểm vài mẩu da.

Tên thật của Pepper là Pippin Galadriel Moonchild. Nó được trao cho những cái tên này trong một lễ đặt tên ở một cánh đồng thung lũng bùn lầy có ba con cừu ốm và mấy túp lều bạt bị dột. Mẹ nó đã chọn cái thung lũng Pant-y-Gyrdl (*) ở xứ Wales làm địa điểm lý tưởng để Trở về với Thiên nhiên. (Sáu tháng sau, ngấy lên tận cổ vì mưa, muỗi, đám đàn ông, những con cừu giẫm bẹp cả lều và ăn mất đầu tiên là vườn cần sa và sau đó là chiếc xe buýt mini cổ lỗ sĩ của họ, và giờ đã bắt đầu hiểu tại sao gần như toàn bộ xu thế của lịch sử loài người là sự nỗ lực để rời khỏi Thiên nhiên càng xa càng tốt, mẹ Pepper liền quay về với ông bà ngoại đang ngạc nhiên của nó ở Tadfield, mua một cái áo nịt ngực, và đăng ký một khóa xã hội học với một tiếng thở dài nhẹ nhõm.)

Chỉ có hai cách mà một đứa bé có thể sống với một cái tên như là Pippin Galadriel Moonchild, và Pepper đã chọn cách kia: ba đứa con trai trong Bọn Chúng đã học được điều này vào ngày đầu tiên đi học, trên sân trường, năm chúng lên bốn.

Chúng hỏi con bé tên nó là gì, và hết sức ngây thơ, nó cho chúng biết.

Sau đó họ phải dùng một xô nước mới gỡ được răng của Pippin Galadriel Moonchild ra khỏi giày của Adam. Cặp kính đầu tiên của Wensleydale bị vỡ, và áo len của Brian phải khâu năm mũi.

Bọn Chúng thân với nhau từ đó, và Pepper mãi mãi là Pepper, ngoại trừ với mẹ nó, và (khi chúng cảm thấy dạn dĩ đặc biệt, và Bọn Chúng không ở trong tầm tai) Johnson Bụng Mỡ cùng hội Johnsonite, băng đảng còn lại của làng.

Adam gõ gót giày vào mép thùng sữa dùng làm ghế ngồi, lắng nghe cuộc cãi cọ này với vẻ thư thái của một vị vua lắng nghe những lời tán chuyện vơ vẩn của các quần thần.

Nó biếng nhác nhai một cọng rơm. Đang là sáng thứ Năm. Những ngày hè trải dài trước mặt, vô tận và vẹn nguyên, chúng cần được lấp đầy.

Nó để cho cuộc trò chuyện trôi nổi quanh mình như tiếng vo vo của bầy châu chấu hay, chính xác hơn, như một người đào vàng đang quan sát đống cát sỏi xoáy tròn để tìm một ánh vàng hữu ích lóe lên.

“Báo Chủ nhật của nhà tao nói nước mình có hàng ngàn mụ phù thủy,” Brian nói. “Thờ Thiên nhiên và ăn thức ăn lành mạnh và đại loại thế. Thế nên tao chẳng hiểu sao mình lại không thể có một mụ ở đây. Họ đang tạo ra một Làn sóng Xấu xa Ngu muội nhấn chìm nước ta, trên báo bảo thế.”

“Sao, chỉ bằng việc thờ Thiên nhiên và ăn thức ăn lành mạnh thôi á?” Wensleydale hỏi.

“Thì trên báo bảo thế mà.”

Bọn Chúng ngẫm nghĩ về việc này hồi lâu. Chúng đã từng - do Adam đầu têu - thử một chế độ ăn uống lành mạnh suốt một buổi chiều. Phán quyết của chúng là ta có thể sống rất ổn bằng thức ăn lành mạnh, với điều kiện ta đã được ăn một bữa trưa nóng sốt no nê trước đó.

Brian cúi về phía trước vẻ bí mật.

“Và trên báo còn nói họ nhảy múa mà không mặc quần áo nữa,” nó nói thêm. “Họ lên đồi rồi đến Stonehenge và các chỗ kiểu thế, và nhảy múa mà không mặc quần áo gì cả.”

Lần này cuộc ngẫm nghĩ có vẻ trầm tư hơn. Bọn Chúng đang ở vào vị trí mà có thể tạm gọi là nơi tàu lượn Cuộc sống đã gần hoàn thành cú leo dài lên ngọn dốc đầu tiên của tuổi dậy thì, để chúng có thể nhìn xuống chặng đường dốc đứng trước mặt, đầy rẫy những bí hiểm, kinh hoàng và những khúc cua thú vị.

“Hờ,” Pepper nói.

“Dì tao thì đừng hòng,” Wensleydale nói, phá vỡ cảnh im lìm. “Chắc chắn là không. Dì cứ tìm cách nói chuyện với cậu tao thôi.”

“Cậu mày chết rồi còn gì,” Pepper nói.

“Dì nói cậu vẫn làm xê dịch ly rượu,” Wensleydale vặc lại. “Bố tao bảo cậu chết chính vì cứ xoay ly như thế đấy. Chẳng hiểu sao dì muốn nói chuyện với cậu làm gì,” nó thêm vào, “hồi cậu còn sống hai người có nói gì mấy với nhau đâu.”

“Đấy là thuật gọi hồn,” Brian nói. “Trong Kinh Thánh có nói đến. Dì ấy phải thôi đi. Chúa cấm tiệt thuật gọi hồn. Và phù thủy. Nếu làm là sẽ bị đày xuống Địa ngục đấy.”

Trên cái ngai thùng sữa, Adam lười nhác đổi tư thế. Nó sắp lên tiếng.

Bọn Chúng liền im lặng, chúng thấy điều Adam nói luôn đáng nghe. Sâu thẳm trong thâm tâm, Bọn Chúng biết chúng không phải là một băng bốn đứa. Chúng là một băng ba đứa, do Adam làm chủ. Nhưng nếu muốn có sự phấn khích, thú vị, và những ngày tháng đầy trò vui, thì đứa nào trong Bọn chúng cũng quý trọng địa vị thấp kém trong băng của Adam hơn là vị trí đứng đầu bất kỳ băng nào ở bất kỳ đâu khác.

“Tao chả hiểu sao mọi người lại sợ phù thủy thế,” Adam nói.

Bọn Chúng liếc nhìn nhau. Nghe có vẻ có triển vọng đây.

“Ờ thì họ làm hỏng mùa màng,” Pepper nói. “Và đánh chìm tàu bè. Và cho mày biết mày sẽ lên làm vua và đại loại thế. Và nấu các thứ bằng thảo mộc.”

“Mẹ tao cũng dùng thảo mộc,” Adam nói. “Mẹ mày cũng thế.”

“À, các thứ thảo mộc đó thì không sao,” Brian nói, quyết tâm không để mất vị trí chuyên gia huyền học. “Tao đoán Chúa bảo dùng các thứ bạc hà và lá xô thơm thì không sao. Chẳng có vấn đề gì với bạc hà và lá xô cả, cũng hợp lý thôi.”

“Và họ có thể làm mày bị ốm chỉ bằng cách nhìn vào mày,” Pepper nói. “Gọi là Mắt Quỷ. Họ nhìn mày một cái, thế là mày bị ốm và không ai biết vì sao. Và họ làm hình nộm của mày rồi đâm kim vào đó, thế là mày sẽ bị đau ở đúng chỗ kim chọc vào,” con bé hớn hở nói thêm.

“Những chuyện đó không xảy ra nữa đâu,” Wensleydale, người có đầu óc lý trí, cãi lại. “Vì chúng ta đã phát minh ra Khoa học và các mục sư đã thiêu sống phù thủy vì lợi ích của họ. Nó gọi là Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.”

“Thế thì tao nghĩ chúng mình nên tìm hiểu xem cái cô ở Nhà Hoa Nhài có phải là phù thủy không, nếu đúng thì mình phải báo với lão Pickersgill,” Brian nói. Ông Pickersgill là mục sư. Hiện giờ ông đang bất đồng với Bọn Chúng về nhiều vấn đề từ chuyện trèo lên cây thủy tùng trong nghĩa địa đến việc rung chuông rồi chạy mất.

“Tao nghĩ chuyện thiêu sống người khác là không được phép,” Adam nói. “Nếu không người ta sẽ làm thế suốt ngày.”

“Nếu mày theo đạo thì không sao,” Brian quả quyết. “Và việc đó sẽ giúp phù thủy không bị đày xuống Địa ngục, nên tao đoán là nếu hiểu ra thì họ sẽ rất biết ơn đấy.”

“Lão Picky còn xơi mới dám thiêu sống ai,” Pepper nói.

“Ờ, ai mà biết được đấy,” Brian nói đầy ẩn ý.

“Không phải là thiêu họ bằng lửa thật đâu,” Pepper khịt mũi. “Chắc ông ấy sẽ chỉ mách bố mẹ họ và để bố mẹ họ tự quyết định xem có đem ai đi thiêu không.”

Bọn Chúng lắc đầu bực bội vì sự đi xuống trong chuẩn mực trách nhiệm của giáo hội. Rồi ba đứa kia nhìn Adam vẻ chờ đợi.

Chúng luôn nhìn Adam vẻ chờ đợi. Nó mới là đứa có nhiều ý tưởng.

“Có lẽ bọn mình nên tự làm,” nó nói. “Ai đó phải làm gì đó nếu bọn phù thủy cứ chạy nhông nhông khắp nơi như thế. Giống như... giống như đội Dân phòng Xóm phố ấy.”

“Đội Dân phòng Phù thủy,” Pepper gợi ý.

“Không,” Adam lạnh lùng nói.

“Nhưng bọn mình không thể là Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha được,” Wensleydale nói. “Bọn mình có phải người Tây Ban Nha đâu.”

“Tao cá là không cứ phải là người Tây Ban Nha mới làm Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha được,” Adam nói. “Tao cá là giống như trứng kiểu Scot hay burger kiểu Mỹ ấy. Nó chỉ cần nhìn có vẻ Tây Ban Nha thôi. Bọn mình chỉ cần làm cho nó nhìn có vẻ Tây Ban Nha thôi. Thế là ai cũng biết đó là Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.”

Im lặng hồi lâu.

Sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng sột soạt của một trong những vỏ bao bim bim rỗng luôn dồn đống lại bất kỳ chỗ nào Brian ngồi. Chúng nhìn nó.

“Tao có một tờ áp phích đấu bò tót có tên tao trên đấy,” Brian chậm rãi nói.

Giờ ăn trưa đến rồi đi. Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha mới được tái triệu tập.

Quan tòa Tối cao soi xét từng thứ một.

“Đấy là cái gì?” nó gặng hỏi.

“Dùng để gõ vào nhau khi nhảy,” Wensleydale nói, vẻ hơi chống đối. “Dì tao mua từ Tây Ban Nha về mấy năm trước. Gọi là maracas hay sao ấy. Trên còn vẽ hình vũ công người Tây Ban Nha đây này, nhìn xem.”

“Sao cô ta lại nhảy múa với con bò?” Adam hỏi.

“Đấy là để cho có vẻ Tây Ban Nha,” Wensleydale đáp. Adam cho qua.

Tấm áp phích đấu bò đúng như Brian đã hứa.

Pepper đem đến một thứ nhìn như cái đĩa đựng nước xốt đan bằng mây.

“Đây là để bỏ chai rượu vào,” nó gân cổ nói. “Mẹ tao mua từ Tây Ban Nha về đấy.”

“Trên đó không có hình con bò,” Adam nghiêm khắc nói.

“Không cần,” Pepper cãi, dịch chân một chút để chuyển sang tư thế tấn công.

Adam ngần ngừ. Chị gái nó, Sarah, và bạn trai cũng đã đi Tây Ban Nha. Sarah đã đem về một con lừa đồ chơi to màu tím, mặc dù nhìn rất Tây Ban Nha, nhưng không đạt đến cái mức mà Adam, theo bản năng, nghĩ là Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha nên có. Cậu bạn trai thì lại đem về một thanh gươm rất cầu kỳ, tuy luôn cong vẹo đi khi được cầm lên và cùn đến độ chẳng rọc nổi giấy, vẫn được tuyên bố là làm bằng thép Toledo. Adam đã dành nửa tiếng đồng hồ tìm hiểu với cuốn bách khoa toàn thư và cảm thấy đây chính là cái mà Tòa án Dị giáo cần. Nhưng những lời gợi ý bóng gió đã không có hiệu quả.

Cuối cùng Adam đành phải lấy một nhúm hành từ bếp. Chúng rất có thể là hành Tây Ban Nha. Nhưng ngay cả Adam cũng phải thừa nhận rằng, để trang trí cho dinh cơ của Tòa án Dị giáo thì nhúm hành vẫn còn thiếu sót. Nó chẳng có cơ sở nào để tranh cãi kịch liệt về giá đựng rượu bằng mây cả.

“Tốt lắm,” nó nói.

“Mày chắc đây là hành Tây Ban Nha đấy chứ?” Pepper hỏi, thư giãn hơn.

“Tất nhiên,” Adam nói. “Hành Tây Ban Nha. Ai mà chả biết.”

“Chúng có thể là hành Pháp,” Pepper bướng bỉnh nói. “Pháp rất nổi tiếng về hành.”

“Không quan trọng,” Adam nói, nó đã chán ngấy món hành. “Pháp cũng gần như là Tây Ban Nha rồi, và tao nghĩ phù thủy không phân biệt được đâu, họ còn bận cưỡi chổi bay suốt đêm cơ mà. Với phù thủy thì chỗ nào cũng là Continong (*) hết. Mà nếu mày không thích thì tự đi mà lập Tòa án Dị giáo của riêng mày ấy.”

Lần này Pepper không cãi nữa. Nó đã được hứa dành cho chức Hình quan. Không có nghi ngờ gì về việc ai sẽ giữ chức Quan tòa Tối cao. Wensleydale và Brian thì không thích thú lắm với chức Lính gác Tòa.

“Ờ, tại bọn mày không biết tiếng Tây Ban Nha,” Adam nói, nó đã dành mười phút trong lúc ăn trưa với một cuốn từ điển cụm từ mà Sarah đã mua trong một cơn lãng mạn mờ mắt ở Alicanté.

“Không quan trọng, vì thực ra mày phải nói tiếng Latinh cơ,” Wensleydale nói, nó cũng đã đọc một chút trong giờ ăn trưa nhưng với thông tin chính xác hơn.

“ Và tiếng Tây Ban Nha nữa,” Adam quả quyết. “Chính vì thế nó mới là Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.”

“Tao không hiểu sao mình lại không được làm Tòa án Dị giáo Anh quốc,” Brian nói. “Sao mình đã phải đánh bại Hạm đội Tây Ban Nha (*) chỉ để phải nhận cái Tòa án Dị giáo hôi hám của họ.”

Việc này cũng đã khiến lòng ái quốc của Adam hơi băn khoăn.

“Tao nghĩ là,” nó nói, “bọn mình nên bắt đầu kiểu Tây Ban Nha, rồi biến nó thành Tòa án Dị giáo Anh quốc sau khi mình đã thành thạo. Và giờ thì,” nó nói thêm. “Lính gác Tòa án hãy đem mụ phù thủy đầu tiên đến đây, por favor (*) .”

Chúng đã quyết định là người mới đến ở Nhà Hoa Nhài sẽ phải đợi. Chúng cần bắt đầu với nạn nhân nhỏ hơn và tiến dần lên.

“Ngươi có phải phù thủy không, oh lay (*) ?” Quan tòa Tối cao hỏi.

“Có ạ,” em gái của Pepper nói, con bé mới lên sáu và trông như một quả bóng nhỏ có mái tóc vàng.

“Mày không được nói là có, phải nói là không,” Hình quan rít lên, khẽ huých nghi phạm một cái.

“Rồi sao nữa?” nghi phạm hỏi.

“Rồi bọn tao sẽ tra tấn mày để bắt mày nói có,” Hình quan nói. “Tao đã bảo rồi mà. Tra tấn vui lắm. Không đau đâu. Hastar lar visa (*) ,” nó vội thêm vào.

Nghi phạm nhỏ bé ngắm những vật trang trí của trụ sở Tòa án bằng con mắt xem thường. Mùi hành bốc lên không lẫn đi đâu được.

“Hừ,” nó nói. “Em muốn làm phù thủy, mũi đầy mụn cóc, da xanh, với một con mèo, em sẽ đặt tên nó là con Mực, và thật nhiều bùa mê thuốc lú và...”

Hình Quan gật đầu với Quan tòa Tối cao.

“Nghe này,” Pepper tuyệt vọng nói, “không ai bảo mày không được làm phù thủy cả, mày chỉ phải nói là mày không phải phù thủy. Bọn tao phải nhọc công thế này làm gì,” nó gay gắt nói thêm, “nếu mày cứ chưa đánh đã khai rồi.”

Nghi phạm cân nhắc điều này.

“Nhưng em muốn làm phù thủy,” nó rền rĩ. Mấy đứa con trai trong Bọn Chúng nhìn nhau mệt mỏi. Việc này nằm ngoài khả năng của chúng.

“Nếu mày chịu nói không,” Pepper nói, “tao sẽ cho mày bộ đồ chơi chuồng ngựa Sindy. Tao còn chưa bao giờ chơi đến,” nó nói thêm, trừng mắt nhìn ba đứa Bọn Chúng thách chúng dám nói gì.

“Chị có chơi rồi,” em gái nó vặc lại. “Em đã thấy rồi, nó cũ cả rồi và chỗ bỏ cỏ khô vào còn bị gãy nữa...”

Adam khẽ ho một tiếng ra dáng quan tòa.

“Ngươi có phải phù thủy không, viva espana (*) ?” nó nhắc lại.

Con em gái liếc nhìn Pepper và quyết định không nên liều.

“Không ạ,” nó trả lời.

Màn tra tấn đó mới hay làm sao, đứa nào cũng nhất trí như vậy. Vấn đề là bắt mụ phù thủy nghi phạm xuống khỏi đó.

Đó là một buổi chiều nóng nực, và hai tên Lính gác Tòa án cảm thấy đang bị ngược đãi.

“Không hiểu sao tao và Đạo hữu Brian lại phải làm hết mọi việc,” Đạo hữu Wensleydale nói, lau mồ hôi trên trán. “Tao nghĩ đã đến lúc nó phải xuống và cho bọn tao đi một lượt rồi. Benedictine ina decanter (*) .”

“Sao lại dừng lại?” nghi phạm hỏi, nước tuôn ra khỏi giày.

Trong quá trình nghiên cứu, Quan tòa Tối cao đã nghĩ rằng có lẽ Tòa án Dị giáo Anh quốc chưa sẵn sàng để sử dụng thiết trinh nữ và lê thép (*) . Nhưng tranh minh họa của một cái ghế dìm thời Trung cổ đã khiến nó nghĩ đây đúng là thứ chúng cần. Ta chỉ cần một cái ao, mấy mảnh ván, và một sợi thừng. Đó là một sự kết hợp luôn hấp dẫn Bọn Chúng, vốn chẳng khó khăn gì để kiếm cả ba thứ.

Nghi phạm giờ đã xanh lè đến tận thắt lưng.

“Như là bập bênh ý,” con bé nói. “Aaaa!”

“Tao sẽ về nhà, trừ phi tao cũng được chơi,” Đạo hữu Brian lầm bầm. “Không hiểu sao mỗi mình bọn phù thủy xấu xa lại được chơi vui.”

“Quan tòa không được phép bị tra tấn,” Quan tòa Tối cao nghiêm nghị nói, nhưng không thật lòng lắm. Quả thực chiều hôm đó rất nóng, chiếc áo chùng quan tòa làm bằng bao tải cũ vừa ngứa vừa đầy mùi lúa mạch mốc, và cái áo nhìn hấp dẫn lạ kỳ.

“Được rồi, được rồi,” nó nói, và quay sang nghi phạm. “Ngươi là phù thủy, được chưa, không được làm thế nữa, giờ thì xuống đi cho người khác chơi với. Oh lay,” nó nói thêm.

“Giờ thì sao đây?” em gái Pepper hỏi.

Adam ngần ngừ. Thiêu sống con bé lúc này chắc sẽ gây nhiều rắc rối lắm, thằng bé lý luận. Hơn nữa, nó ướt sũng rồi, có thiêu cũng chẳng cháy.

Nó cũng lờ mờ nhận ra rằng một lúc nào đó trong tương lai sẽ có những câu hỏi tại sao giày lại dính bùn còn mấy cái váy hồng thì bám đầy bèo. Nhưng đó là tương lai, và tương lai còn nằm ở cuối một buổi chiều dài ấm áp có những mảnh ván, dây thừng, và ao nước. Tương lai có thể đợi được.

Tương lai đến rồi đi theo cái lối chán nản êm dịu quen thuộc của nó, nhưng ông Young có nhiều điều phải bận tâm hơn là mấy cái váy đầy bùn và chỉ cấm Adam xem tivi, có nghĩa là nó phải xem tạm cái tivi đen trắng cũ trong phòng.

“Tôi chẳng hiểu sao chúng ta phải cấm ống phun nước,” Adam nghe thấy ông Young nói với bà Young. “Tôi cũng trả tiền nước như mọi người mà. Cái vườn nhìn như sa mạc Sahara ấy. Tôi ngạc nhiên là trong ao vẫn còn nước cơ đấy. Tôi nghĩ là do ít thử vũ khí hạt nhân hơn. Hồi tôi còn bé, mùa hè mới đúng là mùa hè. Trời mưa suốt ngày.”

Giờ Adam một mình lừ đừ bước đi trên lối mòn đầy bụi. Đó là một dáng đi lừ đừ rất tuyệt. Adam có cách đi lừ đừ khiến tất cả những người có đầu óc nghiêm nghị đều thấy bất bình. Không chỉ là vì thằng bé để cả người mình thõng xuống. Nó có thể đi lừ đừ với các bộ điệu riêng, và giờ đôi vai khòm xuống của nó thể hiện nỗi đau buồn và hoang mang của những người đã bị ngăn cản một cách bất công khi đang nỗ lực quên mình để giúp đỡ đồng loại.

Bụi phủ dày trên các lùm cây.

“Cho mọi người đáng đời nếu bọn phù thủy chiếm cả nước này và bắt mọi người ăn thức ăn lành mạnh, không đi nhà thờ và nhảy múa mà không mặc quần áo,” nó nói, co chân đá một hòn sỏi. Nhưng nó phải thừa nhận là, ngoại trừ vụ thức ăn lành mạnh ra thì viễn cảnh đó cũng không đáng ngại cho lắm.

“Dám cá là nếu họ để bọn mình bắt đầu hẳn hoi thì bọn mình sẽ tìm được cả trăm mụ phù thủy ấy chứ,” nó tự nhủ, đá một hòn sỏi. “Dám cá là lão Tra-tấn-mada (*) không phải bỏ cuộc ngay khi mới bắt đầu chỉ vì một mụ phù thủy ngu ngốc nào đó bị bẩn váy.”

Chó ngoan ngoãn đi lừ đừ theo sau Chủ Nhân của mình. Trong phạm vi khả năng kỳ vọng của con chó địa ngục, thì đây dứt khoát không phải những gì nó hình dung về cuộc sống trong những ngày cuối cùng trước Tận thế, nhưng dẫu vậy, nó vẫn thấy rất khoái hiện tại.

Nó nghe thấy Chủ Nhân nói: “Dám cá là cả người thời Victoria cũng không bắt người ta phải xem tivi đen trắng.”

Hình dáng xác định bản chất. Có nhiều hành vi phù hợp với những chú chó loắt choắt bù xù mà thực ra đã nằm sẵn trong gien của chúng. Ta không thể mang hình dáng của một chú chó nhỏ mà lại vẫn giữ nguyên bản tính cũ; một tính cách chó-nhỏ nội tại nhất định sẽ thẩm thấu vào Bản Thể của ta.

Nó đuổi theo một con chuột. Đó là trải nghiệm khoái trá nhất đời của nó.

“Nếu tất cả chúng ta bị các Thế lực xấu xa đánh bại thì cũng đáng đời bọn họ,” Chủ Nhân nó lầm bầm.

Rồi còn bọn mèo nữa, Chó thầm nghĩ. Nó đã đánh động con mèo vàng to tướng nhà bên và đã tìm cách biến con mèo thành một đống mềm nhũn run rẩy bằng cách quen thuộc là trừng mắt nhìn chằm chằm và gầm gừ trong họng, cách đó trước kia luôn có tác dụng với những linh hồn bị đày xuống Địa ngục. Nhưng lần này cách đó chỉ khiến nó bị vả một cú vào mũi, chảy cả nước mắt. Chó nghĩ mèo rõ ràng là cứng cỏi hơn nhiều so với các linh hồn bị đày đọa. Nó mong chờ thí nghiệm thêm với mèo, mà nó định là sẽ bao gồm việc nhảy quanh và sủa oanh oách vào con mèo. Hơi xa vời, nhưng biết đâu sẽ thành công.

“Tốt hơn là đừng chạy đến tìm mình khi lão Picky bị biến thành ếch, thế thôi,” Adam lầm bầm.

Đến lúc này thì thằng bé chợt nhận ra hai điều. Điều thứ nhất là bước chân ảo nảo của nó đã đưa nó đi qua Nhà Hoa Nhài. Điều còn lại là ai đó đang khóc.

Adam luôn yếu mềm trước nước mắt. Nó ngần ngừ một thoáng, rồi thận trọng ngó qua hàng giậu.

Với Anathema, đang ngồi trên ghế xếp và đã dùng hết nửa gói khăn giấy Kleenex, thì cảnh tượng đó giống như một vầng mặt trời nhỏ lôi thôi vừa mọc lên.

Adam không nghĩ cô là phù thủy. Nó có mường tượng rất rõ ràng về phù thủy. Gia đình Young chỉ giới hạn ở lựa chọn duy nhất khả dĩ trong các báo Chủ nhật ưu tú, vì vậy Adam chẳng biết gì về một trăm năm môn huyền học được khai sáng. Cô không có mũi khoằm hay mụn cóc, và cô còn trẻ... ờ, khá trẻ. Với nó thế là đủ.

“Xin chào,” nó nói, đứng thẳng người lên.

Cô hỉ mũi và trố mắt nhìn nó.

Lúc này có lẽ ta nên miêu tả cái đang nhìn qua hàng giậu. Cái mà Anathema nhìn thấy, theo như sau này cô kể lại, là giống như một vị thần Hy Lạp chưa đến tuổi trưởng thành. Hoặc có lẽ là một hình minh họa trong Kinh Thánh, vẽ một thiên thần cơ bắp cuồn cuộn đang trừng phạt đích đáng ai đó. Đó là một khuôn mặt không thuộc về thế kỷ hai mươi. Nó được phủ một mớ tóc xoăn óng vàng. Hẳn khuôn mặt ấy là do Michelangelo tạc nên.

Nhưng có lẽ ông sẽ không thêm vào đôi giày thể thao cũ nát, cái quần bò sờn gấu, hay cái áo phông cáu bẩn.

“Em là ai?” cô hỏi.

“Em là Adam Young,” Adam đáp. “Nhà em ngay dưới kia.”

“À. ừ. Chị có nghe nói về em rồi,” Anathema vừa nói vừa chấm khăn lên mắt. Adam vênh mặt.

“Bà Henderson bảo chị phải để mắt coi chừng em,” cô nói tiếp.

“Em nổi tiếng quanh đây lắm,” Adam nói.

“Bà ấy bảo em sinh ra là để đi treo cổ,” Anathema nói.

Adam toét miệng cười. Tai tiếng không hay bằng nổi tiếng, nhưng còn tốt hơn chán vạn so với vô danh.

“Bà ấy bảo em là đứa nghịch nhất trong Bọn Chúng,” Anathema nói, có vẻ vui hơn. Adam gật đầu.

“Bà ấy bảo, ‘Cô phải coi chừng Bọn Chúng, cô ạ, chúng toàn là một đám đầu sỏ hết. Thằng nhóc Adam ấy chẳng khác gì Adam Ngày xưa (*) ,’” cô nói.

“Thế sao chị khóc?” Adam hỏi thẳng.

“Sao cơ? À, chị bị mất một thứ,” Anathema nói. “Một cuốn sách.”

“Em sẽ tìm giúp chị, nếu chị muốn,” Adam ga lăng nói. “Thật ra em biết nhiều về sách lắm. Em cũng đã từng viết một cuốn sách. Hay cực. Dài gần tám trang. Kể về một tên cướp biển cũng là một thám tử nổi tiếng, và em còn vẽ minh họa nữa.” Rồi, trong một khoảnh khắc hào phóng, nó nói thêm, “Nếu chị thích em sẽ cho chị đọc. Em cá là hay hơn nhiều so với bất kỳ cuốn sách nào chị từng mất. Nhất là đoạn trong tàu vũ trụ khi con khủng long xuất hiện và đánh nhau với đám cao bồi. Em cá là nó sẽ làm chị vui lên ngay, sách của em ấy. Nó làm thằng Brian vui cực. Nó bảo nó chưa bao giờ vui như thế.”

“Cảm ơn em, chị dám chắc là cuốn sách của em rất hay,” cô nói, chiếm được tình yêu mến trọn đời của Adam. “Nhưng chị không cần em tìm giúp cuốn sách đâu... chị nghĩ là đã quá muộn rồi.”

Cô trầm ngâm nhìn Adam. “Chị đoán là em biết rất rõ vùng này nhỉ?” cô nói.

“Hàng cây số xung quanh đây ấy chứ,” Adam nói.

“Em có thấy hai người đàn ông đi trên một chiếc ô tô đen to không?” Anathema hỏi.

“Họ ăn cắp cuốn sách của chị à?” Adam hỏi, đột nhiên đầy quan tâm. Chặn đứng một băng nhóm tội phạm chuyên ăn cắp sách xuyên quốc gia sẽ là một kết thúc tuyệt vời cho ngày hôm nay.

“Không hẳn. Đại loại thế. Ý chị là, họ không chủ định lấy nó. Họ đi tìm Dinh thự, nhưng hôm nay chị đã ghé qua đó mà không ai biết gì về họ cả. Hình như ở đó vừa xảy ra tai nạn hay sao ấy.”

Cô nhìn Adam chằm chằm. Ở thằng bé có vẻ gì rất lạ, nhưng cô không xác định nổi đó là cái gì. Cô chỉ có cảm giác cấp bách rằng thằng bé rất quan trọng và không được để nó tuột đi mất. Ở nó có gì đó...

“Cuốn sách tên là gì?” Adam hỏi.

“Những Lời Tiên tri Tuyệt đích và Chuẩn xác của phù thủy Agnes Nutter,” Anathema trả lời.

“Cái nào cơ (*) ?”

“Không. Phù thủy. Như trong Macbeth ấy,” Anathema nói.

“Em được xem rồi,” Adam nói. “Hay lắm, cái cách mấy ông vua ấy cứ đâm chém loạn xạ đi ấy. Trời, chúng thì có gì tuyệt?”

“Tuyệt đích có nghĩa là, ờ, rõ ràng. Hoặc chính xác.” Chắc chắn là có vẻ gì đó rất lạ. Một vẻ căng thẳng thư thái. Ta có cảm giác rằng khi thằng bé ở quanh thì tất cả mọi người khác, ngay cả cảnh trí, cũng chỉ để làm nền.

Cô đã ở đây được một tháng. Ngoại trừ bà Henderson, người trên danh nghĩa có nhiệm vụ dọn dẹp căn nhà và có lẽ sẽ lục lọi đồ đạc của cô nếu có nửa cơ hội, thì cô chưa trao đổi quá chục từ với bất kỳ ai khác. Cô để họ nghĩ rằng cô là một họa sĩ. Các họa sĩ thường thích kiểu thôn quê thế này.

Thật ra, nó đẹp chết đi được. Chỉ quanh ngôi làng này thôi, khung cảnh cũng thật tuyệt vời. Nếu Turner và Landseer đã gặp Samuel Palmer trong quán rượu mà trù tính với nhau, rồi nhờ Stubbs vẽ mấy con ngựa, thì nó cũng không thể đẹp hơn (*) .

Và điều đó thật đáng buồn, vì đây chính là nơi nó sẽ xảy ra. Ít ra là theo Agnes. Trong một cuốn sách mà cô, Anathema, đã để mất. Tất nhiên, cô vẫn còn các phiếu ghi, nhưng chúng vẫn không phải là cuốn sách.

Nếu Anathema kiểm soát được toàn bộ suy nghĩ của mình vào lúc đó - và không ai có thể kiểm soát được toàn bộ suy nghĩ khi ở cạnh Adam - thì cô sẽ nhận ra rằng bất kỳ khi nào cô cố nghĩ về thằng bé vượt qua mức bề mặt, thì ý nghĩ của cô liền trượt đi như nước trượt khỏi lông vịt.

“Ghê!” Adam nói, nó đã ngẫm nghĩ về những khả năng của một cuốn sách tiên tri tuyệt đích và chuẩn xác. “Nó cho biết ai sẽ thắng Giải Đua ngựa Quốc gia chứ?”

“Không,” Anathema đáp.

“Trong đó có tàu vũ trụ không?”

“Không nhiều lắm,” Anathema trả lời.

“Người máy?” Adam khấp khởi hỏi.

“Tiếc là không.”

“Em thấy thế chẳng có gì là tuyệt cả,” Adam nói. “Tương lai mà không có người máy với tàu vũ trụ thì còn cái gì nữa chứ.”

Khoảng ba ngày, Anathema ủ rũ nghĩ thầm. Tương lai chỉ còn khoảng ba ngày nữa thôi.

“Em có muốn uống nước chanh không?” cô mời.

Adam ngần ngừ. Rồi nó quyết định xông thẳng vào hang hùm.

“Chị nghe này, em xin lỗi vì phải hỏi, nếu đây không phải là câu hỏi quá riêng tư, nhưng chị có phải là phù thủy không?” nó nói.

Anathema nheo mắt. Thế mà cô cứ nghĩ bà Henderson mới là người tọc mạch đấy.

“Một số người sẽ nói thế,” cô nói. “Thật ra, chị là nhà huyền học.”

“Ồ. À. Thế thì không sao rồi,” Adam nói, vui vẻ hơn.

Cô nhìn nó từ đầu đến chân.

“Em biết nhà huyền học là gì chứ?”

“Có chứ ạ,” Adam tự tin đáp.

“Thôi, miễn em vui hơn là được rồi,” Anathema nói. “Vào nhà đi. Chị cũng muốn uống chút gì đó. Và... Adam Young này?”

“Sao ạ?”

“Em đang nghĩ ‘Mắt mình không sao cả, không cần đi khám’, phải không?” (*)

“Ai, em ấy à?” Adam nói vẻ tội lỗi.

Vấn đề nằm ở Chó. Nó không chịu vào nhà. Nó nằm phục trên ngưỡng cửa, gầm ghè.

“Vào đi, con chó ngốc này,” Adam nói. “Chỉ là Nhà Hoa Nhài thôi mà.” Thằng bé nhìn Anathema vẻ lúng túng. “Bình thường em nói gì là nó nghe lời ngay.”

“Em có thể để nó ngoài vườn cũng được,” Anathema nói.

“Không,” Adam nói. “Nó phải nghe lời. Em đã đọc được trong một cuốn sách. Huấn luyện là rất quan trọng. Con chó nào ta cũng có thể huấn luyện được, sách nói thế. Bố em bảo em chỉ được nuôi nó nếu nó được huấn luyện hẳn hoi. Nào, Chó. Vào trong nhà đi.”

Chó rên ư ử và nhìn thằng bé van lơn. Cái đuôi cụt của nó đập xuống sàn một, hai lần.

Giọng nói của Chủ Nhân nó.

Một cách hết sức miễn cưỡng, như thể đang đi ngược chiều một cơn cuồng phong, nó len lén bước qua ngưỡng cửa.

“Đấy,” Adam tự hào nói. “Ngoan lắm.”

Và thêm một chút Địa ngục bay đi ít nhiều...

Anathema đóng cửa lại.

Bên trên cửa Nhà Hoa Nhài luôn treo một chiếc móng ngựa, kể từ khi người đầu tiên đến thuê nhà từ nhiều thế kỷ trước; thời đó dịch hạch tràn lan khắp nơi, và ông ta nghĩ mình cứ được bảo vệ bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Chiếc móng ngựa đã gỉ sét và phủ đầy lớp sơn của bao thế kỷ. Vì vậy cả Adam lẫn Anathema đều không để ý đến nó hay nhận thấy nó đang nguội dần sau khi nóng trắng lên.

Cốc ca cao của Aziraphale đã nguội ngắt.

Âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng lật giở trang sách thỉnh thoảng vang lên.

Chốc chốc lại có tiếng cửa lạch xạch khi khách hàng của hiệu Sách Thân mật kế bên vào nhầm cửa. Y lờ nó đi.

Thỉnh thoảng y còn suýt nữa thì chửi thề.

◇ ❖ ◇

Anathema đã không thật sự sắp đặt căn nhà cho thoải mái. Phần lớn các dụng cụ của cô đều chất đống trên bàn. Nhìn chúng khá thú vị. Thật ra, nhìn như một thầy cúng voodoo vừa được mặc sức mua sắm trong một cửa hàng bán thiết bị khoa học vậy.

“Hay quá!” Adam reo lên, chọc chọc một cái. “Cái có ba chân này là gì ạ?”

“Máy kinh vĩ,” Anathema đáp từ trong bếp. “Dùng để tìm pháp mạch.”

“Thế pháp mạch là cái gì?” Adam hỏi.

Cô giải thích cho nó.

“Trời,” nó nói. “Có thật ạ?”

“Đúng thế.”

“Ở khắp nơi ạ?”

“Phải.”

“Em chưa bao giờ nhìn thấy. Hay thật, có những đường sức vô hình khắp xung quanh mà em không thấy được.”

Adam ít khi chịu lắng nghe, nhưng nó đã dành ra hai mươi phút chăm chú nhất trong đời nó, hay ít nhất là trong đời nó vào ngày hôm đó. Không ai trong gia đình Young gõ lên gỗ hay ném muôi qua vai (*) . Hành động duy nhất thừa nhận sự siêu nhiên là hồi Adam còn nhỏ, họ đã miễn cưỡng giả vờ là ông già Noel chui từ ống khói xuống. (*)

Thằng bé đã không được tiếp nhận cái gì huyền bí hơn so với một Lễ Mùa Gặt. Lời nói của cô tuôn vào đầu nó như nước tuôn lên một thếp giấy thấm.

Chó nằm dưới gầm bàn và gầm gừ. Nó đang bắt đầu nghi ngờ bản thân một cách nghiêm trọng.

Anathema không chỉ tin vào pháp mạch, cô còn tin vào hải cẩu, cá voi, xe đạp, rừng nhiệt đới, bánh mì nguyên cám, giấy tái chế, người Nam Phi da trắng phải rời khỏi Nam Phi, và người Mỹ phải rời khỏi gần như tất cả mọi nơi kể cả vùng Long Island. Cô không phân loại các niềm tin của mình. Chúng kết nối với nhau thành một niềm tin khổng lồ, liền mạch, mà nếu đem so sánh thì đức tin của Thánh Joan xứ Arc cũng sẽ chỉ giống như một ý tưởng vơ vẩn hời hợt. Nếu tính theo mức độ dời núi thì niềm tin của cô phải xê dịch được ít ra là 0.5 núi Alp. (*)

Adam thậm chí chưa từng nghe ai dùng từ môi trường. Rừng nhiệt đới Nam Mỹ với nó là một cuốn sách đóng kín, và cuốn sách đó còn không làm bằng giấy tái chế nữa.

Lần duy nhất nó ngắt lời là để đồng tình với cô về năng lượng hạt nhân: “Em đã đến một nhà máy điện hạt nhân rồi. Chán ngắt. Chẳng có khói xanh với các thứ sôi lục bục trong ống nghiệm gì cả. Lẽ ra không được thế, phải có các thứ sôi lục bục đúng kiểu trong ống nghiệm khi mọi người đến tham quan chứ, thế mà ở đây chỉ toàn các ông đứng quanh, thậm chí còn không mặc đồ vũ trụ nữa.”

“Họ làm các thứ sôi lục bục sau khi khách tham quan đã ra về,” Anathema quả quyết.

“Hừ,” Adam nói.

“Cần phải tống khứ họ ngay tức khắc.”

“Cho đáng đời cái tội không cho các thứ sôi lục bục,” Adam nói.

Anathema gật đầu. Cô vẫn đang cố xác định xem ở Adam có vẻ gì lạ thế, rồi đột nhiên cô nhận ra.

Thằng bé không có huyền quang.

Cô khá thông thạo về huyền quang. Cô có thể thấy chúng nếu cô nhìn đủ chăm chú. Chúng là một quầng sáng quanh đầu mọi người, và theo một cuốn sách cô đã đọc thì màu sắc sẽ cho cô biết về sức khỏe và thể trạng chung của họ. Ai cũng có huyền quang. Ở những người đầu óc nhỏ mọn hẹp hòi thì huyền quang chỉ là một vành sáng nhỏ, yếu ớt, còn những người cởi mở, sáng tạo thì huyền quang có thể tỏa rộng đến vài phân quanh cơ thể.

Cô chưa bao giờ nghe nói đến ai không có huyền quang, nhưng cô không thể thấy huyền quang quanh Adam. Thế nhưng thằng bé vẫn rất vui tươi, hăng hái, và cân bằng như một con quay hồi chuyển vậy.

Chắc tại mình mệt, cô thầm nghĩ.

Dù sao thì cô cũng mừng và hài lòng khi tìm được một học trò sốt sắng đến vậy, và thậm chí còn cho nó mượn mấy tờ Tập san Bảo Bình mới, một tạp chí nhỏ do bạn cô làm chủ biên.

Tờ tạp chí đã làm thay đổi cuộc đời thằng bé. Ít ra là thay đổi cuộc đời nó trong hôm đó.

Trước vẻ kinh ngạc hết sức của bố mẹ, nó đi ngủ sớm, rồi nằm trong chăn đến quá nửa đêm với cái đèn pin, đống tạp chí, và một gói kẹo chanh. Thỉnh thoảng một câu “Oách thật!” lại vang lên từ cái miệng đang nhai kẹo rau ráu của nó.

Khi đèn hết pin, nó chui ra khỏi chăn trong căn phòng tối và nằm ngửa, gối đầu lên hai bàn tay, như đang ngắm đội phi cơ chiên đấu X-wing™ treo trên trần. Chúng khẽ đu đưa trong gió đêm.

Nhưng thực ra Adam không ngắm chúng. Nó đang nhìn vào bức tranh toàn cảnh sáng rực trong trí tưởng tượng của mình, bức tranh đang xoay tít như một hội chợ.

Đây không giống như dì của Wensleydale và cái ly. Thứ huyền thuật này thú vị hơn nhiều.

Hơn nữa, nó mến Anathema. Tất nhiên, cô già hơn nó nhiều, nhưng khi Adam mến ai đó thì nó muốn làm cho họ vui.

Nó tự hỏi nó có thể làm Anathema vui bằng cách nào.

Người ta thường nghĩ rằng những sự kiện làm thay đổi thế giới là những thứ như những quả bom, các chính trị gia điên rồ, những vụ động đất khủng khiếp, hoặc những đợt di dân khổng lồ, nhưng giờ họ đã nhận ra rằng đây là quan điểm rất cũ của những người không bắt kịp lối suy nghĩ hiện đại. Những thứ thực sự thay đổi thế giới, theo thuyết Hỗn mang, là những thứ nhỏ bé. Một con bướm đập cánh ở rừng Amazon, và hậu quả là một trận bão càn quét qua nửa châu Âu.

Đâu đó trong tâm trí say ngủ của Adam, một con bướm đã xòe cánh.

Anathema hẳn đã có thể, hoặc là không, nhìn mọi chuyện tỏ tường hơn nếu cô được phép nhận ra lý do hiển nhiên tại sao cô không nhìn thấy được huyền quang của Adam.

Cũng chính vì lý do đó mà những người đứng ở quảng trường Trafalgar không thấy được nước Anh.

Còi báo động réo vang.

Tất nhiên, còi báo động réo vang trong phòng điều khiển của một nhà máy điện hạt nhân chẳng phải là chuyện gì đặc biệt. Chúng réo suốt ngày. Đó là bởi vì có rất nhiều đồng hồ, phổ kế và các thứ mà nếu nó không ít nhất là kêu bíp bíp thì sẽ có thứ gì đó quan trọng không được người ta nhận thấy.

Và nhiệm vụ của kỹ sư trực ban đòi hỏi một người vững vàng, có năng lực, không nao núng, người mà ta có thể tin cậy là sẽ không chạy thẳng ra bãi đỗ xe nếu có chuyện khẩn cấp. Thực ra, đó là kiểu người tạo ấn tượng lúc nào anh ta cũng hút tẩu, ngay cả khi anh ta không hút.

Đang là ba giờ sáng ở phòng điều khiển của nhà máy điện Turning Point, vốn là khoảng thời gian yên tĩnh dễ chịu, không có việc gì phải làm ngoài ghi chép vào sổ theo dõi và lắng nghe tiếng ro ro xa xa của các tua bin.

Cho đến lúc này.

Horace Gander nhìn những chiếc đèn đỏ nhấp nháy. Rồi anh ta nhìn các đồng hồ đo. Rồi anh ta nhìn khuôn mặt các đồng nghiệp. Rồi anh ta ngước lên nhìn cái đồng hồ đo lớn ở cuối phòng. Bốn trăm hai mươi megawatt điện đáng tin cậy và khá rẻ đang được truyền ra khỏi nhà máy. Theo các đồng hồ đo khác, số điện đó sinh ra từ hư không.

Anh ta không nói “Quái lạ”. Anh ta hẳn sẽ không nói “Quái lạ” cho dù có một đàn cừu vừa chơi vĩ cầm vừa đạp xe ngang qua. Một kỹ sư có trách nhiệm sẽ không nói mấy thứ như thế.

Anh ta nói là: “Alf này, cậu nên gọi điện cho quản lý nhà máy đi.”

Ba giờ đồng hồ hết sức nhốn nháo trôi qua. Chúng bao gồm rất nhiều cuộc điện thoại, điện báo, và fax. Hai mươi bảy người lần lượt bị lôi khỏi giường và họ gọi tiếp năm mươi ba người khác ra khỏi giường, bởi vì nếu có một điều mà một người muốn biết khi anh ta bị đánh thức trong cơn hốt hoảng vào lúc bốn giờ sáng, thì đó là anh ta không chỉ có một mình.

Hơn nữa, ta cần đủ loại giấy phép trước khi họ để ta mở nắp một lò phản ứng hạt nhân và nhòm vào trong.

Họ xin được giấy phép. Họ mở nắp. Họ nhòm vào trong.

Horace Gander nói, “Phải có lý do hợp lý cho việc này. Năm trăm tấn urani không thể tự mình đứng dậy bỏ đi được.”

Cái đồng hồ đo trong tay anh ta lẽ ra phải đang gào thét. Thay vào đó, nó chỉ thỉnh thoảng kêu tích một tiếng đầy miễn cưỡng.

Ở chỗ lẽ ra phải là lò phản ứng chỉ là một khoảng trống. Ta có thể chơi một trận bóng quần khá hay trong đó.

Ở ngay dưới đáy, đơn độc giữa nền sàn sáng rực, lạnh lẽo, là một viên kẹo chanh.

Bên ngoài, trong phòng tua bin khổng lồ, máy móc vẫn chạy ầm ầm.

Và, cách đó hơn một trăm năm mươi cây số, Adam Young trở mình trong giấc ngủ.