← Quay lại trang sách

Thứ Bảy

Đang là sáng sớm ngày thứ Bảy, ngày cuối cùng của thế giới, và bầu trời đỏ hơn máu.

Người giao hàng Hỏa tốc Quốc tế vòng qua ngã rẽ với tốc độ rất thận trọng là năm mươi lăm cây số trên giờ, về số hai, và dừng lại bên vệ cỏ.

Ông ra khỏi xe, và lập tức nhào xuống một cái mương để tránh một chiếc xe tải đang lao qua khúc quanh với tốc độ hơn một trăm ba mươi cây số một giờ.

Ông đứng dậy, nhặt kính lên, đeo kính vào, nhặt gói bưu phẩm và tấm bìa kẹp giấy, phủi cỏ và bùn trên bộ đồng phục đi, rồi, như chợt nhớ ra, dứ nắm đấm về phía chiếc xe tải đang vùn vụt biến mất.

“Đáng lẽ không được phép lưu thông, lũ xe tải chết tiệt, chẳng coi ai ra gì, ta nói rồi đấy, ta nói rồi đây, nhớ đấy, ranh con, nếu không có xe thì mày cũng chỉ là người đi bộ thôi...”

Ông trèo xuống vệ cỏ, trèo qua một hàng rào thấp, và đến bên bờ sông Uck.

Người giao hàng Hỏa tốc Quốc tế đi dọc bờ sông, tay cầm gói bưu phẩm.

Ngồi xa xa phía bờ sông là một gã trai trẻ mặc toàn đồ trắng. Gã là người duy nhất trong tầm mắt. Tóc gã trắng, da gã trắng bệch như phấn, và gã ngồi nhìn xuôi nhìn ngược dòng sông như đang ngắm cảnh. Nhìn gã giống các thi sĩ lãng mạn thời Victoria, trước khi việc tiêu thụ và lạm dụng ma túy bắt đầu tràn lan.

Người giao hàng Hỏa tốc Quốc tế không hiểu nổi. Ngày xưa, mà thực ra là cũng chẳng xưa lắm, cứ vài chục mét dọc bờ sông lại có một người thả câu; trẻ con đã chơi đùa ở đây; các cặp đôi đã ra đây để lắng nghe tiếng róc rách rì rầm của dòng sông, để nắm tay nhau, để tình tứ dưới ánh hoàng hôn vùng Sussex. Chính ông cũng đã làm thế với Maud, bà nhà ông, trước khi họ lấy nhau. Họ đã đến đây để chơi úp thìa, và, vào một dịp đáng nhớ, để chơi chọc dĩa nữa.

Thời gian thay đổi nhiều thật, người giao hàng ngẫm nghĩ.

Giờ những tác phẩm điêu khắc bằng bọt cùng cặn dầu màu trắng và nâu lững lờ trôi trên mặt sông, có đoạn phủ kín đến hàng mét. Và ở những chỗ còn nhìn thấy được mặt nước thì nó cũng bị phủ một lớp phân tử hóa dầu mỏng dính.

Có tiếng vù vù chói tai khi một cặp ngỗng, sung sướng vì được trở lại nước Anh sau một chuyến bay dài mệt nhọc ngang qua Bắc Đại Tây Dương, hạ cánh xuống làn nước bóng loáng màu cầu vồng, và chìm nghỉm không vết tích.

Thế giới kỳ cục thật, người giao hàng nghĩ. Đây là sông Uck, vốn là dòng sông thơ mộng nhất vùng này, Thế mà giờ chỉ còn là một cái cống công nghiệp. Thiên nga chìm xuống đáy, còn cá thì nổi lên mặt.

Tiến bộ là thế đấy. Ta không thể ngăn tiến bộ được.

Ông đã đến chỗ gã trai mặc đồ trắng.

“Xin lỗi anh. Anh là Phấn?”

Gã trai mặc đồ trắng gật đầu nhưng không nói gì. Gã tiếp tục nhìn ra sông, mắt dõi theo một tác phẩm điêu khắc cực kỳ ấn tượng bằng bọt và cặn dầu.

“Đẹp thật,” gã thì thào. “Tất cả đều đẹp chết đi được.”

Người giao hàng bỗng chốc không biết nói gì. Rồi hệ thống tự động của ông bật lên. “Thế giới kỳ cục thật phải không, ý tôi là tôi đã đi giao hàng khắp nơi trên thế giới thế rồi tôi lại quay về đây gần như là về nhà, ý tôi là tôi sinh ra và lớn lên ở ngay gần đây, thế mà tôi đã đến Địa Trung Hải và Des O’ Moines, đó là ở Mỹ, thưa anh, giờ tôi lại về đây, bưu phẩm của anh đây.”

Gã trai tên Phấn nhận lấy gói bưu phẩm và cầm lấy tờ bìa kẹp giấy ký nhận. Gã vừa chạm vào cái bút thì nó bị chảy mực, và chữ ký của gã nhòe khi gã viết. Nó là một từ dài, bắt đầu bằng chữ Ô, rồi một vệt mực, rồi kết thúc bằng chữ gì đó có thể là -ịch hoặc cũng có thể là -iễm.

“Cảm ơn anh nhiều,” người giao hàng nói.

Ông bước trở lại dọc bờ sông, quay về con đường đông đúc xe cộ nơi ông đã đỗ xe, vừa đi vừa cố không nhìn dòng sông.

Đằng sau ông, gã trai mặc đồ trắng mở gói bưu phẩm. Trong đó là một cái vương miện - một vòng kim loại trắng, đính kim cương. Gã ngắm nó vài giây vẻ hài lòng, rồi đội nó lên. Cái vương miện lấp lánh dưới ánh bình minh. Rồi lớp xỉn, vốn đã phủ lên bề mặt ánh bạc của nó ngay khi ngón tay gã chạm vào, liền lan ra khắp cái vương miện, khiến nó đen sì đi.

White đứng dậy. Ô nhiễm không khí cũng có cái hay, đó là nó đem lại những buổi bình minh thật huy hoàng. Nhìn như ai đó đốt cháy bầu trời vậy.

Và một que diêm bất cẩn cũng sẽ châm lửa đốt cả dòng sông nữa, nhưng than ôi, giờ không còn thời gian. Trong tâm trí, gã đã biết Bộ Tứ sẽ gặp nhau ở đâu, khi nào, và gã sẽ phải nhanh chân nếu muốn đến đó vào chiều nay.

Có lẽ chúng ta sẽ đốt cháy bầu trời, gã thầm nghĩ. Và gã rời khỏi nơi đó, gần như không ai nhận thấy.

Sắp đến lúc rồi.

Người giao hàng đã để chiếc xe tải lại bên vệ cỏ của con đường hai làn. Ông đi sang phía tài xế (một cách cẩn thận, vì các xe cộ khác vẫn đang phóng vèo vèo qua khúc quanh), thò tay qua cửa sổ để ngỏ, và lấy tờ kế hoạch trên bảng đồng hồ.

Vậy là chỉ còn một đơn nữa phải giao thôi.

Ông đọc kỹ hướng dẫn trên tờ biên lai giao hàng.

Ông đọc lại lần nữa, đặc biệt chú ý tới địa chỉ và tin nhắn. Địa chỉ là ba chữ: Khắp mọi nơi.

Rồi, với cái bút chảy mực, ông viết một dòng cho Maud, vợ mình. Dòng chữ chỉ là, Tôi yêu mình.

Rồi ông lại cất tờ kế hoạch lên bảng đồng hồ, nhìn trái, nhìn phải, rồi lại nhìn trái, và bước ngang qua đường một cách đầy chủ đích. Ông đang đi được nửa đường thì một cỗ xe khổng lồ của Đức lao qua ngã rẽ, tay tài xế phát điên vì caffeine, những viên thuốc nhỏ màu trắng, và điều lệ giao thông của Cộng đồng Kinh tế châu Âu.

Ông nhìn theo chiếc xe to kềnh đi xa dần.

Trời, ông nghĩ, suýt nữa thì nó tông phải mình.

Rồi ông nhìn xuống rãnh.

Ồ, ông nghĩ.

PHẢI, một giọng nói vang lên sau vai trái ông, hay ít nhất là sau cái chỗ từng là vai trái ông.

Người giao hàng quay lại, nhìn, và thấy. Mới đầu ông không tìm nổi từ để nói, không tìm nổi điều gì, nhưng rồi thói quen của cả một đời làm việc lại chiếm lấy ông và ông nói, “Tôi có tin nhắn cho ngài, thưa ngài.”

CHO TA?

“Vâng, thưa ngài.” Ông ước gì mình vẫn còn cổ họng. Nếu vẫn còn cổ họng thì ông đã có thể nuốt khan. “Tôi e là không có bưu phẩm, thưa ông... ờ, ngài. Chỉ có tin nhắn thôi.”

VẬY NÓI ĐI.

“Là thế này, thưa ngài. E hèm. Hãy Đến và Nhìn Xem.”

CUỐI CÙNG CŨNG ĐẾN LÚC. Trên khuôn mặt đó là một nụ cười nhăn nhở, nhưng với khuôn mặt đó thì không thể có biểu cảm nào khác được.

CẢM ƠN, kẻ kia nói tiếp. TA XIN CÓ LỜI KHEN LÒNG TẬN TỤY VỚI CÔNG VIỆC CỦA ÔNG.

“Sao cơ, thưa ngài?” Người giao hàng quá cố đang ngã qua một màn sương xám, và ông chỉ thấy hai đốm sáng xanh, có lẽ là mắt, hoặc cũng có thể là hai vì sao xa xôi.

ĐỪNG NGHĨ ĐÂY LÀ CÁI CHẾT, Thần Chết nói, HÃY COI ĐÂY LÀ ĐI SỚM ĐỂ TRÁNH TẮC ĐƯỜNG.

Người giao hàng thoáng nghĩ xem có phải người bạn mới của mình đang đùa không, rồi quyết định là không phải; và rồi không còn gì nữa.

Vàng trời thì gió, đỏ trời thì mưa.

Đúng thế.

Trung sĩ Săn Phù thủy Shadwell lùi lại, đầu ngoẹo sang một bên. “Được rồi,” lão nói. “Cậu sẵn sàng rồi đấy. Có đủ cả chưa?”

“Rồi ạ, thưa Trung sĩ.”

“Quả lắc khám phá?”

“Quả lắc khám phá, vâng.”

“Kẹp ngón tay?”

Newt nuốt khan và vỗ vỗ một bên túi. “Kẹp ngón tay,” cậu đáp.

“Mồi lửa?”

“Thưa Trung sĩ, thực tình, tôi nghĩ là...”

“Mồi lửa?”

“Mồi lửa,” Newt rầu rĩ đáp. “Và diêm.” (*)

“Chuông, sách và nến?”

Newt vỗ vỗ một bên túi khác. Trong đó là một cái túi giấy đựng một cái chuông nhỏ, loại khiến loài vẹt đuôi dài phát điên, một cây nến hồng thuộc loại cắm lên bánh sinh nhật, và một cuốn sách nhỏ có tên là Lời cầu nguyện cho bàn tay nhỏ. Shadwell đã nhấn mạnh với cậu rằng, mặc dù phù thủy là mục tiêu chính, một lính săn phù thủy giỏi không bao giờ nên bỏ qua cơ hội thực hiện một lễ trừ tà nho nhỏ và lúc nào cũng phải cầm theo bộ dụng cụ.

“Chuông, sách và nến,” Newt đáp.

“Đinh ghim?”

“Đinh ghim.”

“Giỏi lắm. Không bao giờ được quên đinh ghim. Nó là lưỡi lê trong khẩu pháo ánh sáng của cậu đấy.”

Shadwell lùi lại. Newt kinh ngạc nhận thấy mắt lão già rưng rưng.

“Ước gì ta có thể đi cùng cậu,” lão nói. “Tất nhiên, sẽ chẳng có chuyện gì đâu, nhưng được ra ngoài cũng tốt. Vất vả lắm, cậu hiểu không, mấy vụ nằm trên dương xỉ ướt để rình những cuộc nhảy múa quỷ quái của chúng. Cái lạnh ngấm vào xương cốt ghê lắm.”

Lão đứng nghiêm và giơ tay chào.

“Lên đường đi, Binh nhì Pulsifer. Cầu cho các đội quân huy hoàng hành quân cùng cậu.”

Sau khi Newt đã lái xe đi, Shadwell nghĩ ra một việc, một việc mà lão chưa bao giờ có dịp làm trước đây. Cái lão cần bây giờ là một cái ghim. Không phải đinh ghim của quân đội, dùng cho phù thủy. Chỉ một cái ghim bình thường để gắn lên bản đồ thôi.

Tấm bản đồ treo trên tường. Nó đã cũ lắm rồi. Trên đó không có Milton Keynes. Cũng không có Harlow. Gần như không có cả Manchester và Birmingham nữa. Nó đã là bản đồ ở tổng hành dinh của đội quân từ ba trăm năm nay. Trên đó vẫn còn vài cái ghim, chủ yếu là ở Yorkshire và Lancashire và vài cái ở Essex, nhưng chúng đã gỉ gần hết. Ở những chỗ khác, chỉ còn những chấm nâu đánh dấu một nhiệm vụ xa xôi được thực hiện bởi một người lính săn phù thủy từ thời nào.

Cuối cùng Shadwell cũng tìm thấy một cái ghim giữa đống vụn trong gạt tàn. Lão hà hơi lên nó, đánh bóng nó, nheo mắt nhìn tấm bản đồ cho tới khi lão tìm thấy Tadfield, và đắc thắng cắm cái ghim vào đó.

Nó sáng lóe lên.

Shadwell lùi lại một bước và lại giơ tay chào. Mắt lão rớm lệ.

Rồi lão quay ngoắt ra sau và giơ tay chào cái tủ kính. Nó đã cũ và mục nát, kính đã vỡ cả, nhưng theo một cách nào đó thì nó chính là ĐQSPT. Trong đó là đồ bạc của Trung đoàn (Cúp Golf Liên Tiểu đoàn, đã không được tranh cướp từ, than ôi, bảy mươi năm nay); trong đó là khẩu Thần công nạp đạn bằng nòng đặc quyền của Đại tá Săn Phù thủy Ngươi-Không-Được-Ăn-Vật-Sống-Lẫn-Máu-Cũng-Như-Dùng-Phép-Thuật-Và-Xem-Giờ Dalrymple; trong đó là một loạt những thứ nhìn như quả óc chó nhưng thật ra là đầu khô của những kẻ săn đầu người được tặng bởi Thượng sĩ Horace “Bắt chúng trước khi chúng Bắt Ta” Narker, người đã đi đến nhiều vùng xa xôi; trong đó là ký ức.

Shadwell hỉ mũi ầm ĩ vào ống tay áo.

Rồi lão mở một lon sữa đặc để ăn sáng.

Nếu các đội quân huy hoàng định tìm cách hành quân cùng Newt thì người họ sẽ rơi lả tả thành từng mảnh. Đó là vì, ngoại trừ Newt và Shadwell ra, họ đã chết từ lâu.

Sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng Shadwell (Newt chưa bao giờ khám phá ra tên riêng của lão là gì) là gã gàn đơn độc.

Chỉ là những người khác đều đã chết, và phần lớn đã chết từ hàng trăm năm nay. Đã có thời đội quân lớn mạnh như trong cuốn sổ kế toán được thêm thắt một cách sáng tạo của Shadwell. Newt đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra Đội quân Săn Phù thủy cũng có lai lịch dài và gần như đẫm máu chẳng kém phiên bản thế tục của họ.

Tiền lương của lính săn phù thủy đã được định ra từ thời Oliver Cromwell và chưa bao giờ được xét lại. Sĩ quan được một curon, đại tướng được một đồng vàng. Tất nhiên, đó chỉ là tiền thù lao danh nghĩa, vì ta được chín xu cho mỗi phù thủy tìm được và được là người đầu tiên lấy phần mình từ của nả của phù thủy.

Ta đâm ra phụ thuộc vào số tiền chín xu ấy. Vì vậy mọi chuyện đã khá khó khăn trước khi Shadwell được nhận tiền lương của Thiên đường và Địa ngục.

Lương của Newt là một shilling cũ một năm. (*)

Để nhận khoản lương này, cậu phải luôn có “mồi lửa, súng kíp, hộp quẹt, hoặc diêm” bên mình, mặc dù Shadwell có nói một cái bật lửa ga Ronson cũng hoàn toàn chấp nhận được. Shadwell đã đón nhận phát minh bật lửa cũng như những người lính thông thường đón nhận súng tự động vậy.

Theo như Newt thấy thì việc này cũng giống như tham gia vào các tổ chức như Sealed Knot (*) hay những người cứ đánh mãi cuộc Nội chiến Anh hoặc Nội chiến Mỹ. Nó cho ta cơ hội ra ngoài vào cuối tuần, và có nghĩa là ta đang gìn giữ những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên nền văn minh phương Tây ngày nay.

Một tiếng sau khi rời tổng hành dinh, Newt dừng lại ở làn đường đỗ xe và lục lọi trong cái hộp trên ghế hành khách.

Rồi cậu mở cửa sổ xe bằng một cái kìm, vì tay cầm đã gãy từ lâu.

Gói mồi lửa bị ném qua hàng rào. Một lát sau, cái kẹp ngón tay cũng theo sau.

Cậu băn khoăn xem có nên ném nốt những thứ còn lại không, rồi cất chúng lại vào hộp. Cái đinh ghim là của Đội quân Săn Phù thủy, ở đầu là một cái núm bằng gỗ mun rất tốt, như ghim cài mũ của phụ nữ.

Cậu biết nó dùng để làm gì. Cậu đã đọc khá nhiều. Shadwell đã nhồi cho cậu cả đống tờ rơi vào hôm đầu tiên, nhưng Đội quân cũng đã thu thập được nhiều sách báo và tài liệu mà Newt ngờ rằng nếu đem bán sẽ đáng giá cả một gia tài.

Cái đinh ghim là để chọc vào người nghi phạm. Nếu trên người họ có chỗ nào đó mà họ không cảm thấy gì, thì họ là phù thủy. Đơn giản vậy thôi. Một số lính săn phù thủy lừa đảo đã dùng loại đinh ghim đặc biệt rút vào được, nhưng cái này thì hoàn toàn bằng thép cứng chân phương. Cậu sẽ không dám nhìn mặt lão Shadwell nữa nếu cậu vứt cái đinh ghim đi. Hơn nữa, làm thế có thể là xúi quẩy.

Cậu lại khởi động xe và tiếp tục cuộc hành trình.

Xe của Newt là một chiếc Wasabi. Cậu đặt tên cho nó là Dick Turpin (*) , với niềm hy vọng rằng sẽ có ngày ai đó hỏi cậu lý do.

Phải là một nhà sử học cực kỳ chính xác thì mới có thể chỉ ra cái ngày mà người Nhật biến từ những người máy xảo quyệt chỉ biết bắt chước mọi thứ của phương Tây để trở thành các kỹ sư tài tình và lành nghề, có thể bắt phương Tây hít bụi. Nhưng chiếc Wasabi đã được thiết kế vào chính cái ngày bối rối ấy, và nó kết hợp các điểm xấu thường thấy ở xe của phương Tây cùng với một loạt các sáng kiến thảm họa mà nhờ tránh xa chúng, các công ty như Honda và Toyota mới được như ngày hôm nay.

Thực ra Newt chưa bao giờ thấy một chiếc thứ hai trên đường, mặc dù đã rất cố gắng. Suốt nhiều năm, và dù chẳng tin cho lắm, cậu đã tán dương sự hiệu quả và tiết kiệm của nó với bạn bè mình, trong niềm mong mỏi tuyệt vọng rằng một trong số họ sẽ mua một chiếc, vì kẻ khốn khổ luôn muốn có đồng bạn.

Một cách vô ích, cậu chỉ ra động cơ 823cc của nó, hộp số có ba tốc độ của nó, các thiết bị an toàn khó tin của nó như là những túi khí thường phồng lên vào những lúc nguy hiểm như khi ta đang đi với tốc độ 75 km/h trên một con đường khô ráo thẳng thớm nhưng lại sắp bị đâm vì một túi khí an toàn khổng lồ vừa chắn mất tầm nhìn. Cậu cũng hết lời ca ngợi cái đài chế tạo ở Triều Tiên, có thể bắt được Đài Phát thanh Bình Nhưỡng rất rõ, và giọng nói điện tử nhắc ta phải cài dây an toàn ngay cả khi ta đã cài rồi; nó đã được lập trình bởi một người không những không biết tiếng Anh mà còn không biết cả tiếng Nhật nữa. Nó là đỉnh cao của nghệ thuật đấy, cậu nói vậy.

Nghệ thuật ở đây có lẽ là nghề làm gốm.

Bạn bè cậu đã gật gù đồng tình, nhưng trong thâm tâm họ tự nhủ là nếu phải chọn giữa mua một chiếc Wasabi và đi bộ thì họ thà bỏ tiền mua một đôi giày; đằng nào cũng thế, vì một lý do chiếc Wasabi có chỉ số tiêu hao nhiên liệu tuyệt vời như vậy là do nó dành rất nhiều thời gian chờ đợi trong các gara khi tay quay và các linh kiện khác được gửi đến từ đại lý Wasabi duy nhất còn tồn tại ở Nigirizushi, Nhật Bản.

Trong cái trạng thái xuất thần lơ đễnh, mơ màng mà phần lớn mọi người thường chìm vào khi lái xe, Newt tự hỏi không biết cái đinh ghim chính xác được dùng như thế nào. Có phải nói, “Ta có đinh ghim và ta không ngại dùng nó đâu” không? Có đinh ghim, sẽ lên đường... Người Đấu Ghim... Người có chiếc ghim vàng... Những chiếc ghim của Navarone (*) ...

Newt có lẽ sẽ thấy hứng thú khi biết rằng, trong số ba mươi chín ngàn phụ nữ bị thử bằng đinh ghim trong suốt bao nhiêu thế kỷ săn phù thủy, hai mươi chín ngàn người đã kêu “ui da”, chín ngàn chín trăm chín mươi chín người không cảm thấy gì do loại ghim rút vào được đã nói ở trên, và một phù thủy tuyên bố rằng kỳ diệu thay, nó đã chữa khỏi bệnh viêm khớp ở chân bà.

Tên bà là Agnes Nutter.

Bà là thất bại lớn nhất của Đội quân Săn Phù thủy.

Một trong những mục đầu tiên của Những Lời Tiên tri Tuyệt đích và Chuẩn xác nói về cái chết của chính Agnes Nutter.

Người Anh nhìn chung là một dân tộc dốt nát và lười biếng, không khoái việc thiêu sống phụ nữ như các nước châu Âu khác. Ở Đức, các đống lửa được xếp và đốt với sự tỉ mỉ thường thấy của dân Giéc manh. Ngay cả những người Scotland sùng đạo, mắc kẹt trong cuộc chiến suốt chiều dài lịch sử với kẻ tử thù là những người Scotland khác, cũng xoay xở được vài vụ thiêu sống để giết thời gian trong những tối mùa đông dài dằng dặc. Nhưng người Anh dường như chẳng hứng thú gì với việc đó.

Một lý do cho chuyện này có lẽ là vì cái chết của Agnes Nutter, cái chết đã gần như chấm dứt thời kỳ săn phù thủy điên cuồng thực sự ở Anh. Một đám đông gào thét, điên cuồng cực độ vì bà có cái thói cứ tỏ ra thông thái và chữa bệnh cho mọi người, đã kéo đến nhà bà vào một tối tháng Tư và thấy bà đã mặc áo khoác ngồi đợi sẵn.

“Các người đến muộn rồi,” bà bảo họ. “Lễ ra ta phải cháy từ mười phút trước rồi.”

Rồi bà đứng dậy và chậm rãi bước tập tễnh qua đám người bỗng dưng im bặt, ra khỏi nhà để đến chỗ đống lửa đã được nhóm vội vàng trên bãi cỏ giữa làng. Truyền thuyết kể lại rằng bà loay hoay trèo lên giàn thiêu và vòng tay quanh cái cột sau lưng.

“Buộc cho chắc vào,” bà nói với tay lính săn phù thủy đang ngỡ ngàng. Và rồi, khi đám dân làng rón rén đến bên giàn thiêu, bà ngước mái đầu đẹp đẽ lên trong ánh lửa và nói, “Lại gần đây, hỡi người dân tử tế. Hãy lại gần đến khi lửa làm các người thấy nóng, vì ta bắt các người phải chứng kiến phù thủy cuối cùng của nước Anh đã chết như thế nào. Vì ta đúng là phù thủy, và ta đã được phán xét như vậy, nhưng ta vẫn không biết ta đã phạm tội gì. Vì vậy, hãy để cái chết của ta làm lời cảnh báo tới toàn thế gian. Hãy lại gần đây, ta đã bảo rồi, và hãy nhớ kỹ số phận của những kẻ chọc mũi vào chuyện chúng không hiểu.”

Và hình như sau đó bà còn mỉm cười rồi nhìn lên bầu trời trên làng và nói thêm, “Cả lão cũng vậy, lão già ngớ ngẩn ạ.”

Và sau lời báng bổ kỳ lạ đó bà không nói gì nữa. Bà để họ bịt miệng mình, và đứng đầy oai nghiêm khi ngọn đuốc được châm vào đống củi khô.

Đám đông kéo lại gần hơn, và giờ khi thực sự nghĩ về nó, một hai người trong số đó đã bắt đầu băn khoăn không hiểu liệu họ có đang làm điều đúng đắn.

Ba mươi giây sau một vụ nổ quét sạch khu đất trống của làng, giết sạch mọi sinh vật sống trong thung lũng, và ở tận Halifax cũng còn trông thấy.

Sau này đã có nhiều cuộc tranh luận xem vụ nổ là do Chúa Trời hay quỷ Satan gửi đến, nhưng một tờ giấy tìm thấy trong nhà của Agnes Nutter đã giải thích rằng bất kỳ sự can thiệp thần thánh hay ma quỷ nào thì cũng đã được trợ giúp rất nhiều bởi những thứ có sẵn trong váy lót của Agnes, bà đã thấy trước mà giấu vào đó gần bốn mươi cân thuốc súng và hai mươi cân đinh lợp mái nhà.

Agnes cũng để lại trên bàn bếp, bên cạnh tờ giấy nhắn hủy đơn mua sữa, một cái hộp và một cuốn sách. Có hướng dẫn cụ thể về việc phải làm gì với cái hộp, và hướng dẫn cũng cụ thể không kém về việc phải làm gì với cuốn sách; nó phải được gửi đến cho con trai của Agnes là John Device.

Những người tìm thấy nó - người làng bên, đã bị vụ nổ đánh thức - đã định bỏ qua các hướng dẫn này và đốt trụi luôn căn nhà, nhưng rồi họ nhìn những đống lửa còn bập bùng cùng những đống đổ nát đầy đinh chung quanh và quyết định sẽ không làm vậy. Hơn nữa, mẩu thư của Agnes cũng kèm theo cả những tiên đoán cụ thể đến ghê người về chuyện sẽ xảy ra với những kẻ không chịu làm theo mệnh lệnh của bà.

Người châm đuốc thiêu Agnes Nutter là một Thiếu tá Săn Phù thủy. Người ta tìm thấy mũ của ông ta trên một ngọn cây cách đó hơn ba cây số.

Tên ông ta được thêu bên trong mũ trên một dải băng khá rộng, là Ngươi-Không-Được-Ngoại-Tình Pulsifer, một trong những lính săn phù thủy chuyên cần nhất nước Anh, và có lẽ ông ta sẽ có chút đắc thắng khi biết hậu duệ cuối cùng của mình đang tiến về phía hậu duệ cuối cùng của Agnes Nutter, dù không hay biết. Hẳn ông ta sẽ cảm thấy mối thù truyền kiếp cuối cùng sẽ được trả.

Nếu ông ta biết chuyện gì sẽ xảy ra khi hai hậu duệ gặp nhau thì chắc ông ta sẽ đội mồ sống dậy mất, mỗi tội ông ta chẳng có mồ mả gì.

◇ ❖ ◇

Tuy nhiên, trước tiên Newt phải làm gì đó với cái đĩa bay đã.

Nó hạ cánh trước mặt cậu đúng lúc cậu đang tìm lối rẽ vào làng Tadfield Hạ và đang trải tấm bản đồ lên vô lăng. Cậu phải phanh gấp.

Nhìn nó giống hệt mọi bức tranh hoạt họa vẽ đĩa bay mà Newt đã từng thấy.

Khi cậu trố mắt nhìn qua bên trên tấm bản đồ, một cánh cửa trên đĩa bay trượt mở ra với một tiếng vút nghe sướng tai, và một cầu thang lấp lánh tự động hạ xuống mặt đường. Một luồng sáng xanh rực chiếu ra, làm nổi bật ba hình sinh vật ngoài hành tinh. Họ bước xuống cầu thang. Hay đúng ra là chỉ có hai sinh vật bước đi. Sinh vật thứ ba, nhìn như lọ tiêu, chỉ trượt xuống rồi ngã vật ra dưới chân cầu thang.

Hai sinh vật kia không để ý đến tiếng bíp bíp hốt hoảng của đồng bọn mà cứ thế chậm rãi đến bên chiếc xe, theo cung cách đã được chấp nhận của cảnh sát trên toàn thế giới, tức là vừa đi vừa lập sẵn bảng tội trạng trong đầu. Sinh vật cao nhất, một con cóc màu vàng quấn giấy nhôm, gõ lên cửa sổ của Newt. Cậu hạ cửa kính xuống. Sinh vật đó đeo một cặp kính râm tráng gương mà Newt luôn gọi là kính Luke Tay Lạnh (*) .

“Chào buổi sáng thưa anh, chị, hoặc trung tính,” sinh vật đó nói. “Đây là hành tinh của anh phải không?”

Sinh vật ngoài hành tinh kia, dáng thấp tròn và da xanh, đã đi vào khu rừng bên vệ đường. Qua khóe mắt, Newt thấy nó đá một cái cây, rồi cho một chiếc lá chạy qua một thiết bị phức tạp gì đó trên thắt lưng. Nó có vẻ không hài lòng cho lắm.

“Ờ, vâng. Tôi đoán vậy,” cậu đáp.

Con cóc trầm ngâm nhìn đường chân trời.

“Đã có lâu rồi, phải không?” nó hỏi.

“Ờ. Cá nhân tôi thì không. Ý tôi là, nếu tính cả loài người thì chắc là độ nửa triệu năm. Khoảng vậy.”

Sinh vật ngoài hành tinh liếc mắt với đồng sự của nó. “Đã để mưa axit tăng dần, phải không?” nó nói. “Đã để kệ cho hydrocarbon tràn lan, phải không?”

“Sao cơ?”

“Anh có thể cho tôi biết suất phản chiếu của hành tinh anh không?” con cóc hỏi, vẫn bình thản nhìn đường chân trời như thể ở đó đang có chuyện gì thú vị lắm.

“Ờ. Không.”

“Thế thì tôi rất tiếc phải cho anh biết, thưa anh, rằng băng ở hai đầu cực của anh có kích thước thấp hơn mức quy định của một hành tinh thuộc nhóm này, thưa anh.”

“Ôi trời,” Newt nói. Cậu đang tự hỏi mình có thể kể cho ai nghe chuyện này, và nhận ra sẽ chẳng có ai tin cậu.

Con cóc cúi xuống gần hơn. Dường như nó đang băn khoăn về chuyện gì đó, Nếu Newt có thể đánh giá biểu cảm của một sinh vật ngoài hành tinh cậu chưa gặp bao giờ.

“Lần này chúng tôi sẽ cho qua, thưa anh.”

Newt lắp bắp. “Ồ. À. Tôi sẽ lo liệu... ờ, khi tôi nói là tôi, thì ý tôi là, tôi nghĩ Bắc Cực và mấy chỗ đó thuộc về tất cả các quốc gia, hoặc đại loại thế, và...”

“Thực tế là, thưa anh, chúng tôi được yêu cầu đem đến cho các anh một tin nhắn.”

“Vậy ư?”

“Tin nhắn là, ‘Chúng tôi đem đến thông điệp về sự hòa hợp và thái bình trên toàn vũ trụ và đại loại thế.’ Kết thúc tin nhắn,” con cóc nói.

“À.” Newt ngẫm nghĩ về thông điệp đó. “À. Các vị tử tế quá.”

“Anh có biết tại sao chúng tôi lại được yêu cầu đem tin nhắn này đến cho các anh không, thưa anh?” con cóc hỏi.

Nét mặt Newt tươi tỉnh lên. “À, ờ, tôi đoán là,” cậu luống cuống, “vì Nhân loại đã khai thác nguyên tử và...”

“Chúng tôi cũng không biết, thưa anh.” Con cóc vươn người thẳng dậy. “Chắc là một hiện tượng kỳ lạ gì đó. Thôi, chúng tôi phải đi đây.” Nó lắc đầu vẻ mơ hồ, rồi quay đi và lạch bạch trở về đĩa bay mà không nói thêm một lời.

Newt thò đầu qua cửa sổ.

“Cảm ơn nhé!”

Sinh vật ngoài hành tinh nhỏ hơn đi qua chiếc xe.

“Mức CO 2 tăng 0.5 phần trăm,” nó nói giọng khàn khàn, ném cho cậu một cái nhìn đầy ẩn ý. “Anh biết là mình có thể bị buộc tội là loài thống trị trong khi bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tiêu dùng bốc đồng chứ?”

Chúng nhấc sinh vật ngoài hành tinh thứ ba dậy, kéo nó lên cầu thang, và đóng cửa lại.

Newt đợi một lát xem còn màn trình diễn ánh sáng hoành tráng nào nữa không, nhưng cái đĩa bay cứ đứng đó. Cuối cùng cậu lái xe lên vệ cỏ để đi vòng qua nó. Khi cậu nhìn lại gương chiếu hậu thì nó đã biến mất.

Chắc mình đã làm quá lên cái gì đó rồi, cậu ngẫm nghĩ vẻ tội lỗi. Nhưng là cái gì chứ?

Mà mình còn không thể kể với Shadwell được, chắc chắn ông ấy sẽ chửi mình vì cái tội không đếm núm vú của chúng.

“Mà này,” Adam nói, “bọn mày đã nhầm về phù thủy rồi.”

Bọn Chúng đang ngồi trên một cánh cổng ngoài đồng, nhìn Chó lăn lộn giữa đám phân bò. Con chó lai nhỏ bé có vẻ đang hết sức vui thích.

“Tao đã đọc về họ,” thằng bé nói, cao giọng hơn. “Thật ra họ mới là người đúng và tra tấn họ bằng Tòa án Dị giáo Anh quốc và các thứ như thế là sai.”

“Mẹ tao bảo họ chỉ là những phụ nữ thông minh dùng phương cách duy nhất khả dĩ với họ để chống lại sự bất công áp bức của một xã hội do nam giới làm chủ,” Pepper nói.

Mẹ Pepper là giảng viên ở trường Bách khoa Norton. (*)

“Ừ, nhưng mẹ mày lúc nào chả nói những câu như thế,” lát sau Adam nói.

Pepper vui vẻ gật đầu. “Và mẹ tao còn bảo, tệ nhất thì họ cũng chỉ là những người tư tưởng độc lập, sùng bái quy luật phát sinh vô tận.”

“Quy luật phàn sinh là ai?” Wensleydale hỏi.

“Chịu. Tao nghĩ là có liên quan gì đó đến cây nêu tháng Năm thì phải,” Pepper đoán mò.

“Ờ, tao lại tưởng là họ thờ quỷ sứ chứ,” Brian nói, nhưng không có vẻ kết tội. Bọn Chúng suy nghĩ rất thoáng về chuyện thờ quỷ. Bọn Chúng suy nghĩ rất thoáng về tất cả mọi thứ. “Dù sao thì quỷ sứ cũng hay hơn là cây nêu tháng Năm ngớ ngẩn.”

“Chúng mày nhầm ở chính chỗ đó đấy,” Adam nói. “Không phải quỷ sứ đâu. Mà là một vị thần khác hay gì gì đấy. Có sừng.”

“Quỷ sứ chứ còn gì,” Brian nói.

“Không phải,” Adam kiên nhẫn nói. “Mọi người nhầm họ với nhau. Vị thần đó cũng có sừng. Tên ông ta là Pan. Ông ta có một nửa là dê.”

“Nửa nào?” Wensleydale hỏi.

Adam ngẫm nghĩ một lát.

“Nửa dưới,” cuối cùng nó đáp. “Thế mà mày không biết. Tao tưởng ai cũng biết cái đó chứ.”

“Dê làm gì có nửa dưới,” Wensleydale nói. “Chúng có nửa trước và nửa sau. Như bò ấy.”

Chúng ngắm Chó thêm một lát nữa, gõ gót giày vào cổng. Trời nóng đến mụ cả đầu.

Rồi Pepper nói, “Nếu ông ta có chân dê thì làm sao có sừng được. Sừng thuộc về nửa trên cơ mà.”

“Có phải tao bịa ra đâu?” Adam bực mình nói. “Tao chỉ kể cho bọn mày nghe thôi. Thế mà bọn mày cứ làm như tao bịa ra ông ta ấy. Sao cứ phải vặn vẹo tao làm gì.”

“Dù sao thì,” Pepper nói. “Cái ông Nồi (*) ngớ ngẩn ấy không thể than phiền là mọi người cứ nhầm mình với quỷ sứ được. Ai bảo ông ta có sừng. Chắc chắn người ta sẽ nói, ôi, quỷ sứ đến kìa.”

Chó bắt đầu đào một cái hang thỏ.

Adam, dường như đang suy nghĩ gì đó lung lắm, hít một hơi thật sâu.

“Bọn mày đừng có nghĩ tất cả theo nghĩa đen như thế,” nó nói. “Vấn đề ngày nay là thế đấy. Chủ nghĩa vật chất. Chính những người như bọn mày đã chặt phá rừng nguyên sinh và làm thủng tầng ozone. Ở tầng ozone có một cái lỗ to tướng chỉ vì những người chủ nghĩa vật chất như bọn mày.”

“Tao thì làm gì được,” Brian nói ngay. “Tao vẫn còn đang trả tiền cho cái giàn dưa chuột ngớ ngẩn kia kìa.”

“Trong tạp chí có nói hết,” Adam nói. “Phải mất hàng triệu héc ta rừng mưa mới làm ra được một cái burger thịt bò. Và ozone thì đang rò đi hết vì...” nó ngần ngừ, “mọi người cứ phun thuốc ra môi trường.”

“Còn cả bọn cá voi nữa,” Wensleydale nói. “Mình phải cứu lấy chúng.”

Adam đờ mặt ra. Trong lúc lục lọi các số cũ của tạp chí Bảo Bình mới, nó không thấy nói gì đến cá voi cả. Các biên tập viên đã mặc định là độc giả hoàn toàn ủng hộ việc cứu cá voi, cũng như họ mặc định các độc giả đó hít thở khí trời và đi bằng hai chân.

“Có một chương trình về chúng,” Wensleydale giải thích.

“Sao phải giữ gìn chúng?” Adam hỏi. Nó bối rối tưởng tượng ra việc dành dụm cá voi cho đến khi có đủ để đổi lấy một cái huy hiệu.

Wensleydale ngừng lời và moi óc cố nhớ. “Vì chúng biết hát. Và chúng có não rất to. Chúng chỉ còn lại rất ít. Và con người cũng chẳng cần giết chúng làm gì vì thịt chúng chỉ để làm thức ăn cho vật nuôi thôi, đại loại thế.”

“Nếu chúng thông minh thế,” Brian chậm rãi nói, “thì sao chúng lại ở ngoài biển?”

“Ờ, tao thấy có sao đâu,” Adam nói vẻ trầm ngâm. “Bơi suốt ngày, chỉ việc há miệng ra ăn... nghe có vẻ thông minh đấy chứ...”

Một tiếng phanh két và tiếng loảng xoảng kéo dài cắt ngang lời nó. Cả bọn trèo xuống khỏi cánh cổng và chạy lên lối mòn dẫn ra ngã tư, nơi một tiếng xe nhỏ đang nằm chổng ngược ở cuối một vệt phanh dài.

Cách đó một quãng dưới con đường là một cái hố. Hình như chiếc xe đã quẹo tránh nó. Khi chúng nhìn cái hố, một cái đầu nhỏ trông giống của dân phương Đông vội tụt xuống.

Bọn Chúng kéo cửa xe và lôi Newt đã bất tỉnh ra. Adam tưởng tượng ra các thể loại huy chương can đảm giải cứu người bị nạn. Đầu Wensleydale thì lại đầy những suy nghĩ thiết thực về sơ cứu.

“Không nên di chuyển anh ấy,” nó nói. “Lỡ có xương gãy. Bọn mình phải đi gọi ai đó.”

Adam nhìn quanh. Có một mái nhà thấp thoáng giữa tán cây phía cuối đường. Là Nhà Hoa Nhài.

Và trong Nhà Hoa Nhài, Anathema Device đang ngồi trước cái bàn có bông băng, thuốc aspirin, và nhiều dụng cụ cấp cứu khác mà cô đã xếp sẵn từ một giờ trước.

Anathema đã để ý đồng hồ. Chàng sắp đến rồi, cô thầm nghĩ.

Và rồi, khi chàng đến, thì chàng lại không giống như người cô chờ đợi. Hay đúng hơn, chàng không giống người cô đã hy vọng.

Một cách ngượng nghịu, cô đã hy vọng đó sẽ là một chàng trai cao lớn, tóc đen, đẹp trai.

Newt cao thật, nhưng cao theo kiểu dài ngoẵng, lêu nghêu. Và mặc dù tóc cậu đen thật, nó không phải là một phụ kiện thời trang; nó chỉ là một mớ những sợi đen mảnh mọc cùng nhau trên đỉnh đầu cậu. Đó không phải lỗi của Newt; hồi bé, cứ vài tháng một lần, cậu lại đến hiệu cắt tóc ở góc phố, nắm chặt một bức ảnh mà cậu đã cẩn thận xé ra từ một cuốn tạp chí, trên đó là một người có kiểu tóc cực ngầu đang toét miệng cười với máy ảnh, và cậu chỉ bức ảnh cho ông thợ cắt tóc rồi nhờ ông ta làm ơn biến cậu thành như thế. Và ông thợ cắt tóc, vốn đã quen việc, chỉ nhìn một cái rồi cho Newt kiểu đầu cơ bản, đa năng, ngắn-phía-sau-và-hai-bên. Sau một năm như vậy, Newt nhận ra rõ ràng là mặt cậu chả hợp với kiểu tóc nào cả. Điều tử tế nhất mà Newton Pulsifer có thể hy vọng sau khi cắt tóc là mái tóc ngắn hơn.

Với đồ vét cũng vậy. Chưa ai phát minh ra loại quần áo nào có thể khiến cậu có vẻ bảnh bao, sành điệu và thoải mái. Giờ cậu đành hài lòng với bất kỳ thứ gì có thể che mưa và có chỗ cho cậu cất tiền lẻ.

Và cậu không đẹp trai. Ngay cả khi cậu bỏ kính ra. (*) Và, cô đã phát hiện ra khi cởi giày cậu để đặt cậu lên giường, là cậu đi tất cọc cạch: một chiếc màu xanh thủng gót, và một chiếc màu xám thủng ngón.

Mình đoán là mình phải cảm thấy một cảm xúc dịu dàng, ấm áp gì-gì-đó về chuyện này, cô thầm nghĩ. Mình chỉ ước là anh ta đã giặt chúng.

Vậy... cao, tóc đen, nhưng không đẹp trai. Cô nhún vai. Cũng được. Hai trên ba cũng không tệ lắm.

Dáng người trên giường bắt đầu cựa quậy, và Anathema, vốn luôn nhìn về tương lai, liền nén nỗi thất vọng và nói:

“Anh cảm thấy thế nào rồi?”

Newt mở mắt ra.

Cậu đang nằm trong một phòng ngủ. và không phải phòng cậu. Cậu biết ngay vì cái trần. Trần phòng cậu vẫn còn mô hình máy bay treo trên dây. Cậu chưa bao giờ hạ chúng xuống.

Trần phòng này chỉ là lớp vữa nứt rạn. Newt chưa bao giờ vào buồng phụ nữ, nhưng cậu cảm nhận được đây là buồng phụ nữ vì có một loạt các mùi êm dịu kết hợp với nhau. Có một thoáng mùi bột tan cùng mùi hoa huệ, và không hề có chút hôi hám nào của những cái áo phông cũ đã quên mất cảnh tượng bên trong một cái máy sấy.

Cậu cố ngẩng đầu dậy, rên lên một tiếng, rồi lại gục xuống gối. Gối màu hồng, cậu không thể không nhận ra.

“Anh đã đập đầu vào vô lăng,” giọng nói vừa đánh thức cậu lên tiếng. “Nhưng may mà không sao. Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Newt lại mở mắt ra.

“Xe ổn chứ?” cậu hỏi.

“Chắc vậy. Có một giọng léo nhéo cứ nói ‘Nàm ơn cày rây an tòn’.”

“Thấy chưa?” Newt nói với đám khán giả vô hình. “Ngày xưa họ mới chế tạo được những thứ như thế chứ. Lớp vỏ nhựa gần như không hề hấn gì.”

Cậu chớp mắt nhìn Anathema.

“Tôi đánh tay lái để tránh một người Tây Tạng trên đường,” cậu nói. “Ít ra thì tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ có lẽ tôi đã hóa điên.”

Dáng người kia bước vòng qua giường để tiến vào tầm mắt cậu. Dáng người có mái tóc đen, đôi môi đỏ, cặp mắt xanh lục, và gần như chắc chắn là nữ. Newt cố không nhìn chằm chằm. Dáng người nói, “Nếu anh có hóa điên thì cũng chẳng ai để ý đâu.” Rồi cô mỉm cười. “Anh có biết là tôi chưa bao giờ gặp một lính săn phù thủy không?”

“Ờ...” Newt mở miệng. Cô giơ cái ví đang mở của cậu lên.

“Tôi đã phải xem bên trong,” cô nói.

Newt thấy ngượng chín người, một tình cảnh chẳng lấy gì làm khác thường. Shadwell đã cho cậu một thẻ chứng nhận của lính săn phù thủy, trên đó, ngoài các thứ khác, còn yêu cầu các thầy tư tế, quan tòa, giám mục, và nhân viên tòa án cho cậu được tự do đi lại và tất cả số củi khô cậu yêu cầu. Nó cực kỳ ấn tượng, một tuyệt tác thư pháp, và có lẽ đã cổ lắm rồi. Cậu đã quên bẵng nó đi.

“Chỉ là thú tiêu khiến ngoài giờ thôi,” cậu khổ sở nói. “Thật ra tôi là... là...” cậu sẽ không nói mình là nhân viên phát lương, không phải ở đây, không phải bây giờ, không phải với một cô gái như thế này, “Kỹ sư tin học,” cậu nói dối. Muốn trở thành, muốn trở thành; trong thâm tâm tôi là kỹ sư tin học thật mà, chỉ là đầu óc tôi không được như ý thôi. “Xin phép, cho tôi hỏi...”

“Anathema Device,” Anathema đáp. “Tôi là nhà huyền học, nhưng đó chỉ là thú tiêu khiển ngoài giờ thôi. Thật ra tôi là phù thủy. Anh khá lắm. Anh muộn nửa tiếng,” cô nói thêm, trao cho cậu một tấm bìa cứng nhỏ, “nên tốt nhất là anh nên đọc cái này. Cho đỡ mất thời gian.”

◇ ❖ ◇

Quả thực Newt cũng có một cái máy tính nhỏ ở nhà, bất chấp những trải nghiệm thời thơ ấu của cậu. Thật ra, cậu có đến vài cái. Ta luôn biết cái nào là máy tính của cậu. chúng là phiên bản máy tính của chiếc Wasabi. Ví dụ, chúng là những cái máy tính thường giảm giá còn một nửa ngay sau khi cậu mua. Hoặc được ra mắt trong một chiến dịch quảng cáo rầm rộ rồi biến mất không tăm tích sau một năm. Hoặc chỉ hoạt động được nếu ta bỏ chúng vào tủ lạnh. Hoặc, nếu nhờ ăn may mà chúng là máy tính tốt, thì Newt luôn vớ phải những cái được bán cùng hệ điều hành phiên bản đầu chứa đầy lỗi. Nhưng cậu vẫn bền chí, bởi vì cậu tin.

Adam cũng có một cái máy tính nhỏ. Thằng bé dùng nó để chơi trò chơi, nhưng chẳng bao giờ được lâu. Nó sẽ mở một trò chơi, chăm chú quan sát vài phút, rồi chơi cho đến khi ô Điểm Cao hết cả số không.

Khi những đứa Bọn Chúng khác tò mò về khả năng kỳ lạ này, Adam tỏ ra hơi ngạc nhiên là không phải ai cũng chơi như thế.

“Bọn mày chỉ việc học cách chơi, sau đó dễ ợt mà,” nó nói.

Newt thót tim khi thấy phòng trước của Nhà Hoa Nhài bị chiếm kha khá bởi hàng chồng báo. Các mẩu báo được cắt ra và đính lên tường. Một số có những phần được khoanh bằng mực đỏ. Cậu hơi hài lòng nhận ra trong số đó có cả vài mẩu tin cậu đã cắt ra cho Shadwell.

Anathema hầu như không có đồ đạc gì mấy. Thứ duy nhất cô bỏ công đem theo là cái đồng hồ, một trong những vật gia truyền của gia đình. Nó không phải là đồng hồ tủ, mà là một cái đồng hồ treo tường với quả lắc đu đưa qua lại mà hẳn là E. A. Poe sẽ rất thích thú được trói ai đó vào bên dưới. (*)

Mắt Newt cứ bị hút về phía đó.

“Một ông tổ của tôi đã làm nó đấy,” Anathema nói, đặt các tách uống cà phê xuống bàn. “Ngài Joshua Device. Chắc anh đã nghe nói đến ông ấy? Ông đã phát minh ra thứ lắc lư nho nhỏ để giúp chế tạo đồng hồ chính xác mà rẻ tiền hơn ấy mà? Họ đã đặt tên nó theo tên ông.”

“Cái Joshua ấy à?” Newt dè dặt hỏi.

“Cái thiết bị.” (*)

Trong nửa giờ đồng hồ qua, Newt đã được nghe nhiều chuyện rất khó tin và đã gần tin, nhưng cũng phải có giới hạn thôi chứ.

“Từ thiết bị được đặt theo tên một người thật sao?” cậu hỏi.

“Đúng thế. Một cái họ rất lâu đời ở Lancashire. Nguồn gốc từ Pháp, tôi nghĩ vậy. Chắc anh sắp sửa nói anh chưa bao giờ nghe nói đến Ngài Humphrey Dụng Cụ...”

“Ồ, thôi đi...”

“... người đã phát minh ra một dụng cụ để bơm nước ra khỏi các hầm mỏ bị ngập. Hoặc Pietr Phụ Tùng? Hoặc Cyrus T. Linh Kiện, nhà phát minh da màu tài ba nhất của Mỹ? Thomas Edison thường nói chỉ có hai nhà khoa học thực nghiệm đương thời mà ông khâm phục, đó là Cyrus T. Linh Kiện và Ella Reader Vật Dụng. Và còn...”

Cô nhìn khuôn mặt đờ đẫn của Newt.

“Tôi đã làm luận văn tiến sĩ về họ,” cô nói. “Những người phát minh ra những thứ đơn giản và đa năng đến mức mọi người quên mất là đã từng có lúc chúng cần phải được phát minh. Anh dùng đường chứ?”

“Ờ...”

“Bình thường anh uống hai viên,” Anathema ngọt ngào nói.

Newt trố mắt nhìn tấm thẻ cô đã đưa cho.

Hình như cô nghĩ nó sẽ giải thích được mọi chuyện.

Không hề.

Tấm thẻ có một đường kẻ ở chính giữa. Ở bên trái là mấy dòng ngăn ngắn nhìn như bài thơ, viết bằng mực đen. Ở bên phải viết bằng mực đỏ, là các nhận xét và ghi chú. Nhìn nó như sau:

3819: Khi cỗ chiến xa phương Đông xoay ngược, bốn bánh trên trời, một chàng trai bị thâm tím sẽ có mặt trên Giường của Con, đầu đau nhức đòi vỏ liễu, một chàng trai cầm ghim thử nghiệm nhưng có trái tim trong sạch, nhưng lại là mầm mống để hủy diệt ta, hãy lấy đi cái đánh lửa của cậu ta cho chắc, hai con sẽ ở bên nhau, cho tới khi Tàn Cuộc.

Xe Nhật Bản? Bị lật.

Xe hỏng... không bị thương nặng???

... đưa vào nhà...

...vỏ liễu = Aspirin

(tk. 3757 Ghim = Lính Săn Phù thủy (tk. 102) Lính Săn Phù thủy tốt?? Nhắc đến Pulsifer (tk. 002) Xem có diêm không, v.v. Vào thập niên 1990! Hừm

... chưa đầy một ngày

(tk. 712, 3803, 4004)

Tay Newt tự động sờ vào túi áo. Cái bật lửa của cậu đã không còn.

“Cái này nghĩa là gì?” cậu nói giọng khàn đặc.

“Anh đã bao giờ nghe nói đến Agnes Nutter chưa?” Anathema hỏi.

“Chưa,” Newt nói, cố tỏ vẻ châm chọc như một nỗ lực tự vệ tuyệt vọng. “Chắc cô sẽ bảo tôi là bà phát minh ra người điên chứ gì.” (*)

“Cũng là một tên họ lâu đời nữa ở Lancashire,” Anathema lạnh lùng nói. “Nếu anh không tin thì đi tra cứu các vụ xử án phù thủy đầu thế kỷ mười bảy ấy. Bà là bà tổ của tôi. Thật ra, một ông tổ của anh đã thiêu sống bà. Hay tìm cách thiêu sống.”

Newt lắng nghe câu chuyện về cái chết của Agnes Nutter với vẻ kinh hoàng mê mệt.

“Ngươi-Không-Được-Ngoại-Tình Pulsifer ấy à?” cậu hỏi, sau khi cô kể xong.

“Thời đó những cái tên như thế rất phổ biến,” Anathema nói. “Hình như có đến mười đứa con và gia đình họ rất sùng đạo. Có Tham-Lam Pulsifer, Nhân-Chứng-Giả Pulsifer...”

“Tôi nghĩ là tôi hiểu rồi,” Newt nói. “Trời. Tôi nhớ là Shadwell có nói ông ấy đã thấy cái tên đó ở đâu rồi. Chắc là trong sổ sách của Đội quân. Tôi đoán nếu bị đặt tên là Ngoại-Tình Pulsifer thì tôi cũng muốn làm tổn thương càng nhiều người càng tốt.”

“Tôi nghĩ chẳng qua ông ta không ưa phụ nữ thôi.”

“Cảm ơn cô có nhã ý,” Newt nói. “Ý tôi là, chắc ông ta là ông tổ của tôi. Không có nhiều người mang họ Pulsifer lắm. Có lẽ... vì thế mà tôi mới gặp được Đội quân Săn Phù thủy chăng? Có thể là Định Mệnh,” cậu khấp khởi nói.

Cô lắc đầu. “Không,” cô nói. “Không có gì là định mệnh hết.”

“Mà săn phù thủy ngày nay cũng không như trước kia nữa. Tôi nghĩ Shadwell chưa làm được gì hơn là đá đổ thùng rác của Doris Stokes (*) đâu.”

“Nói riêng giữa tôi với anh nhé, Agnes khá là khó nhằn,” Anathema nói chung chung. “Bà không biết chừng mực là gì đâu.”

Newt vẫy tấm thẻ.

“Nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến cái này?”

“Bà đã viết nó. Viết cuốn nguyên bản ấy. Đây là lời tiên tri số 3819 trong Những Lời Tiên tri Tuyệt đích và Chuẩn xác của Agnes Nutter, xuất bản lần đầu năm 1655.”

Newt trố mắt nhìn lời tiên tri. Miệng cậu há ra rồi ngậm vào.

“Bà ấy biết tôi sẽ bị đâm xe ư?” cậu hỏi.

“Đúng. Không. Có lẽ là không. Khó nói lắm. Anh thấy đấy, Agnes là nhà tiên tri tệ nhất trên đời. Vì bà luôn đúng. Chính vì thế mà cuốn sách mới không bán được.”

Phần lớn năng lực tâm linh đều có nguồn gốc từ sự thiếu khả năng phân biệt quá khứ hiện tại tương lai, và tâm trí Agnes Nutter trôi dạt trong dòng Thời gian đến nỗi bà được coi là khá điên, ngay cả theo tiêu chuẩn của Lancashire vào thế kỷ mười bảy, khi mà các nữ tiên tri điên là một ngành lớn mạnh.

Nhưng nghe bà nói rất thú, ai cũng đồng ý như vậy.

Bà thường đi chữa bệnh cho mọi người bằng một loại nấm mốc, và khuyên mọi người phải rửa tay thật kỹ để những con vật nhỏ xíu gây bệnh bị trôi đi, trong khi ai nấy đều biết mùi hôi nồng nặc là cách duy nhất để tự vệ trước những con quỷ bệnh tật. Bà cũng ủng hộ một kiểu chạy nhẹ nhàng nhún nhảy để giúp sống lâu hơn, một quan điểm cực kỳ đáng nghi và là lý do đầu tiên khiến đám Săn Phù thủy chú ý đến bà, và nhấn mạnh tầm quan trọng của chất xơ trong chế độ ăn uống, mặc dù trong việc này thì rõ ràng là bà đã đi trước thời đại xa quá vì hồi ấy phần lớn mọi người để ý đến sỏi trong thức ăn còn nhiều hơn là chất xơ. Và bà không chịu chữa mụn cóc.

“Tất cả chỉ ở trong đầu anh thôi,” bà thường nói, “quên nó đi là nó sẽ tự khỏi.”

Rõ ràng là Agnes có thể nhìn thấy Tương lai, nhưng nó là một cái nhìn hẹp và cụ thể đến khác thường. Nói cách khác là nó gần như hoàn toàn vô dụng.

◇ ❖ ◇

“Ý cô là sao?” Newt hỏi.

“Bà có những lời tiên tri mà ta chỉ có thể hiểu được sau khi chuyện đã rồi,” Anathema đáp. “Ví dụ như là ‘Đừng mua Betamacks.’ (*) Đó là lời tiên tri cho năm 1972.”

“Ý cô là bà đã tiên tri sự ra đời của đầu thu video sao?”

“Không! Bà chỉ nhặt được một mẩu thông tin đơn lẻ thôi,” Anathema nói. “Vấn đề là ở chỗ đó. Phần lớn thời gian bà nói đến những điều quanh co đến nỗi không ai hiểu nổi cho tới khi mọi việc đã qua, và khi đó tất cả mới trở nên sáng tỏ. Và bà không biết chuyện nào quan trọng, nên lúc được lúc không. Lời tiên tri của bà cho ngày 22 tháng Mười một năm 1963 là một ngôi nhà bị đổ ở làng King’s Lynn.”

“Thế thì?” Newt soạn ra một bộ mặt khó hiểu lịch sự.

“Đó là ngày Tổng thống Kennedy bị ám sát,” Anathema tử tế giải thích. “Nhưng thời đó chưa có Dallas, anh hiểu không. Trong khi King’s Lynn thì lại khá quan trọng.”

“À.”

“Nói chung bà rất giỏi với những lời tiên tri có liên quan đến con cháu mình.”

“Thế ư?”

“Và bà cũng không biết gì về động cơ đốt trong cả. Với bà, chúng chỉ là những cỗ xe kỳ cục thôi. Ngay cả mẹ tôi cũng tưởng lời tiên tri đó nói đến cỗ xe của một hoàng đế bị lật. Anh thấy đấy, chỉ biết tương lai là như thế nào thôi là chưa đủ. Ta phải biết nó có nghĩa là gì nữa. Agnes giống như một người đang nhìn một bức tranh khổng lồ qua một cái ống nhỏ xíu vậy. Bà viết lại những gì có vẻ như là lời khuyên tốt, dựa trên những gì bà hiểu được từ những hình ảnh thoáng qua rất nhỏ đó.”

“Đôi khi ta cũng gặp may,” Anathema nói tiếp. “Chẳng hạn như, cụ tôi đã hiểu được lời tiên tri về vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929, hai ngày trước khi nó xảy ra. Kiếm được cả một gia tài. Anh có thể nói chúng tôi là hậu duệ chuyên nghiệp.”

Cô nhìn chằm chằm Newt. “Anh hiểu không, phải đến hai trăm năm trước, mọi người mới nhận ra Những Lời Tiên tri Tuyệt đích và Chuẩn xác là một món đồ gia truyền như ý của Agnes. Rất nhiều lời tiên tri liên quan đến con cháu bà và số phận của họ. Đó là cách bà chăm lo cho chúng tôi sau khi bà ra đi. Chúng tôi nghĩ vì thế mới có lời tiên tri về King’s Lynn. Hôm ấy bố tôi đến thăm làng đó, nên theo cách nhìn của Agnes, ông khó có thể bị dính đạn lạc từ Dallas, nhưng rất có khả năng ông sẽ bị gạch rơi trúng đầu.”

“Thật là tử tế quá,” Newt nói. “Ta gần như có thể bỏ qua chuyện bà đã làm nổ tung cả một ngôi làng.”

Anathema lờ câu này đi. “Đại loại mọi chuyện là thế đấy,” cô nói. “Từ đó trở đi chúng tôi đã dành mọi công sức để diễn giải chúng. Trung bình cứ mỗi tháng có một lời tiên tri... thật ra bây giờ thì nhiều hơn rồi, khi chúng ta tiến gần hơn tới tận thế.”

“Và đó là khi nào?” Newt hỏi.

Anathema nhìn cái đồng hồ đầy ẩn ý.

Cậu cất một tiếng cười nhỏ đáng sợ mà cậu hy vọng là nghe có vẻ khôn ngoan lõi đời. Sau tất cả những sự việc đã trải qua cho tới giờ, cậu cảm thấy không được tỉnh táo lắm. Và cậu có thể ngửi thấy mùi nước hoa của Anathema, nó khiến cậu bối rối.

“May cho anh là tôi không cần đồng hồ đếm giờ đấy,” Anathema nói. “Chúng ta còn khoảng, ờ, năm, sáu tiếng nữa.”

Newt ngẫm nghĩ về điều này. Cả đời cậu chưa bao giờ muốn uống rượu, nhưng có gì đó mách bảo cậu rằng phải có lần đầu tiên.

“Phù thủy có đồ uống trong nhà không?” cậu ướm hỏi.

“Ồ, có.” Cô nở một nụ cười mà Agnes Nutter có lẽ cũng có khi giở ngăn kéo đựng đồ lót của bà ra. “Nước xanh lè nổi bọt với Các Thứ kỳ dị uốn éo trên bề mặt đông đặc. Anh chắc biết cái đó.”

“Cũng được. Có đá không?”

Hóa ra là rượu gin. Cũng có đá. Anathema, cũng có học qua môn pha chế của phù thủy, không tán thành việc uống rượu nói chung nhưng với bản thân cô thì lại thấy không vấn đề gì.

“Tôi đã kể cho cô nghe về người Tây Tạng chui ra từ một cái hố trên đường chưa nhỉ?” Newt hỏi, thư giãn hơn.

“Ồ, tôi biết họ rồi,” cô nói, xếp lại đống giấy trên bàn. “Có hai người chui lên từ bãi cỏ trước nhà hôm qua. Họ bối rối đến tội, nên tôi cho họ uống trà rồi sau đó họ mượn một cái xẻng, thế là họ lại chui xuống. Tôi nghĩ họ không biết phải làm gì.”

Newt thấy hơi lúng túng. “Sao cô biết họ là người Tây Tạng?” cậu hỏi.

“Nói thế thì cũng phải hỏi, sao anh biết? Ông ta có kêu ‘Ommm’ khi anh đụng phải ông ta không?”

“Ờ, ông ta... nhìn ông ta có vẻ Tây Tạng,” Newt nói. “Áo màu vàng, đầu trọc... cô biết đấy... người Tây Tạng ấy mà.”

“Một người tôi gặp nói tiếng Anh khá tốt. Hình như một phút trước anh ta còn đang sửa đài ở Lhasa, phút sau anh ta đã ở trong một đường hầm. Anh ta không biết phải về nhà bằng cách nào.”

“Nếu cô bảo anh ta đi ngược đường, có lẽ anh ta sẽ đi nhờ một cái đĩa bay được đấy,” Newt rầu rĩ nói.

“Có ba sinh vật ngoài hành tinh phải không? Một trong số đó là một robot nhỏ màu bạc?”

“Chúng cũng hạ cánh xuống bãi cỏ của cô à?”

“Theo như bản tin trên đài thì đó có vẻ là chỗ duy nhất chúng không hạ cánh xuống. Chúng hạ cánh xuống khắp nơi trên thế giới để truyền đi những lời nhàm tai về hòa bình vũ trụ, và khi mọi người hỏi ‘Ừ, thì sao?’ thì chúng đờ mặt ra và lại bay đi. Các dấu hiệu và điềm báo, đúng như Agnes nói.”

“Tôi đoán là cô sẽ bảo bà ấy cũng đã tiên tri hết những việc này chứ gì?”

Agnes lật giở một hộp thẻ thư mục đã cũ nát trước mặt.

“Tôi cứ định số hóa tất cả,” cô nói. “Để tìm kiếm bằng từ khóa và đại loại thế. Anh biết chứ? Sẽ đơn giản hơn nhiều. Những lời tiên tri được sắp đặt không có thứ tự gì cả, nhưng có các manh mối bằng chữ viết tay và các thứ tương tự.”

“Bà ấy viết bằng thẻ sao?” Newt hỏi.

“Không. Một cuốn sách. Nhưng tôi đã, ờ, để nó nhầm chỗ. Tất nhiên chúng tôi vẫn có các bản sao.”

“Đánh mất nó rồi chứ gì?” Newt hỏi, cố tạo chút hài hước.

“Dám cá là bà ấy không tiên tri được vụ này đâu!”

Anathema lườm cậu. Nếu chỉ nhìn thôi cũng có thể chết người thì Newt đã nằm trên bàn mổ x?