← Quay lại trang sách

Thứ Sáu

Raven Sable, mảnh dẻ, để râu, mặc toàn đồ đen, ngồi ở ghế sau chiếc xe limousine đen dài mảnh, nói chuyện vào chiếc điện thoại đen dài mảnh với chi nhánh của hắn ở Bờ Tây.

“Tình hình thế nào rồi?” hắn hỏi.

“Ổn cả, thưa sếp,” trưởng nhóm marketing của hắn đáp. “Mai em sẽ đi ăn sáng với người mua từ các chuỗi siêu thị hàng đầu. Không vấn đề gì. Tầm này tháng sau là BỮAĂN™ sẽ có mặt ở tất cả các cửa hàng.”

“Làm tốt lắm, Nick.”

“Không có chi. Không có chi. Tất cả là nhờ có sếp cả, Rave ạ. Sếp là một người lãnh đạo tuyệt vời. Lần nào cũng ra tấm ra món.”

“Cảm ơn,” Sable nói, rồi cúp máy.

Hắn đặc biệt tự hào về BỮAĂN™.

Tập đoàn Dinh Dưỡng Mới đã có khởi đầu rất khiêm tốn, cách đây mười một năm. Một nhóm nhỏ các nhà khoa học thực phẩm, một nhóm lớn marketing và quan hệ công chúng, và một cái logo bắt mắt.

Sau hai năm đầu tư và nghiên cứu, Dinh Dưỡng Mới đã cho ra đời NHAI™. NHAI™ bao gồm các phân tử protein được dệt, tết và đan vào với nhau, được đóng gói và lập trình, được thiết kế cẩn thận để ngay cả các enzyme đói khát nhất trong hệ tiêu hóa cũng lờ chúng đi; ngoài ra còn có chất làm ngọt không calo; dầu thô thay thế dầu thực vật; chất xơ, chất nhuộm, và chất tạo mùi vị. Kết quả là một thứ thức ăn gần như không phân biệt nổi với các thứ thức ăn khác, ngoại trừ hai điều. Thứ nhất là giá của nó hơi cao hơn một chút, và thứ hai là giá trị dinh dưỡng của nó chỉ tương đương với một cái máy nghe nhạc Sony. Ăn bao nhiêu đi nữa, bạn vẫn sẽ giảm cân. (*)

Người béo đã mua nó. Người gầy không muốn béo lên đã mua nó. NHAI™ là thức ăn kiêng tối thượng - được dệt, đan, kết cấu, và giã để giả làm bất kỳ thứ gì, từ khoai tây đến thịt nai, mặc dù thịt gà bán chạy nhất.

Sable ngồi ngắm tiền chảy vào. Hắn ngắm NHAI™ dần dần lấp đầy các ngóc ngách của hệ sinh thái mà trước kia từng là chỗ đứng của các loại thức ăn cũ, không có tên thương mại.

Hắn tiếp nối NHAI™ bằng QUÀVẶT™ - đồ ăn rác làm từ rác thật.

BỮAĂN™ là phát minh mới nhất của Sable.

BỮAĂN™ là NHAI™ nhưng có thêm đường và chất béo. Lý thuyết là nếu ăn đủ BỮAĂN™ thì ta sẽ a) bị béo phì hoặc b) chết vì thiếu dinh dưỡng.

Nghịch lý đó khiến Sable rất thích thú.

BỮAĂN™ hiện đang được thử nghiệm trên khắp nước Mỹ. BỮAĂN Pizza, BỮAĂN Cá, BỮAĂN Tứ Xuyên, BỮAĂN Thực dương. Thậm chí cả BỮAĂN Hamburger nữa.

Chiếc limousine của Sable được đỗ trong bãi của một quán Chúa Burger ở Des Moines, Iowa - một chuỗi cửa hàng ăn nhanh do tập đoàn của hắn sở hữu hoàn toàn. Họ đã thí điểm BỮAĂN Hamburger ở đây từ sáu tháng nay. Hắn muốn xem họ đã đạt được kết quả gì.

Hắn cúi người về phía trước, gõ lên tấm kính chắn. Tay tài xế bấm một cái nút, và tấm kính hạ xuống.

“Vâng sếp?”

“Tôi sẽ đi xem xét việc kinh doanh của chúng ta ở đây, Marlon. Mười phút thôi. Rồi về L.A.”

“Vâng sếp.”

Sable thong dong tiến vào quán Chúa Burger. Nó giống hệt mọi quán Chúa Burger khác ở Mỹ. (*) Chú Hề McLordy nhảy nhót trong Khu Trẻ em. Đội ngũ phục vụ có những nụ cười sáng lóa y hệt nhau mà không bao giờ chạm đến mắt họ. Và sau quầy, một người đàn ông trung tuổi mập mạp, mặc đồng phục Chúa Burger, đang vừa đập burger lên vỉ nướng vừa khẽ huýt sáo, vui vẻ với công việc của mình.

Sable đến bên quầy.

“Xin-chào-tên-tôi-là-Marie,” cô gái đứng sau quầy nói. “Ông-muốn-dùng-gì-ạ?”

“Một bánh kẹp đôi sấm nổ kếch xù, thêm khoai chiên, không mù tạt,” hắn nói.

“Ông-uống-gì-không-ạ? “

“Sữa lắc chuối-sô cô la thật đặc.”

Cô ta nhân các ô vuông có hình trên máy tính tiền. (Các nhà hàng này không yêu cầu nhân viên phải biết đọc nữa. Họ chỉ cần biết cười.) Rồi cô ta quay sang người đàn ông mập mạp sau quầy.

“KĐSNKX, T K, không mù tạt,” cô ta nói. “Lắc-sôcô.”

“Ư hừ,” người nấu bếp ngân nga. Ông ta bỏ thức ăn vào các gói giấy nhỏ, chỉ dừng lại để gạt món tóc bò liếm đã ngả bạc ra khỏi mắt.

“Của cô đây,” ông ta nói.

Cô ta đón lấy thức ăn mà không nhìn ông ta, và ông ta vui vẻ quay lại với cái vỉ nướng, miệng khe khẽ hát: “Loooove me tender, loooove me long, never let me go...”

Sable nhận thấy tiếng hát ngân nga của ông ta đối chọi với tiếng nhạc nền trong quán Chúa Burger, vốn là bài hát quảng cáo Chúa Burger được lặp đi lặp lại léo nhéo, và hắn ghi nhớ trong đầu là phải sa thải ông ta.

Xin-chào-tên-tôi-là-Marie đưa cho Sable BỮAĂN™ của hắn và chúc hắn một ngày tốt lành.

Hắn tìm thấy một cái bàn nhựa nhỏ, ngồi xuống trên cái ghế nhựa, và xem xét thức ăn.

Bánh mì giả. Burger giả. Khoai tây chiên chưa bao giờ được thấy mặt khoai tây. Nước xốt không thức ăn. Thậm chí còn có cả (và Sable đặc biệt hài lòng với nó) một lát dưa chuột muối giả nữa. Hắn không buồn kiểm tra cốc sữa lắc. Nó chẳng có tí thực phẩm thật nào, nhưng món sữa lắc mà các đối thủ của hắn bán ra thì cũng vậy thôi.

Xung quanh hắn, mọi người đang ăn thứ thức ăn giả, nếu không phải là với vẻ thích thú rõ rệt thì cũng không có vẻ kinh tởm hơn so với ở các chuỗi burger khác trên toàn hành tinh.

Hắn đứng lên, đem cái khay ra chỗ đề XIN BỎ RÁC ĐÚNG NƠI QUY ĐỊNH và đổ tất cả vào đó. Nếu bạn bảo hắn là ở châu Phi đang có trẻ em chết đói thì hắn sẽ lấy làm hãnh diện vì bạn đã nhận ra.

Ai đó giật giật tay áo hắn. “Ông là Sable?” một người đàn ông nhỏ thó đeo kính, đầu đội mũ Hỏa tốc Quốc tế, tay cầm một gói giấy nâu, hỏi.

Sable gật đầu.

“Tôi cũng nghĩ là ông mà. Nhìn quanh, nghĩ, quý ông cao cao, để râu, bộ vét đẹp, chắc quanh đây không nhiều người như thế. Bưu phẩm cho ông, thưa ông.”

Sable ký nhận bằng tên thật - hai từ, sáu chữ cái. Nghe giống như “cạn túi”.

“Cảm ơn ông rất nhiều,” người giao hàng nói. Ông ngừng lại. “Này,” ông nói. “Người đứng sau quầy ấy. Ông có thấy ông ta giống ai không?”

“Không,” Sable đáp. Hắn boa cho người giao hàng - năm đô - và mở cái gói ra.

Trong đó là một cái cân nhỏ.

Sable mỉm cười. Đó là một nụ cười mỏng dính, và nó biến mất gần như ngay lập tức.

“Cũng đến lúc rồi,” hắn nói. Hắn đút cái cân vào túi, không quan tâm đến việc nó phá hỏng những đường nét thanh mảnh của bộ vét đen, và quay lại xe limo.

“Về văn phòng ạ?” tay tài xế hỏi.

“Ra sân bay,” Sable đáp. “Và gọi trước đi. Đặt vé sang Anh cho tôi.”

“Vâng. Vé khứ hồi đi Anh.”

Sable mân mê cái cân trong túi. “Vé một chiều thôi,” hắn nói. “Tôi sẽ tự về. À, và gọi văn phòng cho tôi, hủy hết mọi cuộc hẹn.”

“Đến bao giờ ạ, thưa sếp?”

“Cho đến hết tương lai trước mắt.”

Và trong quán chúa Burger, đằng sau quầy, người đàn ông mập mạp có lọn tóc bò liếm bỏ nửa tá burger nữa lên vỉ nướng. Ông ta là người hạnh phúc nhất thế giới, và ông ta đang hát, rất khẽ.

“... y’aint never caught a rabbit,” ông ta ngân nga một mình, “and y’ain’t no friend of mine...”

Bọn Chúng lắng nghe hết sức chăm chú. Trời đang mưa lất phất, những mảnh tôn cũ và vải sơn mòn sờn phủ trên mái hang ổ của chúng ở mỏ đá phấn gần như không che nổi, và chúng luôn đợi Adam nghĩ ra những trò tiêu khiển mỗi khi trời mưa. Chúng đã không thất vọng. Mắt Adam rực sáng vì niềm vui hiểu biết.

Phải đến ba giờ sáng nó mới ngủ thiếp đi dưới một chồng Bảo Bình mới.

“Và có một người tên là Charles Fort,” nó kể. “Ông ta có thể làm trời mưa ra cá và ếch và các thứ.”

“Hừ,” Pepper nói. “Tao dám cá là thế rồi. Ếch sống chứ?”

“Tất nhiên,” Adam nói, hứng thú với đề tài này. “Ếch nhảy tứ tung kêu ộp ộp đủ cả. Cuối cùng người ta phải trả tiền để ông ta đi chỗ khác, và, và...” Nó vắt óc cố nghĩ ra điều gì đó để làm thỏa mãn khán giả của mình; với Adam, đọc như thế cùng một lúc là nhiều lắm. “... Rồi ông ta bỏ đi trên thuyền Mary Celeste và lập ra Tam giác Quỷ Bermuda. Nó nằm ở vùng Bermuda ấy,” nó sốt sắng thêm vào.

“Không, làm sao ông ta làm thế được,” Wensleydale nghiêm nghị nói, “vì tao đã đọc về thuyền Mary Celeste rồi, trên đó không có ai cả. Nó nổi tiếng vì không có ai trên thuyền cả. Họ tìm thấy nó trôi nổi một mình, không có hành khách gì hết.”

“Tao có bảo ông ta có mặt trên thuyền khi họ tìm thấy nó đâu?” Adam đanh đá nói. “Tất nhiên là ông ta không có đó rồi. Vì UFO (*) đã hạ cánh và đưa ông ta đi. Tao tưởng chuyện đó thì ai cũng biết chứ.”

Bọn Chúng thoải mái hơn một chút. UFO thì chúng quen hơn. Nhưng chúng không chắc lắm về UFO Tân Thời; chúng đã lịch sự nghe Adam nói về đề tài này, nhưng không hiểu sao UFO hiện đại không ngầu bằng.

“Nếu tao là người ngoài hành tinh,” Pepper lên tiếng, nói ra ý kiến của cả bọn, “thì tao sẽ chẳng đi khắp nơi nói với người ta về sự hòa hợp vũ trụ thần bí đâu. Tao sẽ nói,” và giọng nó trầm xuống, khàn đi, như bị chặn bởi một cái mặt nạ đen độc ác, “ ‘Đây là shúng la-zhe, liệu hồn mà làm theo lời ta, đồ phiến quân bẩn thỉu.’ “

Cả bọn gật gù. Một trò chơi yêu thích trong mỏ phấn dựa trên một loạt phim rất thành công với súng laser, người máy, và một cô công chúa vấn tóc như một cặp tai nghe™ (*) . (Không cần nói chúng cũng đồng ý với nhau rằng nếu có đứa nào phải đóng vai cô công chúa ngớ ngẩn thì đó sẽ không phải là Pepper.) Nhưng trò chơi thường kết thúc với trận ẩu đả khi chúng giành nhau đội cái xô đựng than™ và cho nổ tung các hành tinh. Adam giỏi trò này nhất - khi đóng vai phản diện, nghe như nó có thể cho nổ tung cả thế giới thật. Dù sao thì về mặt tính khí, Bọn Chúng cũng đứng về phe phá hủy thế giới, miễn là cùng lúc đó chúng cũng được phép giải cứu công chúa nữa.

“Tao ngờ là họ từng làm thế,” Adam nói. “Nhưng giờ thì khác rồi. Họ đều có một quầng sáng màu xanh xung quanh người và đi làm việc tốt. Kiểu như cảnh sát vũ trụ ấy, bảo mọi người phải sống trong hòa hợp vũ trụ và đại loại thế.”

Im lặng một thoáng khi mấy đứa kia nghĩ như thế thật là lãng phí những cái UFO còn tốt nguyên.

“Tao cứ băn khoăn,” Brian nói, “là tại sao họ lại gọi chúng là UFO khi họ biết đấy là đĩa bay. Ý tao là, chúng là Vật thể bay có xác định đấy chứ.”

“Đấy là vì chính phủ ém nhẹm đi hết,” Adam nói. “Hàng triệu đĩa bay hạ cánh suốt ngày, và chính phủ cứ ém nhẹm đi thôi.”

“Tại sao?” Wensleydale hỏi.

Adam ngần ngừ. Nó đã không đọc được lời giải thích ngắn gọn nào; Bảo Bình mới coi việc chính phủ luôn ém nhẹm mọi chuyện là nền tảng niềm tin của chính mình và cả các độc giả nữa.

“Vì họ là chính phủ,” Adam trả lời đơn giản. “Chính phủ luôn làm thế. Họ có một tòa nhà lớn ở London đầy những cuốn sổ ghi lại các việc họ đã ém nhẹm đi. Khi thủ tướng đến làm việc vào buổi sáng, việc đầu tiên ông ta làm là xem danh sách dài thòng những việc đã xảy ra trong đêm và đóng dấu đỏ to tướng lên chúng.”

“Tao cá là ông ấy uống một tách trà trước, rồi đọc báo,” Wensleydale nói, vào một dịp đáng nhớ trong kỳ nghỉ nó đã bất ngờ vào văn phòng của bố và đã có một vài ấn tượng nhất định. “Và tán gẫu về các chương trình trên tivi tối qua.”

“Ờ, được rồi, nhưng sau đó thì ông ta sẽ lấy ra cuốn sổ và con dấu to tướng.”

“Con dấu khắc chữ ‘Ém Nhẹm Đi’,” Pepper nói.

“Con dấu khắc chữ Tối Mật,” Adam nói, bực bội vì cái cố gắng sáng tạo lưỡng đảng này. “Giống như các nhà máy điện hạt nhân ấy. Chúng nổ suốt nhưng không ai biết vì chính phủ đã ém nhẹm đi hết.”

“Chúng đâu có nổ suốt,” Wensleydale gay gắt nói. “Bố tao bảo chúng an toàn cực kỳ và nhờ có chúng mà mình không phải sống trong nhà kính. Mà trong cuốn truyện tranh (*) của tao có một bức tranh to hình nhà máy điện hạt nhân và chẳng có gì nói nó bị nổ cả.”

“Ờ,” Brian nói, “nhưng sau mày có cho tao mượn cuốn truyện tranh đấy và tao biết đấy là loại tranh gì rồi.”

Wensleydale ngần ngừ, rồi nói bằng giọng nặng trĩu vì lòng kiên nhẫn bị thử thách ghê gớm. “Brian, chỉ bởi vì nó đề là Biểu Đồ Nổ (*) ...”

Lại có một vụ ẩu đả nho nhỏ như mọi khi.

“Nghe đây,” Adam nghiêm khắc nói. “Bọn mày có muốn tao kể cho nghe về Thời Bảo bối không thì bảo?”

Vụ ẩu đả, vốn không bao giờ nghiêm trọng lắm giữa các thành viên khăng khít ruột thịt của Bọn Chúng, lập tức dừng lại.

“Được rồi,” Adam nói. Nó gãi đầu. “Giờ bọn mày làm tao quên mất tao kể đến đoạn nào rồi,” nó kêu ca.

“Đĩa bay,” Brian nhắc.

“Rồi. Rồi. Thế nhé, nếu bọn mày có thấy một cái UFO thì người của chính phủ sẽ đến nạt cho bọn mày một trận,” Adam nói, sôi nổi trở lại. “Trong một cái xe to màu đen. Ở Mỹ chuyện đó xảy ra suốt.”

Bọn Chúng gật đầu vẻ thông thái. Ít nhất về chuyện này thì chúng không nghi ngờ gì. Với chúng, nước Mỹ là nơi người tốt được đến khi họ lìa đời. Chúng sẵn sàng tin rằng bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra ở Mỹ.

“Có khi tắc cả đường ây,” Adam nói, “vì những người đi xe đen này chạy khắp nơi nạt nộ mọi người vì đã nhìn thấy UFO. Họ bảo là nếu bọn mày cứ tiếp tục nhìn thấy UFO thì bọn mày sẽ gặp một Tai nạn Khủng khiếp.”

“Chắc là bị một cái xe đen to tướng chẹt phải,” Brian nói, cạy một cái vảy trên đầu gối cáu bẩn. Mặt nó bỗng sáng lên. “Bọn mày có biết không,” nó nói, “anh họ tao bảo là ở Mỹ có cửa hàng bán ba mươi chín vị kem khác nhau cơ đấy?”

Điều này khiến cả Adam cũng phải im lặng trong chốc lát.

“Làm gì có đến ba mươi chín vị kem,” Pepper nói. “Trên đời cũng chẳng có đến ba mươi chín vị.”

“Có chứ, nếu mày trộn chúng lại,” Wensleydale nói, chớp chớp mắt như cú. “Mày biết đấy. Dâu với sô cô la. Sô cô la với vani.” Nó cố nghĩ thêm các vị khác của Anh. “Dâu với vani với sô cô la,” nó ỉu xìu nói thêm.

“Rồi còn có cả Atlantis nữa,” Adam nói to.

Nó đã thu hút được sự chú ý của chúng. Chúng rất thích Atlantis. Các thành phố bị chìm dưới đáy biển đúng là kiểu của Bọn Chúng. Chúng chăm chú lắng nghe một câu chuyện lộn xộn về kim tự tháp, các tu sĩ kỳ dị, và những bí mật cổ đại.

“Thế nó bị chìm đột ngột hay từ từ?” Brian hỏi.

“Vừa đột ngột vừa từ từ,” Adam nói, “vì rất nhiều người ở đó đã trốn đi bằng thuyền đến các nước khác và dạy họ các môn toán, tiếng Anh, lịch sử và mấy thứ đại loại thế.”

“Thế thì có gì là hay,” Pepper nói.

“Lúc nó đang chìm thì cũng vui chứ,” Brian tiếc rẻ nói, nhớ lại cái lần làng Tadfield Hạ bị lụt. “Mọi người sẽ phải đi giao báo và sữa bằng thuyền, không ai phải đi học cả.”

“Nếu tao là người Atlantis, thì tao sẽ ở lại,” Wensleydale nói. Câu này nhận được một tràng cười giễu cợt, nhưng nó vẫn nói tiếp. “Chỉ cần đội mũ thợ lặn thôi. Và đóng đinh bịt tất cả cửa sổ lại rồi xả không khí vào đầy nhà. Sẽ tuyệt lắm.”

Adam đón nhận ý tưởng này với cái nhìn lạnh lùng nó dành riêng cho bất kỳ đứa nào trong Bọn Chúng dám nghĩ ra một ý tưởng mà nó ước mình đã nghĩ ra trước.

“Họ có thể làm thế,” nó thừa nhận, vẻ hơi miễn cưỡng. “Sau khi đã cho các giáo viên lên thuyền đi hết. Có lẽ tất cả những người khác đều ở lại khi nó chìm xuống.”

“Cũng không phải tắm nữa,” Brian nói, vốn luôn bị bố mẹ nó bắt tắm nhiều hơn mức mà nó nghĩ là có lợi cho sức khỏe. Nhưng cũng chẳng ích gì. Bẩn thỉu dường như đã ăn sâu vào Brian rồi. “Vì mọi thứ lúc nào cũng sạch. Và, và, mình có thể trồng tảo ngoài vườn và bắn cá mập. Và nuôi bạch tuộc các kiểu làm thú cưng nữa. Và không phải đi học vì họ đã tống hết các giáo viên đi rồi.”

“Có khi giờ họ vẫn còn dưới đó ấy chứ,” Pepper nói.

Chúng nghĩ về những người Atlantis, trên mình khoác chiếc áo choàng thần bí, đầu đội bể cá vàng, sống vui vẻ dưới làn nước cuộn sóng của biển khơi.

“Hờ,” Pepper nói, tóm tắt lại cảm xúc của cả bọn.

“Giờ bọn mình làm gì đây?” Brian nói. “Trời quang hơn một tí rồi đấy.”

Cuối cùng chúng quyết định chơi trò Charles Fort Khám Phá. Trò này bao gồm một đứa Bọn Chúng đi quanh với tàn tích cổ của một cái ô, trong khi những đứa khác đổ mưa đầy ếch xuống nó, hay đúng hơn là chỉ có một con ếch thôi, chúng chỉ tìm được một con trong ao. Đó là một cụ ếch già, đã quen mặt Bọn Chúng lắm rồi và chịu đựng sự chú ý của chúng, coi đó là cái giá cụ phải trả cho một cái ao không có chim cuốc và cá chó. Cụ kiên nhẫn cho chúng chơi một lát trước khi nhảy đến một chỗ trốn bí mật đến giờ vẫn chưa bị phát hiện trong một ống cống cũ.

Rồi cả bọn về nhà ăn trưa.

Adam rất hài lòng với những gì làm được sáng hôm đó. Nó đã luôn biết thế giới là một nơi thú vị, và trí tưởng tượng của nó đã đưa vào thế giới ấy nào là hải tặc, cướp đường, điệp viên, phi hành gia, và các thứ tương tự. Nhưng nó cũng có một mối nghi ngờ day dứt rằng, nếu ta suy nghĩ về mọi chuyện một cách nghiêm túc, thì đó chỉ là những thứ trong sách và không còn thật sự tồn tại nữa.

Còn mấy vụ Thời Bảo bối này mới đúng là thật. Người lớn đã viết nhiều sách về chuyện đó (tạp chí Bảo Bình mới đầy quảng cáo cho những cuốn sách này) và Chân To, Người Bướm, Người Tuyết, thủy quái, và báo đen Surrey thực sự có thật. Nếu Cortez, trong lúc đứng trên đỉnh Darien (*) , bị ướt chân vì đi bắt ếch, thì chắc ông cũng có cảm giác y hệt Adam lúc này.

Thế giới sáng bừng, kỳ lạ, và nó đang ở giữa nơi đó.

Nó ăn vội ăn vàng bữa trưa rồi về phòng, vẫn còn vài số Bảo Bình mới nó chưa đọc.

Chỗ ca cao đã biến thành một thứ bùn nâu quánh đầy nửa cái cốc.

Một số người đã dành cả trăm năm để giải mã các lời tiên tri của Agnes Nutter. Phần lớn họ đều rất thông minh. Anathema Device, người có thể coi gần như là Agnes hết mức mà phiêu bạt di truyền cho phép, là người giỏi nhất trong số họ. Nhưng không có ai trong số đó là thiên thần cả.

Nhiều người khi gặp Aziraphale lần đầu đã có ba ấn tượng: y là người Anh, y rất thông minh, và y bóng lộn hơn cả một cái gương trát mỡ. Hai trong số này là sai; Thiên đường không nằm ở nước Anh, cho dù một số thi sĩ có nghĩ gì đi chăng nữa, và các thiên thần đều không có giới tính trừ phi họ thật sự muốn. Nhưng y thông minh thật. Và đó là trí thông minh của thiên thần, tức là dù không cao hơn trí thông minh của con người là mấy, nhưng lại bao quát hơn nhiều và có lợi thế của hàng ngàn năm thực hành.

Aziraphale là thiên thần đầu tiên có máy tính. Đó là một cái máy tính vỏ nhựa rẻ tiền chậm rề, được quảng cáo là lý tưởng cho các hộ kinh doanh nhỏ. Aziraphale chỉ nghiêm túc dùng nó đê tính toán sổ sách, vốn chính xác đến mức cơ quan thuế đã kiểm tra y tới năm lần vì họ một mực tin rằng y đang lẩn trốn một vụ sát nhân ở đâu đó.

Nhưng những tính toán này thuộc loại mà không máy tính nào làm được. Thỉnh thoảng y lại ngoáy vài dòng lên một tờ giấy bên cạnh. Tờ giấy đầy những biểu tượng mà chỉ tám người khác trên thế giới có thể hiểu được; hai trong số họ đã đoạt giải Nobel, còn một trong số sáu người còn lại thì nhỏ dãi rất nhiều và không được phép cầm thứ gì sắc vì ông ta có thể gây nguy hiểm với cái đó.

Anathema ăn trưa bằng xúp miso và nghiền ngẫm mấy tấm bản đồ. Không nghi ngờ gì nữa, khu vực quanh Tadfield rất nhiều pháp mạch; ngay cả mục sư Watkins nổi tiếng cũng đã xác định được vài đường. Nhưng trừ phi cô hoàn toàn nhầm, thì chúng đang bắt đầu thay đổi vị trí.

Suốt tuần qua cô đã dùng máy kinh vĩ và quả lắc để dò chúng, và bản đồ vùng Tadfield của sở đạc điền giờ đã đầy những chấm và mũi tên nhỏ.

Cô nhìn chúng chằm chằm hồi lâu. Rồi cô cầm lên một cái bút dạ và bắt đầu nối chúng với nhau, thỉnh thoảng lại tra cứu các ghi chép trong sổ.

Đài đang bật. Cô không để tâm nghe. Vì vậy khá nhiều tin tức chính đã trôi tuột qua đôi tai hờ hững của cô, và phải đến khi một đôi từ khóa xuyên vào ý thức thì cô mới dỏng tai lên.

Ai đó được gọi là Một Phát ngôn viên có vẻ gần như hoảng loạn.

“... nguy hiểm với các nhân viên hoặc cộng đồng,” ông ta đang nói.

“Và chính xác là bao nhiêu nhiên liệu hạt nhân đã biến mất?” Im lặng một thoáng. “Chúng tôi không muốn nói là chúng đã biến mất,” phát ngôn viên đáp. “Không phải biến mất. Tạm thời thất lạc thì đúng hơn.”

“Ý ông là chúng vẫn còn ở hiện trường?”

“Chắc chắn chúng tôi không nghĩ ra bất cứ cách nào để có thể đưa chúng ra khỏi đó,” phát ngôn viên nói.

“Hẳn các vị đã nghĩ đến hành động khủng bố?”

Lại im lặng một thoáng. Rồi phát ngôn viên nói, với cái giọng nhỏ nhẹ của người đã chịu quá đủ rồi, và sau vụ này sẽ bỏ việc để đi nuôi gà, “Vâng, tôi đoán là chúng tôi phải nghĩ vậy. Chúng ta chỉ cần tìm ra một nhóm khủng bố có khả năng dỡ bỏ toàn bộ một lò phản ứng hạt nhân ra khỏi chỗ của nó trong lúc nó đang chạy mà không ai nhận ra. Nó nặng chừng một ngàn tấn và cao mười hai mét. Vì vậy chúng phải là những tên khủng bố khá khỏe. Có lẽ anh nên gọi điện cho chúng, thưa anh, và phỏng vấn chúng bằng cái giọng khinh khỉnh, buộc tội ấy đi.”

“Nhưng ông nói là nhà máy vẫn đang sản xuất ra điện mà,” người phỏng vấn hổn hển.

“Đúng thế.”

“Làm sao có thể thế được nếu nó không còn lò phản ứng?”

Ta có thể tưởng tượng ra nụ cười điên rồ của phát ngôn viên, ngay cả khi nghe qua đài. Ta có thể thấy cái bút của ông ta lơ lửng trên mục “Trang trại cần bán” trong tạp chí Thế giới gia cầm. “Chúng tôi không biết,” ông ta nói. “Chúng tôi đang hy vọng đám biết tuốt ở đài BBC các anh sẽ có ý tưởng gì đó.”

Anathema nhìn xuống tấm bản đồ.

Cái cô đang vẽ nhìn như một thiên hà, hay kiểu chạm khắc thường thấy trên các phiến đá Xentơ hạng cao.

Các pháp mạch đang dịch chuyển. Chúng đang tạo thành một xoáy ốc.

Xoáy ốc đó có trung tâm - không chính xác lắm, có thể có một vài sai số, nhưng vẫn là trung tâm - ở làng Tadfield Hạ.

◇ ❖ ◇

Cách đó vài ngàn cây số, gần như cùng thời điểm Anathema đang nhìn trân trối vào hình xoáy ốc, thì du thuyền Morbilli đang bị mắc cạn giữa ba trăm sải nước.

Với thuyền trưởng Vincent, đây chỉ là một vấn đề nữa. Ví dụ, ông biết mình nên liên lạc với chủ thuyền, nhưng ông không bao giờ biết được, theo ngày - hoặc theo giờ, trong cái thế giới được số hóa tất tật này - rằng ai mới là chủ sở hữu hiện tại của con thuyền.

Máy tính, vấn đề chính là ở chỗ chết tiệt đó. Giấy tờ của con thuyền đã được số hóa hết và nó có thể chuyển sang cờ phương tiện (*) nào lợi nhất vào lúc đó chỉ trong nháy mắt. Hệ thống hoa tiêu của thuyền cũng đã được số hóa, liên tục cập nhật vị trí thuyền bằng vệ tinh. Thuyền trưởng Vincent đã kiên nhẫn giải thích với chủ thuyền, bất kể đấy là ai, rằng vài trăm mét vuông thép bọc và một thùng đinh tán sẽ là một khoản đầu tư tốt hơn, và đã được cho biết rằng lời khuyên của ông không phù hợp với dự đoán hiện tại về dòng chảy chi phí/lợi nhuận.

Thuyền trưởng Vincent ngờ rằng, bất kể các thứ máy móc, con thuyền này nếu chìm sẽ đáng giá hơn là nổi, và có lẽ sẽ được coi là vụ đắm thuyền có vị trí chính xác nhất trong lịch sử hàng hải.

Ông ngồi bên bàn, lặng lẽ lật giở quyển Mã hàng hải quốc tế, với sáu trăm trang in những dòng tin ngắn nhưng đầy ý nghĩa, được tạo ra để có thể truyền đi khắp thế giới tin tức về bất kỳ sự kiện hàng hải nào có thể xảy ra, với tỷ lệ nhầm lẫn, và trên hết là kinh phí, được giảm tối đa.

Cái ông muốn gửi đi là thế này: Đang đi về hướng N-TN ở vị trí 33°B 47°72’T. Viên thuyền phó, mà hẳn các vị còn nhớ là được chỉ định ở New Guinea trái với ý kiến của tôi và có lẽ là một tay săn đầu người, đã dùng cử chỉ ra hiệu rằng có gì đó không ổn. Có vẻ một vùng đáy biển rộng đã dâng cao trong đêm. Trên đó có nhiều tòa nhà, khá nhiều trong số đó có hình thù giống kim tự tháp. Chúng tôi đang bị mắc cạn trong sân của một tòa nhà như thế. Có vài bức tượng nhìn khá ghê. Những ông già thân thiện mặc áo choàng dài, đội mũ lặn đã lên thuyền và đang vui vẻ làm quen với các hành khách đang tưởng chúng tôi là người tổ chức việc này. Xin cho chỉ thị.

Ngón tay tìm kiếm của ông lướt dọc trang giấy và dừng lại. Cuốn Mã quốc tế thật đáng tin cậy. Bộ mật mã này được phát minh ra từ tám mươi năm trước, nhưng người thời đó quả là đã nghĩ kỹ về những hiểm nguy ta có thể gặp phải ngoài biển sâu.

Ông cầm bút lên và viết: “XXXV QVVX.”

Khi dịch ra, mã này có nghĩa là: “Đã tìm thấy Lục địa Atlantis Mất tích. Pháp sư Tối cao vừa thắng cuộc thi ném vòng.”

“Không phải!”

“Phải!”

“Không phải!”

“Phải!”

“Không phải... được rồi, thế núi lửa thì sao?” Wensleydale ngồi xuống, vẻ mặt đắc thắng.

“Chúng thì sao?” Adam hỏi.

“Cả đống bọt ấy trào từ tâm Trái đất lên, ở dưới đó cực nóng,” Wensleydale nói. “Tao đã xem một chương trình trên tivi. Có cả David Attenborough (*) , nên cái đấy là thật.”

Mấy đứa Bọn Chúng còn lại nhìn Adam. Cứ như xem một trận quần vợt vậy.

Giả thuyết Trái đất Rỗng không được đón nhận nồng nhiệt ở mỏ phấn. Một ý tưởng kỳ thú đã đứng vững trước sự săm soi của những nhà tư tưởng vĩ đại như Cyrus Read Teed, Bulwer-Lytton và Adolf Hitler giờ lại đang lung lay đáng ngại trước ngọn gió là logic mạnh mẽ sau cặp kính của Wensleydale.

“Tao có bảo nó rỗng tuếch đâu,” Adam nói. “Không ai bảo nó rỗng tuếch cả. Có lẽ nó phải sâu nhiều cây số để có chỗ cho bọt, dầu, than đá, đường hầm Tây Tạng và các thứ đại loại. Rồi sau đây nó mới rỗng. Mọi người nghĩ thế. Và ở Bắc Cực có một cái lỗ để thông khí.”

“Tao chưa bao giờ thấy nó ở trên bản đồ,” Wensleydale khịt mũi.

“Chính phủ không cho họ vẽ lên bản đồ vì sợ mọi người sẽ đến nhòm vào,” Adam nói. “Là vì những người sống dưới đấy không muốn bị nhòm ngó suốt ngày.”

“Mày nói đường hầm Tây Tạng là sao?” Pepper hỏi. “Mày đã nói đường hầm Tây Tạng.”

“À. Tao chưa kể cho bọn mày nghe à?”

Ba cái đầu lắc quầy quậy.

“Hay cực. Bọn mày biết Tây Tạng chứ?”

Chúng ngần ngừ gật đầu. Một loạt các hình ảnh đã hiện lên trong đầu chúng: bò lông dài, đỉnh Everest, những người tên là Châu Chấu (*) , những ông già nhỏ thó ngồi trên núi, những người khác học kung fu ở các ngôi đền cổ kính, và tuyết.

“ Ờ , thế bọn mày có nhớ những giáo viên đã rời khỏi Atlantis khi nó chìm không?”

Chúng lại gật đầu.

“ Ờ , một vài người bọn họ đã đến Tây Tạng và giờ họ điều khiển thế giới này. Họ được gọi là các Tông sư Giấu Mặt. Vì họ là giáo viên, tao đoán vậy. Và họ có một thành phố ngầm bí mật tên là Shambala, có đường hầm dẫn đến mọi nơi trên thế giới, nên họ biết hết mọi chuyện và kiểm soát mọi thứ. Vài người đoán thực ra họ sống dưới sa mạc Gobby (*) ,” nó vênh vang thêm vào, “nhưng các chuyên gia uy tín nhất nghĩ rằng họ ở Tây Tạng đấy. Dù sao ở đấy cũng dễ đào hầm hơn.”

Theo phản xạ, Bọn Chúng vội nhìn xuống lớp phấn cáu bẩn, đầy đất dưới chân chúng.

“Làm sao họ biết hết mọi chuyện được?” Pepper hỏi.

“Họ chỉ việc nghe lỏm thôi, đúng không?” Adam nói đại. “Họ chỉ việc ngồi trong đường hầm và nghe lỏm. Mày biết các thầy cô giáo thính tai thế nào rồi đấy. Họ có thể nghe thấy tiếng thì thào ở tận cuối lớp.”

“Bà tao thường úp một cái cốc lên tường,” Brian nói. “Bà bảo thật là phát tởm, bà nghe được hết mọi chuyện ở nhà bên ấy.”

“Và các đường hầm này dẫn đến mọi nơi hả?” Pepper hỏi, vẫn nhìn xuống đất.

“Khắp nơi trên thế giới,” Adam quả quyết.

“Chắc là tốn thời gian lắm,” Pepper nghi ngờ nói. “Bọn mày có nhớ cái lần mình định đào đường hầm ngoài đồng không, mất cả buổi chiều mà phải co rúm lại mới chui vừa cả bọn.”

“Ừ, nhưng họ đã đào hầm từ cả triệu năm rồi. Nếu có cả triệu năm thì mày cũng đào được vô khối đường hầm.”

“Tao tưởng Tây Tạng là thuộc Trung Quốc và Đại Lải Lạ Ma (*) đã phải trốn sang Ấn Độ,” Wensleydale nói, nhưng có vẻ không chắc chắn lắm. Tối nào Wensleydale cũng đọc báo của bồ nó, nhưng những sự việc thường ngày tẻ ngắt của thế giới dường như luôn tan chảy trước những lời giải thích đầy khí lực của Adam.

“Tao dám cá là giờ họ đang ở dưới đó,” Adam nói, lờ câu kia đi. “Giờ họ đã ở khắp nơi rồi. Ngồi dưới lòng đất và nghe lỏm.”

Chúng nhìn nhau.

“Nếu bọn mình đào xuống thật nhanh...” Brian nói. Pepper, vốn nhanh trí hơn nhiều, rên lên một tiếng.

“Sao mày phải nói thế làm gì?” Adam nói. “Giờ thì mình khiến họ bất ngờ làm sao được nữa, Nếu mày cứ lu loa lên như thế. Tao vừa mới nghĩ bọn mình có thể đào xuống thì mày lại đi báo trước với họ!”

“Tao không nghĩ là họ đào được những đường hầm đấy,” Wensleydale bướng bỉnh nói. “Hết sức là vô lý. Tây Tạng cách đây cả trăm cây số í chứ.”

“À, phải rồi. Phải rồi. Tao đoán là mày biết nhiều về chuyện đó hơn bà Blatvatatatsky (*) chứ gì?” Adam khịt mũi.

“Này, Nếu tao là người Tây Tạng,” Wensleydale nói bằng giọng rất chi khôn ngoan, “tao sẽ đào thẳng xuống chỗ rỗng ở giữa rồi chạy bên trong và đào thẳng lên chỗ tao muốn lên.”

Cả bọn nghiêm túc cân nhắc ý tưởng ấy.

“Mày phải thừa nhận cái đó hợp lý hơn là đường hầm,” Pepper nói.

“Ừ, tao đoán là họ làm thế,” Adam nói. “Kiểu gì họ chả nghĩ ra cách đơn giản như thế.”

Brian mơ màng nhìn lên trời, trong khi ngón tay nó ngoáy một bên tai.

“Cũng buồn cười nhỉ,” nó nói. “Mình mất cả đời đến trường và học các thứ, Thế mà thầy cô chẳng bao giờ cho mình biết về Tam giác Bermuda hay UFO và các Lão Sư chạy khắp nơi trong lòng đất. Tại sao bọn mình lại phải học về các thứ chán ngắt trong khi có bao nhiêu chuyện hay ho bọn mình có thể học, tao muốn biết lý do.”

Cả bọn đều lên tiếng đồng tình.

Rồi chúng đi chơi trò Charles Fort và người Atlantis đấu với các Cổ Sư Tây Tạng, nhưng người Tây Tạng kêu dùng súng laser cổ thần bí là ăn gian.

Đã có thời lính săn phù thủy được kính trọng, nhưng chuyện đó không kéo dài lâu.

Ví dụ, Matthew Hopkins, Đại tướng Săn Phù thủy, đã tìm ra phù thủy trên khắp vùng phía đông nước Anh vào giữa thế kỷ mười bảy, bắt mỗi thị trấn và làng phải trả chín xu cho mỗi phù thủy ông ta tìm thấy.

Vấn đề là ở chỗ đó. Lính săn phù thủy không được trả công theo giờ. Một lính săn phù thủy bỏ ra một tuần theo dõi mấy bà già trong vùng rồi nói với ngài thị trưởng, “Khá lắm, không có mụ nào đội mũ chóp nhọn cả,” thì sẽ chỉ nhận được lời cảm ơn rối rít, một bát xúp, và một lời từ biệt đầy ý nghĩa.

Vì vậy, để có lợi nhuận, Hopkins phải tìm ra thật nhiều phù thủy. Việc này khiến ông ta không được các hội đồng làng yêu quý cho lắm, và chính ông ta cũng bị buộc tội là phù thủy rồi bị treo cổ bởi một ngôi làng ở Đông Anglia - họ đã nhận ra một cách rất hợp lý là có thể cắt giảm chi phí bằng cách trừ khử người trung gian.

Nhiều người nghĩ Hopkins là Đại tướng Săn Phù thủy cuối cùng.

Nói một cách chính xác thì họ không sai. Nhưng có lẽ là không theo cách họ nghĩ. Đội quân Săn Phù thủy vẫn đều bước, chỉ hơi kín tiếng hơn một chút.

Không còn Đại tướng Săn Phù thủy thực sự nữa.

Cũng không còn Đại tá Săn Phù thủy, Đại úy Săn Phù thủy, hay thậm chí là Trung úy Săn Phù thủy nữa (người cuối cùng đã chết vì ngã từ một cái cây rất cao ở Caterham năm 1933, trong lúc cố nhìn cho rõ hơn cái mà anh ta nghĩ là một cuộc truy hoan vô cùng thác loạn của các tín đồ Satan, nhưng thực ra là bữa tiệc tối khiêu vũ hằng năm của Liên hiệp Thương nhân Kinh tế vùng Caterham và Whyteleafe).

Nhưng lại có một Trung sĩ Săn Phù thủy.

Và giờ có cả một Binh nhì Săn Phù thủy nữa. Tên cậu là Newton Pulsifer.

Chính mẩu quảng cáo đã thuyết phục cậu, mẩu quảng cáo trên tờ Gazette, giữa quảng cáo bán tủ lạnh và một lứa chó con không-hẳn-là chó đốm:

HÃY GIA NHẬP GIỚI CHUYÊN NGHIỆP.

CẦN TUYỂN TRỢ LÝ BÁN THỜI GIAN ĐỂ CHỐNG LẠI CÁC THẾ LỰC BÓNG TỐI. CUNG CẤP ĐỒNG PHỤC VÀ HUẤN LUYỆN CƠ BẢN. CHẮC CHẮN SẼ ĐƯỢC THĂNG TIẾN.

ĐÀN ÔNG LÊN!

Đến giờ ăn trưa cậu liền gọi vào số điện thoại ở cuối mẩu quảng cáo. Một giọng nữ trả lời.

“Xin chào,” cậu rụt rè nói. “Tôi đã đọc được quảng cáo của bà.”

“Cái nào hả cưng?”

“Ờ, cái trên báo ạ.”

“À, được rồi. Bà Tracy Vén Màn vào các buổi chiều trừ thứ Năm. Cậu có thể mời thêm người. Cậu muốn Khám phá Bí ẩn vào lúc nào, cưng?”

Newton ngần ngừ. “Mẩu quảng cáo nói ‘Hãy gia nhập Giới Chuyên nghiệp’,” cậu nói. “Không thấy nhắc gì đến bà Tracy cả.”

“À, thế là cậu phải nói chuyện với ông Shadwell. Đợi chút nhé, để tôi xem ông ấy có nhà không.”

Lúc sau, khi đã quen hơn với bà Tracy, Newt phát hiện ra là nếu cậu đã nhắc đến mẩu quảng cáo kia, mẩu quảng cáo trên tạp chí, thì bà Tracy sẽ cung cấp dịch vụ giáo dục nghiêm khắc và mát xa thân mật vào các buổi tối trừ thứ Năm. Còn một mẩu quảng cáo nữa dán trong hộp điện thoại công cộng ở đâu đó. Rất lâu sau đó, Newt hỏi bà quảng cáo này nói về việc gì, và bà trả lời “Thứ Năm”. Mãi rồi cũng có tiếng chân bước trên hành lang không trải thảm, tiếng ho khàn đục, và một giọng nói có màu áo mưa cũ quát lên:

“Gì?”

“Tôi đã đọc được quảng cáo của ông. ‘Hãy gia nhập giới chuyên nghiệp.’ Tôi muốn biết thêm.”

“Ừ. Có nhiều người muốn biết thêm, và cũng có nhiều người...” giọng nói chuội đi thấy rõ, rồi lại lớn tiếng như trước, “... nhiều người KHÔNG MUỐN BIẾT.”

“Ồ,” Newton lí nhí.

“Tên cậu là gì?”

“Newton ạ. Newton Pulsifer.”

“LUCIFER ấy à? Cậu vừa nói gì? Cậu là Hậu duệ Bóng tối, một sinh vật xúi giục rù quyến từ dưới Địa ngục, chân cẳng lông lá bốc hơi từ nồi da nấu thịt của Hades, phải làm nô lệ dâm ô khốn khổ cho những chủ nhân u hồn hắc ám chốn Địa ngục hả?”

“Là Pulsifer ạ,” Newton giải thích. “Bắt đầu bằng chữ P. Tôi không biết mấy chuyện kia là thế nào, nhưng gia đình tôi quê ở Surrey.”

Giọng nói ở đầu dây bên kia có vẻ hơi thất vọng.

“À. ừ. Được rồi. Pulsifer. Pulsifer. Hình như ta đã thấy cái tên này ở đâu đó thì phải?”

“Tôi không biết,” Newton nói. “Chú tôi có cửa hàng bán đồ chơi ở Hounslow,” cậu nói thêm, biết đâu người kia lại nhận ra.

“Thế hửửử?” Shadwell nói.

Không thể biết chất giọng của Shadwell thuộc vùng nào. Nó chạy quanh nước Anh như một cuộc đua xe đạp. Chỗ này thì là một trung sĩ huấn luyện điên rồ người Wales, chỗ kia lại là một trưởng lão Giáo hội Scotland vừa mới bắt gặp ai đó đang làm gì vào Chủ nhật (*) , đâu đó giữa hai cực ấy là một người chăn cừu khắc khổ ở Daleland, hoặc một lão hà tiện cay độc ở Somerset. Nhưng có là giọng nào thì cũng chẳng quan trọng; đằng nào đấy cũng là một thứ giọng như đấm vào tai.

“Cậu còn đầy đủ răng chứ?”

“Có ạ. Trừ những cái phải trám.”

“Cậu khỏe mạnh chứ?”

“Chắc vậy ạ,” Newt lắp bắp. “Ý tôi là, vì thế tôi mới muốn gia nhập dân quân. Brian Potter ở phòng kế toán đã có thể đẩy tạ nằm một trăm kí kể từ hồi cậu ta tham gia. Và cậu ta còn được diễu hành trước mặt thái hậu nữa.”

“Có bao nhiêu núm vú?”

“Dạ?”

“Núm vú ấy mà, cu con, núm vú ấy,” giọng nói cáu kỉnh vang lên. “Cậu có bao nhiêu núm vú?”

“Ờ. Hai ạ?”

“Tốt. Cậu có kéo riêng chứ?”

“Gì ạ?”

“Kéo! Kéo ấy! Cậu điếc à?”

“Không. Có. Ý tôi là, tôi có kéo. Tôi không bị điếc.”

Cốc ca cao đã gần như cứng ngắc. Những sợi tơ xanh đang mọc lên trong lòng cốc.

Trên người Aziraphale cũng phủ một lớp bụi mỏng.

Chồng giấy ghi chép đang cao dần bên cạnh y. Cuốn Những Lời Tiên tri Tuyệt đích và Chuẩn xác đã bị gắn một đống thẻ đánh dấu trang xé ra từ báo Điện tín hằng ngày.

Aziraphale cựa mình, và day day sống mũi.

Y sắp đến đích rồi.

Y đã hình dung được.

Y chưa bao giờ gặp Agnes. Rõ ràng là bà quá thông minh. Thường thì Thiên đường hoặc Địa ngục sẽ tìm thấy những người có tài tiên tri và phát ra đủ tiếng nhiễu trên kênh tâm trí của họ để ngăn họ đưa ra những lời tiên tri chính xác quá mức. Thực ra, chỉ họa hoằn lắm mới cần đến cách đó, vì thường thì họ sẽ tự tìm được cách gây nhiễu để bảo vệ mình khỏi những hình ảnh vang vọng trong đầu họ. Ví dụ, Thánh John già khốn khổ dùng nấm. Má Shipton dùng rượu bia. Nostradamus có một bộ sưu tập thú vị đủ loại dược liệu của phương Đông. Thánh Malachi thì có lò chưng cất.

Ôi Malachi già cả. Ông ta là một ông già dễ mến, cứ ngồi đó mơ mộng về các vị giáo hoàng tương lai. Tất nhiên là một tay nát rượu. Lẽ ra ông ta đã có thể là một nhà tư tưởng thực sự, nếu không bập vào cái món rượu lậu ấy.

Một kết cục đáng buồn. Đôi khi ta thực sự chỉ biết hy vọng rằng kế hoạch bất khả tư nghị đã được suy tính cẩn thận.

Suy tính. Có một việc y phải làm. À, phải rồi. Gọi điện và thử tìm hiểu xem.

Y đứng dậy, vươn vai, rồi gọi điện.

Rồi y thầm nghĩ: sao không chứ? Cũng đáng thử.

Y quay lại lật giở qua đống giấy ghi chép. Quả thực Agnes đã rất giỏi. Và thông minh. Không ai quan tâm đến các lời tiên tri chính xác cả.

Điện thoại trong tay, y gọi cho Tổng đài Hỏi đáp.

“A lô? Xin chào. Tốt quá. Vâng. Đây là số ở Tadfield, tôi nghĩ vậy. Hoặc Tadfield Hạ... à. Có thể là Norton, tôi không dám chắc mã chính xác là gì. Vâng. Young. Tên là Young. Xin lỗi, không có chữ đầu tên. À. Vâng, cho tôi xin tất cả được không? Cảm ơn.”

Trên bàn, một cái bút chì tự đứng dậy và bắt đầu điên cuồng viết xuống.

Đến cái tên thứ ba thì nó bị gãy ngòi.

“À,” Aziraphale nói, miệng y đột nhiên tự động nói trong lúc trí não y nổ tung. “Tôi nghĩ đúng là số này rồi. Xin cảm ơn. Thật tốt quá. Chúc một ngày tốt lành.”

Y gác máy với vẻ gần như thành kính, hít vài hơi thật sâu, rồi lại quay số. Y hơi khó khăn một chút với ba số cuối, vì tay y đang run.

Y lắng nghe tiếng chuông đổ. Rồi một giọng trả lời. Đó là một giọng trung niên, không phải là không thân thiện, nhưng có lẽ vừa ngủ trưa dậy nên không thấy vui vẻ cho lắm.

Giọng đó nói, “Tadfield sáu-sáu-sáu đây.”

Tay Aziraphale bắt đầu run lên.

“A lô?” ông nói vang lên. “A lô.”

Aziraphale cố trấn tĩnh.

“Xin lỗi,” y nói. “Đúng số rồi.”

Y cúp máy.

Newton không bị điếc. Và đúng là cậu có kéo riêng. Cậu cũng có cả một chồng báo to tướng.

Nếu cậu biết đời sống quân đội chủ yếu bao gồm việc dính cái này vào cái kia thì cậu đã chẳng gia nhập, cậu thường nghĩ vậy.

Trung sĩ Săn Phù thủy Shadwell đã cho cậu một danh sách, được dán lên tường trong căn hộ nhỏ xíu chật chội của Shadwell bên trên Cửa hàng Sách báo và cho thuê băng đĩa của Rajit. Danh sách đó như sau:

1. Phù thủy.

2. Các Hiện tượng Kỳ lạ. Hiện tạng. Hiện tiếng. Các thứ ấy mà, cậu biết ý ta rồi đấy.

Newt đang tìm một trong hai thứ. Cậu thở dài và cầm một tờ báo khác lên, lướt qua trang đầu, mở báo ra, không đọc trang hai (trang hai chẳng bao giờ có gì) và đỏ bừng mặt khi phải đếm núm vú ở trang ba (*) . Shadwell khăng khăng bắt cậu làm thế. “Không thể tin được chúng, bọn xảo quyệt ấy,” lão nói. “Chúng đúng là cái kiểu phơi mình ra giữa thanh thiên bạch nhật như thế để thách thức chúng ta.”

Một cặp đôi mặc áo cổ lọ màu đen trừng mắt với máy ảnh ở trang chín. Họ tuyên bố dẫn đầu một hội phù thủy lớn nhất ở Saffron Walden, và có thể phục hồi năng lực tình dục bằng cách sử dụng những con búp bê nhỏ hình dương cụ. Báo sẽ tặng mười con búp bê này cho độc giả nào sẵn lòng gửi đến các câu chuyện về “Khoảnh khắc Bất lực Ê chề Nhất của Tôi”. Newt cắt bài báo đó ra và dán nó vào một quyển sổ.

Có tiếng đập thịch thịch ngoài cửa.

Newt ra mở; một chồng báo đứng đó. “Tránh ra, Binh nhì Pulsifer,” nó quát, rồi khệ nệ bước vào phòng. Chồng báo rơi xuống đất, lộ ra Trung sĩ Săn Phù thủy Shadwell, lão ho sù sụ rồi châm lại điếu thuốc vừa tắt.

“Cậu phải để mắt đến hắn. Hắn là một trong số chúng đấy,” lão nói.

“Ai cơ ạ?”

“Nghỉ, Binh nhì. Hắn ấy. Tên da nâu ấy. Kẻ được gọi là Rajit ấy. Mấy bức tranh nước ngoài kinh khủng đấy. Vị thần nhỏ màu vàng mắt hồng ngọc nheo nheo. Đàn bà nhiều tay. Toàn một lũ phù thủy cả.”

“Dù sao ông ấy cũng cho chúng ta báo miễn phí mà, thưa Trung sĩ,” Newt nói. “Và báo cũng không quá cũ.”

“Và tà thuật nữa. Ta dám cá là hắn dùng tà thuật. Hiến tế gà cho tên Nam tước Ngày thứ Bảy. (*) Cậu biết đấy, thằng cha da đen cao to đội mũ cao thành ấy mà. Gọi người chết sống dậy, đúng thế, và bắt họ làm việc vào ngày Sabbath. Tà thuật.” Shadwell khịt mũi vẻ nghi ngờ.

Newt cố hình dung ông chủ nhà của Shadwell là kẻ sử dụng tà thuật. Chắc chắn là ông Rajit có làm việc vào ngày Sabbath. Thật ra, cùng với bà vợ mũm mĩm ít nói và lũ con mũm mĩm vui tươi của mình, ông làm việc thâu đêm suốt sáng, bất kể ngày giờ, miệt mài đáp ứng yêu cầu của người dân quanh đó về nước ngọt có ga, bánh mì trắng, thuốc lá, kẹo, báo, tạp chí, và loại sách báo khiêu dâm được cất trên giá cao mà mới chỉ nghĩ đến Newt đã chảy nước mắt. Điều tệ nhất ta có thể tưởng tượng ông Rajit sẽ làm với một con gà là bán nó khi đã quá hạn sử dụng.

“Nhưng ông Rajit là người gốc Bangladesh, hay Ấn Độ gì đó,” cậu nói. “Tôi tưởng tà thuật đến từ vùng Tây Ấn chứ.”

“À,” Trung sĩ Săn Phù thủy Shadwell nói, và rít một hơi thuốc nữa. Hay có vẻ như vậy. Newt chưa bao giờ thực sự thấy điếu thuốc nào của cấp trên mình - chắc là do cái cách lão cúp bàn tay vào. Thậm chí lão còn làm đầu mẩu thuốc biến mất sau khi hút xong. “À.”

“Có phải thế không ạ?”

“Kiến thức bí truyền, nhóc ạ. Bí mật quân sự nội bộ của Đội quân Săn Phù thủy. Khi nào được thụ giáo hẳn hoi thì cậu cũng sẽ được biết chân lý bí mật. Một số tà thuật có thể đến từ Tây Ấn. Ta thừa nhận như vậy. À, phải, ta thừa nhận như vậy. Nhưng loại khủng khiếp nhất. Hắc ám nhất, nó đến từ, ừm...”

“Bangladesh?”

“Éééé! Đúng thế, nhóc, chính đó. Cậu nói hộ ta rồi đấy. Bangladesh. Chính xác.”

Shadwell làm đầu mẩu điếu thuốc biến mất, và lén lút quấn thêm một điêu nữa, không hề lộ ra giấy hay thuốc đâu.

“Vậy. Cậu tìm được gì không, Binh nhì Săn Phù thủy?”

“Ờ, có cái này ạ.” Newton chìa mẩu báo ra.

Shadwell nheo mắt nhìn. “À, bọn này,” lão nói. “Toàn thứ vớ vẩn. Tự gọi mình là phù thủy hả? Ta đã kiểm tra chúng nó năm ngoái. Đem theo cả một kho vũ khí ngay thẳng và một gói mồi lửa, cạy cửa ra, hóa ra là một đám sạch như lau như li. Chẳng qua là đang cố lăng xê dịch vụ bán sữa ong chúa qua thư thôi. Toàn thứ vớ vẩn. Có bị một con linh thú cắn vào mông quần họ cũng chẳng nhận ra. Vớ vẩn. Không giống ngày trước, nhóc ạ.”

Lão ngồi xuống và rót cho mình một cốc trà đường từ cái phích cáu bẩn.

“Ta đã kể cho cậu nghe việc ta được tuyển vào đội quân thế nào chưa nhỉ?” lão hỏi.

Newt coi đây là lời gợi ý cho cậu ngồi xuống. Cậu lắc đầu. Shadwell châm điếu thuốc cuốn bằng một cái bật lửa Ronson cũ nát và khẽ ho một tiếng vẻ biết ơn.

“Hắn là bạn cùng xà lim với ta. Đại tá Săn Phù thủy Ffolkes. Bị tù mười năm vì tội phóng hỏa. Đốt một hội phù thủy ở Wimbledon. Lẽ ra đã xử được tất cả bọn chúng, Nếu hắn không đến nhầm ngày. Một tay tử tế. Kể cho ta nghe về cuộc chiến... cuộc chiến vĩ đại giữa Thiên đường và Địa ngục... chính hắn đã kể với ta về Bí mật Nội bộ của Đội quân Săn Phù thủy. Các linh thú. Núm vú. Tất cả...

“Hắn biết mình sắp chết, cậu hiểu không. Phải có ai đó nối tiếp truyền thống. Như cậu bây giờ ấy...” Lão lắc đầu.

“Chúng ta giờ sa sút đến mức này đây, nhóc ạ,” lão nói. “Vài trăm năm trước, chúng ta hùng mạnh lắm. Chúng ta là phòng tuyến của thế giới trước bóng tối. Chúng ta là lằn ranh đỏ mong manh. Lằn ranh đỏ mong manh bằng lửa, hiểu không.”

“Tôi tưởng nhà thờ...” Newt mở lời.

“Phào!” Shadwell nói. Newt từng đọc luận điểm này trên sách báo, nhưng đây là lần đầu tiên cậu nghe có người nói nó thành lời. “Nhà thờ ấy à? Họ làm nổi trò trống gì? Họ cũng tệ không kém. Cũng như nhau cả thôi. Ta không thể tin là họ sẽ dẹp bỏ quỷ sứ, vì làm thế thì họ thất nghiệp à. Nếu phải đối đầu với hổ, ta không muốn đi cùng những kẻ định săn hổ bằng cách ném thịt cho nó. Không, nhóc ạ. Tất cả phụ thuộc vào chúng ta. Chống lại bóng tối.”

Im lặng hồi lâu.

Newt luôn cố nhìn ra điểm tốt đẹp nhất ở tất cả mọi người, nhưng ít lâu sau khi gia nhập ĐQSPT thì cậu đã nhận ra rằng cấp trên và đồng đội duy nhất của mình có đầu óc thăng bằng chỉ như một cái kim tự tháp lộn ngược. “Ít lâu” ở đây có nghĩa là trong vòng chưa đầy năm giây. Trung tâm đầu não của ĐQSPT là một căn phòng hôi hám với những bức tường màu nicotine, mà chắc chắn đó chính là nicotine, còn sàn có màu tàn thuốc, mà chắc chắn đó đích thị là tàn thuốc. Có một vuông thảm nhỏ. Newt cố tránh bước lên đó nếu có thể, vì nó cứ dính bết lấy giày cậu.

Có một tấm bản đồ các đảo Anh quốc đã ố vàng đính lên một bức tường, với những lá cờ tự làm cắm lên đây đó trên bản đồ; phần lớn các vị trí cắm cờ đều nằm trong khoảng cách đủ để đi từ London bằng Vé Ngày Hạ giá.

Nhưng Newt đã bền bỉ ở lại mấy tuần qua bởi vì, ờ, nỗi tò mò kinh hoàng đã biến thành nỗi thương hại kinh hoàng, rồi thành tình thương mến kinh hoàng. Hóa ra Shadwell chỉ cao độ mét rưỡi và mặc những thứ quần áo mà, bất luận chúng là gì, thì ngay cả trong trí nhớ ngắn hạn của ta đây sẽ luôn là một cái áo ba đờ xuy cũ. Lão già có thể còn nguyên hàm răng, nhưng đó chỉ là vì trừ lão ra không ai lại muốn những cái răng đó; chỉ cần đặt một cái răng đó dưới gối là Bà Tiên Răng sẽ phải trả lại đũa thần mà nghỉ việc liền.

Dường như lão chỉ sống bằng trà đường, sữa đặc, thuốc lá tự cuốn và một thứ năng lượng nội tại lầm lì nào đó. Shadwell có một Lý Tưởng, mà lão theo đuổi với toàn bộ khả năng của tâm hồn lão và tấm Vé tàu Ưu đãi Hưu trí của lão. Lão tin vào nó. Nó tiếp năng lượng cho lão như một cái tua bin.

Cả đời Newton Pulsifer chưa từng có một lý tưởng nào. Và theo như cậu biết thì cậu cũng chưa từng tin vào điều gì. Thật là xấu hổ, vì cậu rất muốn tin vào điều gì đó, vì cậu đã nhận ra rằng niềm tin là cái phao giúp nhiều người sống sót qua biển cả sóng gió của Cuộc đời. Cậu cũng muốn tin vào một vị Chúa Tối Cao, nhưng cậu sẽ thích hơn nếu có nửa giờ nói chuyện với Người để làm rõ một hai điều, trước khi nguyện làm con chiên. Cậu đã ngồi trong đủ loại nhà thờ, chờ đợi tia chớp xanh độc nhất ấy, nhưng nó không đến. Rồi cậu đã thử thành người Vô Thần chính thức, nhưng thậm chí cũng không có đủ niềm tin chắc chắn và thuyết phục để làm thế. Và cậu thấy mọi đảng phái chính trị đều dối trá như nhau. Và cậu đã từ bỏ sinh thái học khi tạp chí sinh thái cậu vẫn đặt mua đã cho độc giả thấy sơ đồ một khu vườn tự cung tự cấp, trên đó vẽ con dê sinh thái được buộc cách tổ ong sinh thái chưa đầy một mét. Newt đã dành rất nhiều thời gian ở nhà bà ngoại ở quê và nghĩ cậu có biết chút ít về thói quen của cả dê lẫn ong, và từ đó kết luận rằng tạp chí kia được biên tập bởi một lũ rồ dại mặc quần yếm. Hơn nữa, nó dùng từ “cộng đồng” một cách quá thường xuyên; Newt luôn ngờ rằng những người hay dùng từ “cộng đồng” đang dùng nó theo một nghĩa rất cụ thể nào đó không bao gồm cậu và tất cả những người cậu biết.

Rồi cậu đã thử tin vào vũ trụ, một niềm tin có vẻ hợp lý cho đến khi, một cách ngây thơ, cậu bắt đầu đọc những cuốn sách mới với tựa đề có những từ như là Hỗn mang, Thời gian và Lượng tử. Cậu phát hiện ra rằng ngay cả những người làm công việc vũ trụ, tạm gọi như vậy, cũng chẳng tin vào nó và thật ra còn khá tự hào về việc họ chẳng biết nó là gì hay thậm chí nó có thể tồn tại về mặt lý thuyết hay không.

Với đầu óc đơn giản của Newt, điều này thật không thể chấp nhận được.

Newt đã không tin vào đội Hướng đạo sinh Nhi đồng, và rồi, khi cậu đã đủ lớn, cũng không tin đội Hướng đạo sinh nốt.

Nhưng cậu sẵn sàng tin rằng làm nhân viên phát lương ở Tổng công ty Holdings (Holdings) có lẽ là công việc nhàm chán nhất trên đời.

Đây là vẻ bề ngoài của Newton Pulsifer: Nếu cậu chui vào bốt điện thoại và thay đồ, thì khi chui ra, may ra nhìn cậu sẽ giống Clark Kent.

Nhưng cậu thấy khá mến Shadwell. Mọi người đều thế, khiến Shadwell hết sức bực bội. Gia đình Rajit mến lão vì rốt cuộc lão luôn trả tiền thuê nhà và không gây rắc rối gì, và lão phân biệt chủng tộc theo một kiểu quanh co hậm hực đến nỗi gần như không làm ai phật ý; chỉ đơn giản là Shadwell ghét tất thảy mọi người trên đời, bất luận họ thuộc đẳng cấp, chủng tộc, hay tín ngưỡng nào, không ngoại trừ một ai.

Bà Tracy mến lão. Newt đã kinh ngạc khi phát hiện ra người thuê căn hộ còn lại là một bà trung niên phúc h?