← Quay lại trang sách

Chủ nhật (Ngày đầu tiên của phần đời còn lại của họ)

Vào lúc khoảng mười giờ rưỡi sáng, chú bé giao báo đem báo Chủ nhật đến cửa trước Nhà Hoa Nhài, chú phải đi ba chuyến liền.

Tiếng báo nện thình thình trên tấm thảm khiến Newton Pulsifer thức giấc.

Cậu để yên cho Anathema ngủ. Cô đã khá suy sụp, tội nghiệp. Cô đã gần như không nói nổi một câu mạch lạc khi cậu đưa cô vào giường. Cô đã sống cả đời dựa vào những Lời Tiên tri, và giờ không còn Lời Tiên tri nào nữa. Hẳn cô có cảm giác như một đoàn tàu đã đến cuối đường ray nhưng vẫn phải chạy tiếp.

Từ giờ cô sẽ có thể trải nghiệm cuộc đời là một bất ngờ, như tất cả mọi người khác. Thật may mắn.

Điện thoại reo vang.

Newt lao vào bếp và nhấc máy lên sau hồi chuông thứ hai.

“A lô?” cậu hỏi.

Một giọng cố làm ra vẻ thân thiện thoáng chút tuyệt vọng léo nhéo với cậu.

“Không,” cậu nói, “không phải. Và không phải là Devissey, là Device. Đọc như Nice ấy. Và cô ấy đang ngủ.”

“Ờ,” cậu nói, “tôi dám chắc cô ấy không cần vật liệu cách nhiệt. Cũng không cần kính cửa sổ hai lớp. Ý tôi là, cô ấy không phải là chủ căn nhà này, cô biết đấy. Cô ấy chỉ thuê thôi.”

“Không, tôi sẽ không đánh thức cô ấy dậy để hỏi đâu,” cậu nói. “Và cho tôi hỏi, cô, ờ... vâng, cô Morrow, sao các vị không nghỉ ngày Chủ nhật, như những người khác?”

“Chủ nhật,” cậu nói. “Tất nhiên hôm nay không phải là thứ Bảy. Sao lại là thứ Bảy được? Hôm qua mới là thứ Bảy. Hôm nay là Chủ nhật thật mà. Cô nói cô mất một ngày là sao? Tôi không hiểu. Có vẻ cô đã quá mải mê với việc bán hàng rồi... A lô?”

Cậu càu nhàu và cúp máy.

Nhân viên tiếp thị điện thoại! Họ đáng phải chịu điều gì đó thật khủng khiếp.

Một thoáng nghi ngờ bỗng dồn đến. Hôm nay là Chủ nhật chứ, đúng không? Cậu liếc nhìn đống báo Chủ nhật và thấy yên tâm hơn. Nếu tờ Thời báo chủ nhật nói hôm đó là Chủ nhật thì ta có thể chắc chắn họ đã nghiên cứu kỹ vấn đề đó. Tất nhiên rồi. Hôm qua là thứ Bảy, và chừng nào còn sống thì cậu sẽ không bao giờ quên nổi thứ Bảy, chỉ giá mà cậu nhớ ra nổi cái điều cậu không được quên là gì.

Thấy mình đang ở trong bếp, Newt quyết định chuẩn bị bữa sáng.

Cậu đi quanh bếp khẽ khàng hết mức có thể để không đánh thức người còn lại trong nhà, và cảm thấy mọi âm thanh đều bị phóng đại. Cái tủ lạnh cổ lỗ sĩ có cửa đóng lại đánh rầm một cái như tiếng sấm báo diệt vong. Vòi nước chảy ri rỉ như một con chuột nhảy bị đái rắt nhưng lại ầm ĩ như mạch nước Thủy chung. (*) Và cậu chẳng biết các thứ để ở đâu cả. Cuối cùng, cũng như tất cả những người đã phải ăn sáng một mình trong bếp của người khác đã từng làm gần như từ thời nguyên thủy tới giờ, cậu đành làm tạm một cốc cà phê đen hòa tan không đường. (*)

Trên bàn bếp là một tảng than chỉ hơi còn hình chữ nhật, bọc da. Cậu chỉ loáng thoáng đọc được chữ “Tuy t đ ch và Chu n x” trên cái bìa cháy sém. Chỉ một ngày mà đã thay đổi nhiều quá, cậu thầm nghĩ. Nó có thể biến một cuốn sách tham khảo tối thượng thành một cục than nướng thịt.

Nghĩ xem nào. Chính xác thì họ đã làm cách nào để lấy được nó về? Cậu nhớ lại một người đàn ông ám mùi khói và đeo kính râm, ngay cả trong bóng tối. Và rồi còn nhiều chuyện nữa, tất cả lẫn lộn vào với nhau... lũ nhóc đi xe đạp... một tiếng vo vo khó chịu... một khuôn mặt nhỏ bé, cáu bẩn, nhìn chăm chăm... Tất cả cứ vương vấn trong tâm trí cậu, không hẳn là đã bị quên lãng nhưng cứ lơ lửng bên rìa của hồi ức, kỷ niệm về những điều đã không xảy ra. (*) Sao lại có thể thế được?

Cậu ngồi nhìn chằm chằm vào tường cho tới khi một tiếng gõ cửa khiến cậu sực tỉnh.

Một người đàn ông nhỏ thó ăn vận bảnh bao trong chiếc áo đi mưa đen đang đứng trên ngưỡng cửa. Ông ta cầm trong tay một cái hộp các tông và nở một nụ cười tươi rói với Newt.

“Anh,” ông ta xem lại một tờ giấy trong tay kia, “Pulzifer?”

“Pulsifer,” Newt sửa lại. “Là âm s nặng.”

“Tôi hết sức xin lỗi,” người đàn ông nói. “Tôi mới chỉ thấy tên anh trên giấy. Ờ. Được thôi. Có vẻ đây là bưu phẩm gửi anh và chị Pulsifer.”

Newt trố mắt nhìn ông ta.

“Làm gì có chị Pulsifer,” cậu lạnh lùng nói.

Người đàn ông bỏ chiếc mũ quả dưa xuống.

“Ồ, tôi hết sức xin lỗi,” ông ta nói.

“Ý tôi là... ờ, có mẹ tôi đấy,” Newt nói. “Nhưng mẹ tôi chưa chết, mẹ tôi chỉ đang ở Dorking thôi. Tôi chưa có vợ.”

“Lạ thật. Lá thư đã viết rất, ờ, cụ thể mà.”

“Ông là ai?” Newt hỏi. Cậu chỉ đang mặc độc chiếc quần, và ngoài cửa khá lạnh.

Người đàn ông vụng về đỡ cái hộp và rút một tấm thẻ từ túi áo trong ra. Ông ta đưa nó cho Newt.

Tấm thẻ đề chữ:

GILES BADDICOMBE

Công ty Luật Robey, Robey, Redfearn &Bychance Số 13 Demdyke chambers, PRESTON

“Vâng?” cậu lịch sự hỏi. “Và tôi có thể làm gì cho ông, ông Baddicombe?”

“Anh có thể cho tôi vào,” ông Baddicombe nói.

“Ông không đem đến trát tòa hay cái gì tương tự đấy chứ?” Newt hỏi. Những sự kiện của tối qua lơ lửng trong trí nhớ cậu như một đám mây, liên tục thay đổi mỗi khi cậu tưởng mình đã nhìn ra một hình ảnh, nhưng cậu lờ mờ nhớ được là đã phá hỏng thứ gì đó và cậu chờ đợi bị trừng phạt.

“Không,” ông Baddicombe nói, vẻ hơi tự ái. “Chúng tôi có nhân viên lo những việc đó.”

Ông ta đi qua Newt và đặt cái hộp lên bàn.

“Nói thật,” ông ta nói, “tất cả chúng tôi rất quan tâm đến việc này. Ngài Bychance suýt nữa đã tự mình xuống đây, nhưng dạo này ngài không đủ sức đi lại nữa.”

“Nghe này,” Newt nói, “tôi thực sự không hiểu ông đang nói gì cả.”

“Cái này,” ông Baddicombe nói, chìa cái hộp ra và cười tươi rói như Aziraphale đang chuẩn bị làm một trò ảo thuật, “là của anh. Có người muốn anh có nó. Họ yêu cầu rất cụ thể.”

“Một món quà ư?” Newt hỏi. Cậu thận trọng liếc nhìn cái hộp các tông được dán băng dính, rồi lục trong ngăn kéo bếp tìm một con dao sắc.

“Tôi nghĩ là một món đồ chúc thư thì đúng hơn,” ông Baddicombe nói. “Anh thấy đấy, chúng tôi đã có nó từ ba trăm năm nay rồi. Xin lỗi. Có phải tôi vừa nói gì không? Anh nên để tay dưới vòi nước chảy ấy.”

“Chuyện này là thế quái nào?” Newt hỏi, nhưng một cảm giác nghi ngờ lạnh toát đang dần xâm chiếm cậu. Cậu mút chỗ ngón tay bị đứt.

“Chuyện lạ lắm... anh không phiền nếu tôi ngồi xuống chứ?... Và tất nhiên tôi không biết tường tận chi tiết, vì tôi mới chỉ gia nhập công ty mười lăm năm trước, nhưng...”

... Đó chỉ là một công ty luật rất nhỏ khi cái hộp được cẩn thận gửi đến; Redfearn, Bychance, và cả hai ông Robey, chứ đừng nói gì đến ông Baddicombe, đều còn lâu mới xuất hiện. Viên lục sự đang chật vật kiếm sống, khi nhận món hàng được gửi đến đã ngạc nhiên thấy buộc vào nắp hộp bằng một sợi dây là một lá thư gửi cho chính anh ta.

Lá thư có những hướng dẫn chi tiết và năm thông tin khá thú vị về mười năm tới mà, nếu một chàng trai trẻ nhanh nhẹn biết vận dụng, thì sẽ đảm bảo cho anh ta đủ vốn liếng để theo đuổi một sự nghiệp luật pháp rất thành công.

Tất cả những gì anh ta phải làm là đảm bảo cho cái hộp được chăm lo cẩn thận thêm ba trăm năm nữa, và rồi gửi nó đến một địa chỉ nọ...

“... mặc dù tất nhiên công ty đã được sang tay rất nhiều lần trong mấy thế kỷ qua,” ông Baddicombe nói. “Nhưng cái hộp đã luôn là một phần thuộc sở hữu, có thể gọi thế cũng được.”

“Tôi còn không biết là họ làm Thức ăn trẻ sơ sinh Heinz vào thế kỷ mười bảy cơ đấy,” Newt nói.

“Đó chỉ là để nó không bị hư hại khi để trong xe thôi,” ông Baddicombe nói.

“Và suốt bao nhiêu năm không ai mở nó ra ư?” Newt hỏi.

“Có hai lần, tôi nghĩ vậy,” ông Baddicombe nói. “Vào năm 1757, bởi ngài George Cranby, và vào năm 1928, bởi ngài Arthur Bychance, cha của ngài Bychance bây giờ.” ông ta húng hắng ho. “Hình như ngài Cranby đã tìm thấy một lá thư...”

“... gửi cho chính mình,” Newt nói.

Ông Baddicombe bật lùi ra sau. “Trời đất. Sao anh đoán được?”

“Tôi nghĩ tôi nhận ra phong cách này,” Newt lầm lầm nói. “Chuyện gì đã xảy ra với họ?”

“Anh đã nghe chuyện này rồi à?” ông Baddicombe nghi ngờ hỏi.

“Đại khái thế. Họ không bị nổ tung đấy chứ?”

“Ờ... ngài Cranby lên cơn đau tim, tôi tin là vậy. Và ngài Bychance thì tái mét mặt và bỏ thư lại vào phong bì, theo tôi hiểu là vậy, rồi hướng dẫn rất nghiêm khắc là cái hộp không được mở ra chừng nào ngài còn sống. Ngài nói bất kỳ ai mở hộp sẽ bị sa thải ngay lập tức và không được nhận thư tiến cử.”

“Một lời đe dọa thật đáng sợ,” Newt nói mỉa.

“Nhưng vào năm 1928 thì đúng là như vậy. Những lá thư của họ vẫn còn trong hộp đấy.”

Newt gỡ lớp bìa các tông ra.

Bên trong có một cái hòm nhỏ bọc thép. Không có khóa.

“Nào, nhấc nó ra đi,” ông Baddicombe phấn khích nói. “Phải nói là tôi rất muốn biết bên trong có gì. Ở văn phòng chúng tôi còn cá cược với nhau nữa cơ...”

“Thế này nhé,” Newt rộng rãi nói. “Tôi sẽ đi pha cà phê, còn ông mở hộp ra.”

“Tôi ư? Như thế có được phép không?”

“Tôi thấy chẳng sao cả.” Newt liếc nhìn những cái xoong treo trên lò bếp. Một trong số chúng đủ to cho điều cậu đang trù tính.

“Mở đi,” cậu nói. “Liều một phen xem nào. Tôi không phiền đâu. Ông... ông có thể coi đó là quyền ủy nhiệm hoặc đại loại thế.”

Ông Baddicombe cởi áo khoác ngoài ra. “Chà,” ông ta nói, xoa xoa hai tay vào nhau, “vì anh đã nói thế... sẽ có chuyện để kể cho con cháu tôi nghe đây.”

Newt nhấc cái chảo lên và khẽ đặt tay lên nắm đấm cửa. “Tôi mong là vậy,” cậu nói.

“Mở nào.”

Newt nghe thấy một tiếng ken két nhẹ nhàng.

“Ông thấy gì?” cậu hỏi.

“Hai lá thư đã mở rồi... à, và một lá thư nữa... gửi cho...”

Newt nghe thấy tiếng con dấu niêm phong bằng sáp được mở ra và tiếng leng keng của vật gì đó rơi xuống bàn. Rồi có một tiếng hức, tiếng ghế lạch cạch, tiếng chân chạy ngoài hành lang, tiếng cửa đóng rầm lại, và tiếng động cơ xe rồ máy rồi lao xuống đường.

Newt bỏ cái xoong xuống khỏi đầu và tiến ra từ sau cánh cửa.

Cậu cầm lá thư lên và không hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy nó được gửi cho ông G. Baddicombe. Cậu mở lá thư ra.

Thư viết: “Đây là một đong florin, luật sư; giờ thì hãy chạy cho nhanh, không thì cả thế giới sẽ biết sự thật về ông và cô Spiddon nguời làm nô lệ cho máy đánh chữ.”

Newt nhìn những lá thư khác. Lá thư khô giòn gửi cho ngài George Cranby viết: “Bỏ bàn tay tắt mắt của ông ra, ông Cranby. Tôi vẫn còn nhớ ông đã lùa gạt bà quả phụ Plashkin vào dịp lễ Thánh Michael năm ngoái thế nào, lão bánh thó trơ xương kia.”

Newt tự hỏi bánh thó là cái gì. Cậu sẵn sàng đánh cược là nó chẳng liên quan gì đến nấu ăn sất.

Bức thư dành cho ngài Bychance tò mò thì viết: “Ngươi đã bỏ mặc họ, đồ hèn nhát. Hãy bỏ lá thư này vào hộp, không thì cả thế giới sẽ biết sự thật về ngày 7 tháng Sáu năm 1916.”

Bên dưới những lá thư là một bản thảo. Newt trố mắt nhìn nó.

“Cái gì thế?” Anathema hỏi.

Cậu quay ngoắt lại. Cô đang đứng dựa vào ngưỡng cửa, nhìn như một cái ngáp hấp dẫn có chân.

Newt lùi sát vào bàn. “À, không có gì. Gửi nhầm địa chỉ. Không có gì. Chỉ một cái hộp cũ thôi. Thư rác ấy mà. Em biết đấy...”

“Vào Chủ nhật ư?” cô nói, gạt cậu sang bên.

Cậu nhún vai trong lúc cô đặt tay lên tập bản thảo đã ố vàng và nhấc nó ra.

“Thêm Những Lời Tiên tri Tuyệt đích và Chuẩn xác của Agnes Nutter,” cô chậm rãi đọc, “về Thế giới sắp tới; Truờng thiên Tiếp diễn! Ôi trời...”

Cô thành kính đặt nó xuống bàn và chuẩn bị lật trang đầu tiên lên.

Bàn tay Newt nhẹ nhàng đặt lên tay cô.

“Thử nghĩ theo cách này nhé,” cậu khẽ nói. “Em có muốn làm hậu duệ suốt phần đời còn lại không?”

Cô ngước lên. Mắt họ giao nhau.

◇ ❖ ◇

Đó là Chủ nhật, ngày đầu tiên trong phần còn lại của thế giới, vào khoảng mười một giờ rưỡi.

Công viên Thánh James đang khá yên ắng. Đàn vịt, những chuyên gia về chính sách thực dụng nếu nhìn từ góc độ của bánh mì, nghĩ đó là do căng thẳng thế giới đã hạ nhiệt. Quả thực căng thẳng thế giới đã hạ nhiệt, nhưng rất nhiều người đang phải ở văn phòng tìm hiểu xem tại sao lại thế, xem Atlantis đã biến đi đâu với ba phái đoàn thăm dò Quốc tế vẫn còn ở trên đó, và cố giải thích hôm qua chuyện gì đã xảy ra với tất cả máy tính của họ.

Công viên vắng tanh, chỉ trừ có một thành viên của MI9 đang cố chiêu mộ một người mà hóa ra cũng là thành viên của MI9, khiến hai bọn họ sau đó đều xấu hổ, và một người cao lớn đang cho vịt ăn.

Và còn có cả Crowley và Aziraphale nữa.

Họ sánh bước bên nhau ngang qua bãi cỏ.

“Đây cũng thế,” Aziraphale nói. “Cửa hiệu vẫn nguyên xi. Không có lấy một vệt bồ hóng.”

“Ý tôi là, không thể cứ thế là làm ra một cái Bentley cũ được,” Crowley nói. “Không thể giả được nước sơn bóng ấy. Nhưng đúng là nó đấy, thật một trăm phần trăm. Đỗ ngoài phố. Không nhận ra nổi sự khác biệt.”

“Ờ, tôi thì có nhận ra đấy,” Aziraphale nói. “Tôi dám chắc tôi không có những đầu sách như là Biggies lên sao Hỏa hay Jack Cade, anh hùng miền biên thùy hay 101 trò vui cho bé trai hay Huyết khuyển vùng Biển Đầu lâu.”

“Trời, tôi rất tiếc,” Crowley nói, hắn biết vị thiên thần quý bộ sưu tập sách của y ra sao.

“Không đâu,” Aziraphale vui vẻ nói. “Tất cả đều là ấn bản đầu tiên còn mới toanh, và tôi đã tra trong Hướng dẫn Định giá của Skindie rồi. Tôi nghĩ từ thích hợp trong trường hợp này là úi chà chà.”

“Tôi nghĩ thằng bé đang biến thế giới trở lại như cũ,” Crowley nói.

“Ừ,” Aziraphale đáp. “Gần như thế. Với tất cả khả năng của nó. Nhưng nó cũng có khiếu hài hước đấy.”

Crowley liếc xéo y.

“Người phe anh có liên lạc gì không?” hắn hỏi.

“Không. Thế còn phe anh?”

“Cũng không.”

“Tôi nghĩ họ đang giả vờ chẳng có chuyện gì cả.”

“Tôi nghĩ phe tôi cũng thế. Thật đúng là quan liêu.”

“Và tôi nghĩ phe tôi đang đợi xem chuyện gì xảy ra tiếp theo,” Aziraphale nói.

Crowley gật đầu. “Một quãng nghỉ,” hắn nói. “Một cơ hội để vũ trang lại về mặt tinh thần. Củng cố lại phòng thủ. Chuẩn bị cho trận đánh lớn.”

Họ đứng bên cái ao, ngắm đàn vịt tranh giành bánh mì.

“Sao cơ?” Aziraphale hỏi. “Tôi tưởng đó đã là trận đánh lớn rồi chứ.”

“Tôi không chắc đâu,” Crowley nói. “Thử nghĩ mà xem. Tôi dám cược là trận đánh lớn sẽ là tất cả Chúng Ta đấu lại Bọn Họ.”

“Gì? Ý anh là Thiên đường và Địa ngục chống lại nhân loại ấy à?”

Crowley nhún vai. “Tất nhiên, nếu thằng bé đã thay đổi mọi thứ, thì có thể nó cũng đã thay đổi chính nó. Có thể nó đã rũ bỏ các quyền năng của nó. Quyết định làm con người thôi.”

“Ồ, tôi mong là thế,” Aziraphale nói. “Dù sao thì lựa chọn kia cũng sẽ không được chấp nhận. Ờ. Phải thế không?”

“Tôi không biết. Ta không thể chắc chắn điều gì đã được thực sự trù tính. Kế hoạch nằm trong kế hoạch.”

“Sao cơ?” Aziraphale nói.

“Ờ,” Crowley nói, hắn đã suy nghĩ về điều này đến nhức cả đầu, “anh chưa bao giờ băn khoăn về tất cả những việc này sao? Anh biết đấy... phe anh và phe tôi, Thiên đường và Địa ngục, thiện và ác, tất cả những chuyện đấy ấy à? Ý tôi là, tại sao?”

“Theo như tôi nhớ,” vị thiên thần khó nhọc nói, “có một cuộc nổi dậy và...”

“À, phải. Thế tại sao nó lại xảy ra chứ hả? Ý tôi là, không nhất thiết phải thế, đúng không?” Crowley nói, mắt lộ vẻ phấn khích. “Bất kỳ ai có thể tạo ra cả một vũ trụ trong vòng sáu ngày cũng sẽ không để một việc nhỏ nhặt như thế xảy ra. Trừ phi họ muốn thế, tất nhiên.”

“Ồ, thôi nào. Hợp lý một chút đi,” Aziraphale nói vẻ hoài nghi.

“Lời khuyên đó không hay,” Crowley nói. “Không hay chút nào. Nếu anh thực sự ngồi xuống và nghĩ về nó một cách hợp lý, anh sẽ có vài ý tưởng khá kỳ dị đấy. Ví dụ: tại sao lại tạo ra con người biết tò mò, rồi đặt một cây ăn quả bị cấm ở chỗ họ nhìn thấy được với một biển hiệu neon hình ngón tay nhấp nháy chỉ vào đó với chữ ‘CHÍNH NÓ ĐÂY!’ chứ hả?”

“Tôi không nhớ có biển hiệu neon nào cả.”

“Tôi nói ẩn dụ thôi. Tôi muốn nói là, tại sao lại làm thế nếu không thực sự muốn họ ăn nó? Có lẽ chỉ để xem mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào. Có lẽ tất cả chi là một phần của một kế hoạch bất khả tư nghị vĩ đại nào đó. Tất cả. Anh, tôi, thằng bé, mọi thứ. Một phép thử vĩ đại để xem những gì ta tạo ra có hoạt động tốt không ấy mà? Anh sẽ bắt đầu nghĩ: đây không thể là một ván cờ vũ trụ vĩ đại được, nó phải là một ván bài đơn cực kỳ phức tạp. Và anh khỏi cần trả lời. Nếu chúng ta có thể hiểu được thì chúng ta đã không phải là mình rồi. Vì tất cả đều là... là...”

BẤT KHẢ TƯ NGHỊ, kẻ đang cho vịt ăn nói.

“Ừ. Đúng rồi. Cảm ơn.”

Họ nhìn theo kẻ lạ mặt cao lớn đó cẩn thận vứt cái túi rỗng vào thùng rác rồi rảo bước qua bãi cỏ. Rồi Crowley lắc đầu.

“Tôi đang nói gì ấy nhỉ?” hắn hỏi.

“Không biết,” Aziraphale nói. “Hình như chẳng có gì quan trọng đâu.”

Crowley rầu rĩ gật đầu. “Để tôi đãi anh bữa trưa nhé,” hắn rít.

Họ lại đến khách sạn Ritz, nơi một cái bàn không hiểu vì sao lại vẫn còn trống. Và có lẽ những nỗ lực gần đây đã có ảnh hưởng đôi chút đến tính chất của thực tại, vì, trong lúc họ đang ăn, thì lần đầu tiên trong đời, một con họa mi đã cất tiếng hót ở quảng trường Berkeley. (*)

Không ai nghe thấy nó vì tiếng xe cộ át mất, nhưng đúng là con chim đã cất tiếng hót.

Đang là một giờ chiều chủ nhật.

Suốt một thập kỷ qua, bữa trưa ngày Chủ nhật trong thế giới của Trung sĩ Săn Phù thủy Shadwell luôn tuân theo một thủ tục bất di bất dịch. Lão sẽ ngồi bên cái bàn xiêu vẹo, đầy vết cháy thuốc lá trong phòng mình, lật giở một cuốn sách cổ lỗ sĩ trong thư viện (*) của Đội quân Săn Phù thủy về phép thuật và quỷ học - cuốn Necrotelecomnicon, hoặc cuốn Liber Fulvarum Paginarum, hoặc cuốn ưa thích của lão, Malleus Malleficarum. (*)

Rồi sẽ có tiếng gõ cửa, và bà Tracy sẽ gọi, “Bữa trưa này, ông Shadwell”, và Shadwell sẽ lầm bầm, “Mụ nặc nô mất nết”, và đợi sáu mươi giây, để mụ nặc nô mất nết đủ thời gian quay về phòng; rồi lão sẽ mở cửa, cầm lên đĩa gan, thường được cẩn thận đậy bằng một cái đĩa khác cho nóng. Và lão sẽ đem cái đĩa vào phòng rồi ăn, cẩn thận vừa đủ để không đánh rơi nước xốt lên trang sách lão đang đọc. (*)

Mọi chuyện luôn xảy ra như vậy.

Chỉ có Chủ nhật hôm đó là không.

Trước hết, lão không đọc sách. Lão chỉ ngồi đó.

Và khi có tiếng gõ cửa, lão đứng lên và ra mở cửa ngay. Lão không cần phải vội.

Không có cái đĩa nào cả. chỉ có bà Tracy, đeo một cái trâm cài bằng đá chạm và môi tô một màu son lạ. Bà còn đang đứng giữa một quầng nước hoa nữa.

“Gì, mụ lẳng lơ kia?”

Giọng bà Tracy rất vui vẻ, nhanh và hấp tấp vì có vẻ băn khoăn. “Chào ông S, tôi vừa mới nghĩ, sau những gì chúng ta đã trải qua suốt hai ngày vừa qua, có vẻ thật ngốc nếu tôi chỉ để đĩa đồ ăn cho ông ngoài cửa, nên tôi đã dọn chỗ trên bàn ăn cho ông. Đi nào...”

Ông S ấy à? Shadwell cảnh giác đi theo bà.

Đêm qua lão đã có một giấc mơ nữa. Lão không nhớ rõ giấc mơ, chỉ có một câu nói vẫn vang vọng trong đầu lão, khiến lão không yên. Giấc mơ thì đã biến mất vào một màn sương mờ, cũng như những sự kiện của tối hôm trước vậy.

Câu nói đó là thế này. “Săn phù thủy không có gì xấu cả. Cháu cũng muốn làm người săn phù thủy. Chỉ là, ờ, ông phải thay phiên. Hôm nay chúng ta sẽ đi săn phù thủy, và ngày mai chúng ta có thể trốn, để đến lượt đám phù thủy phải tìm CHÚNG TA...”

Lần thứ hai trong hai mươi tư giờ - lần thứ hai trong đời lão - lão bước vào phòng bà Tracy.

“Ông ngồi xuống đây,” bà bảo lão, chỉ vào một cái ghế bành. Trên chỗ tựa đầu có tấm phủ ngăn dầu bóng, trong lòng ghế là một cái gối phồng căng, và dưới chân ghế là một cái đôn kê chân nhỏ.

Lão ngồi xuống.

Bà đặt một cái khay lên lòng lão, ngồi nhìn lão ăn, rồi dọn cái đĩa đi khi lão đã ăn xong. Rồi bà mở một chai Guinness, rót vào cốc đưa cho lão, rồi ngồi nhấp trà trong lúc lão uống bia. Khi bà đặt tách trà xuống, nó kêu lách cách vẻ hồi hộp trên cái đĩa.

“Tôi có dành dụm được một ít,” bà nói, chẳng mào đầu gì cả. “Và ông biết không, đôi khi tôi nghĩ sẽ thật tuyệt nếu mua một căn nhà nhỏ đâu đó ở thôn quê. Rời khỏi London. Tôi sẽ đặt tên cho nó là Nhà Nguyệt Quế, hoặc Dunroamin, hoặc, hoặc...”

“Shangri-La,” Shadwell gợi ý, dù lão chẳng hiểu từ đó ở đâu ra.

“Đúng thế, ông S ạ. Đúng thế. Shangri-La.” Bà mỉm cười với lão. “Ông thấy thoải mái chứ, cưng?”

Shadwell kinh hoàng nhận ra là lão đang thoải mái thật. Thoải mái đến rợn người, đến ghê khiếp, “Ừ,” lão cảnh giác nói. Lão chưa bao giờ thấy thoải mái đến thế.

Bà Tracy mở một chai Guinness nữa và đặt trước mặt lão.

“Vấn đề duy nhất khi có một căn nhà nhỏ tên là... cái ý tưởng thú vị của ông là gì ấy nhỉ, ông S?”

“Ờ. Shangri-La.”

“Shangri-La, đúng rồi, vấn đề là một người sống ở đó thì không đúng lắm, nhỉ? Ý tôi là, hai người, họ vẫn bảo hai người chỉ tốn bằng một.”

(Hoặc năm trăm mười tám người, Shadwell thầm nghĩ, nhớ đến hàng ngũ đông đảo của Đội quân Săn Phù thủy.)

Bà cười khúc khích. “Tôi chỉ không biết tôi sẽ tìm đâu ra người sống cùng...”

Shadwell nhận ra bà đang nói về lão.

Lão không chắc về chuyện này. Lão cảm thấy rất rõ rệt rằng để Binh nhì Săn Phù thủy Pulsifer ở lại với cô gái ở Tadfield đã là một quyết định sai lầm, nếu xét theo Sổ tay Điều luật và Quy định của Đội quân Săn Phù thủy. Và vụ này có vẻ còn nguy hiểm hơn.

Tuy thế, ở tuổi lão, khi đã quá già để bò trườn giữa đám cỏ cao, khi sương lạnh buổi sáng ngấm vào xương cốt...

(Và ngày mai chúng ta có thể trốn, để đến lượt đảm phù thủy phải tìm chúng ta...’)

Bà Tracy mở một chai Guinness nữa và cười khúc khích. “Ôi ông S,” bà nói, “chắc ông nghĩ tôi đang tìm cách chuốc cho ông say đấy.”

Lão ậm ừ. Việc này cần phải làm đúng nghi thức.

Trung sĩ Săn Phù thủy Shadwell uống một hơi Guinness dài, rồi lão đặt câu hỏi.

Bà Tracy cười ré lên. “Thật tình, ông già ngốc nghếch này,” bà nói, đỏ mặt tía tai. “Ông nghĩ là bao nhiêu chứ?”

Lão hỏi lại lần nữa.

“Hai,” bà Tracy đáp.

“À. Thế thì được,” Trung sĩ Săn Phù thủy (về hưu) Shadwell nói.

◇ ❖ ◇

Đang là chiều Chủ nhật.

Cao tít bên trên nước Anh, một chiếc 747 từ từ bay về phía tây. Trong khoang hạng nhất, thằng bé có tên Warlock đặt cuốn truyện tranh xuống và nhìn ra cửa sổ.

Mấy ngày vừa qua đã thật kỳ lạ. Nó không biết vì sao bố nó lại được điều đến Trung Đông. Nó dám chắc bố nó cũng không biết. Có lẽ liên quan gì đó đến văn hóa. Tất cả những gì xảy ra là nhiều người đàn ông kỳ dị đầu quấn khăn với hàm răng cải mả đã dẫn họ đi xem mấy tàn tích. Warlock đã thấy nhiều tàn tích hay hơn thế. Và rồi một trong số những người kia hỏi thằng bé, có điều gì nó muốn làm không? Và Warlock đáp nó chỉ muốn đi về thôi.

Họ đã có vẻ rất không vui khi nghe điều đó.

Và giờ nó đang quay về Mỹ. Đã có chút rắc rối với vé máy bay, chuyến bay, hoặc bảng hiển thị điểm đến sân bay hay gì gì đó. Lạ thật; nó đã dám chắc bố nó định quay về Anh cơ mà. Warlock thích nước Anh. Đó là một nước rất tuyệt để làm người Mỹ.

Đúng lúc đó máy bay đang bay qua phòng ngủ của Johnson Bụng Mỡ ở làng Tadfield Hạ, thằng bé này đang vơ vẩn lật giở một tờ tạp chí về nhiếp ảnh mà nó đã mua chỉ vì trên bìa có ảnh một con cá cảnh nhiệt đới rất đẹp.

Mấy trang bên dưới ngón tay vẩn vơ của Bụng Mỡ là một bài báo về bóng bầu dục Mỹ và việc môn thể thao này đang trở nên phổ biến ở châu Âu ra sao. Kể cũng lạ... vì khi tờ tạp chí được in thì trên những trang đó là một bài báo về nhiếp ảnh trong điều kiện sa mạc.

Bài báo sắp thay đổi cuộc đời thằng bé.

Còn Warlock thì bay tiếp về Mỹ. Nó đáng nhận được gì đó (dù sao thì ta cũng không bao giờ quên những người bạn đầu tiên trong đời, dù lúc đó cả bọn mới chỉ ra đời được vài giờ) và quyền lực đang kiểm soát số phận nhân loại vào đúng lúc ấy đang nghĩ: Ờ, nó đang đến Mỹ, phải không? Còn gì thích bằng được đi Mỹ nữa.

Ở đó họ có đến ba mươi chín vị kem cơ mà. Có khi còn nhiều hơn ấy chứ.

Có cả triệu điều thú vị mà một thằng bé và con chó của nó có thể làm vào một chiều chủ nhật. Adam có thể nghĩ ra được bốn, năm trăm điều mà không cần cố. Những điều đầy phấn khích, đầy sôi nổi, các hành tinh cần được chinh phục, những con sư tử cần được thuần hóa, những thế giới biến mất ở Nam Mỹ lúc nhúc khủng long cần được khám phá và kết bạn.

Nó ngồi trong vườn và cào đất bằng một hòn sỏi, vẻ buồn nản.

Khi quay về từ căn cứ không quân, bố nó đã thấy Adam đang ngủ - ngủ như thể nó đã nằm trên giường cả buổi tối vậy. Thậm chí thỉnh thoảng còn ngáy cho giống thật nữa.

Nhưng đến bữa sáng hôm sau thì rõ ràng là như thế vẫn chưa đủ. Ông Young không thích phải chạy quanh vào một tối thứ Bảy vì một chuyện không đâu. Và nếu, nhờ một may mắn không tưởng nào đó mà Adam lại không phải chịu trách nhiệm cho những rắc rối đêm hôm trước - dù đó là rắc rối gì đi chăng nữa, vì không ai nắm được chi tiết cả, chỉ biết là đã có rắc rối chung chung - thì chắc chắn nó cũng phạm một tội gì đó. Đó là thái độ của ông Young, và thái độ đó đã rất có hiệu quả suốt mười một năm qua.

Adam uể oải ngồi trong vườn, vầng mặt trời tháng Tám đang chiếu rọi trên bầu trời tháng Tám xanh ngắt không một bóng mây, và sau hàng rào, một con chim hoét cất tiếng hót, nhưng Adam thấy những thứ đó chỉ làm mọi chuyện thêm tệ.

Chó ngồi dưới chân Adam. Nó đã cố giúp, chủ yếu bằng cách đào lên một khúc xương nó đã chôn bốn hôm trước và tha khúc xương đến bên chân Adam, nhưng Adam chỉ rầu rĩ nhìn khúc xương, và cuối cùng Chó lại tha khúc xương đi rồi chôn lại lần nữa. Nó đã làm tất cả những gì nó có thể.

“Adam?”

Adam quay lại. Ba khuôn mặt nhìn nó qua hàng rào vườn.

“Chào,” Adam chán chường đáp.

“Có đoàn xiếc vừa đến Norton đấy,” Pepper bảo. “Wensley vừa ở đấy về, nó đã thấy họ. Họ đang dựng rạp.”

“Họ có rạp lớn rạp nhỏ, cả voi, cả người tung hứng, cả thú hoang và... và đủ thứ!” Wensleydale nói.

“Bọn tao nghĩ hay bọn mình xuống đó xem họ dựng rạp đi,” Brian nói.

Trong thoáng chốc tâm trí Adam tràn ngập hình ảnh về rạp xiếc. Rạp xiếc sau khi được dựng xong thì thật là chán. Trên tivi ngày nào cũng có khối thứ vui hơn. Nhưng dựng rạp thì... Tất nhiên chúng sẽ đi xuống đó, và chúng sẽ giúp họ dựng rạp, tắm cho voi, và những người ở đoàn xiếc sẽ ấn tượng với sự hòa hợp tự nhiên giữa Adam và các con vật đến nỗi tối hôm đó, Adam (cùng với Chó, Chú Chó Lai Làm Xiếc Nổi Tiếng Nhất Thế giới) sẽ dẫn những con voi vào rạp và...

Chẳng ích gì.

Nó buồn rầu lắc đầu. “Tao không được đi đâu cả,” nó nói. “Họ bảo thế.”

Im lặng một thoáng.

“Adam,” Pepper nói, vẻ hơi bồn chồn, “hôm qua đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Adam nhún vai. “Chỉ mấy vụ linh tinh thôi. Không quan trọng,” nó nói. “Lúc nào cũng thế. Tao chỉ muốn giúp, thế mà mọi người cứ làm như tao đã giết ai đó không bằng.”

Lại im lặng một thoáng nữa, trong khi Bọn Chúng nhìn thủ lĩnh bại trận của mình.

“Thế mày nghĩ khi nào thì họ sẽ lại cho mày ra ngoài?” Pepper hỏi.

“Phải hàng năm, hàng năm nữa cơ. Nhiều, nhiều, nhiều năm trời ấy. Đến khi họ thả tao ra thì tao đã thành ông già rồi,” Adam nói.

“Thế ngày mai thì sao?” Wensleydale hỏi.

Adam tươi tỉnh lên. “À, ngày mai thì sẽ không sao đâu,” nó tuyên bố. “Mai là họ sẽ quên tất. Bọn mày cứ đợi xem. Họ luôn quên ấy mà.” Nó ngước lên nhìn chúng, một Napoleon lôi thôi lếch thếch với sợi dây giày lòng thòng, bị đày đến đảo Elba giăng mắc hoa hồng. “Bọn mày cứ đi đi,” nó bảo chúng, với một tiếng cười ngắn, trống rỗng. “Đừng lo cho tao. Tao sẽ không sao đâu. Tao sẽ gặp bọn mày ngày mai.”

Bọn Chúng ngần ngừ. Lòng trung thành là một điều tuyệt vời, nhưng không vị tướng nào nên bị bắt phải lựa chọn giữa chỉ huy của mình và một rạp xiếc có voi cả. Chúng rời đi.

Mặt trời vẫn tiếp tục tỏa sáng. Con chim hoét vẫn hót đều. Chó bỏ cuộc với chủ nhân của mình và bắt đầu rình một con bướm trong đám cỏ bên bờ giậu vườn. Đây là một hàng giậu nghiêm chỉnh, rậm rì, không thể vượt qua nổi, làm bằng cây thủy lạp dày, được cắt tỉa cẩn thận, và Adam biết nó rất rõ. Đằng sau hàng giậu là một cánh đồng trải dài, với những cái mương đầy bùn cực thích, những quả xanh, những người chủ cây ăn quả cáu kỉnh nhưng chậm chân, và rạp xiếc, và các dòng suối để xây đập, và những bức tường và cây cao được tạo ra chỉ để trèo lên...

Nhưng không có cách nào chui qua hàng giậu cả.

Adam có vẻ trầm ngâm.

“Chó,” Adam nghiêm nghị nói, “tránh xa hàng giậu ra, vì nếu mày mà chui qua đấy thì tao sẽ phải đuổi theo mày, và tao sẽ phải ra khỏi vườn, mà tao thì lại không được phép. Nhưng tao sẽ phải làm thế... Nếu mày chạy đi mất.”

Chó nhảy lên nhảy xuống vẻ phấn khích, và ngồi nguyên tại chỗ.

Adam thận trọng nhìn quanh. Rồi, còn thận trọng hơn nữa, nó nhìn Lên, và nhìn Xuống. Và nhìn vào Bên Trong.

Và rồi...

Và giờ thì bỗng có một lỗ hổng lớn giữa hàng giậu - đủ lớn cho một con chó chui qua, và cho một thằng bé chui qua theo con chó. Và lỗ hổng đã luôn có đó.

Adam nháy mắt với chó.

Chó lao qua lỗ hổng ở hàng giậu. Và, miệng hét thật to, thật rõ, “Chó, chó hư! Đứng lại! Quay lại đây!” Adam liền chui qua theo nó.

Có gì đó nói với thằng bé rằng một điều gì đó đang đi đến hồi kết. Không hẳn là thế giới. Chỉ là mùa hè thôi. Sẽ có nhiều mùa hè khác, nhưng sẽ không bao giờ có một mùa hè nào như thế này. Không bao giờ nữa.

Vậy thì tốt nhất là nó nên tận hưởng.

Thằng bé dừng lại giữa cánh đồng. Ai đó đang đốt thứ gì đó. Nó nhìn cuộn khói trắng tỏa ra trên ống khói của Nhà Hoa Nhài, và nó dừng bước. Và nó lắng nghe.

Adam có thể nghe thấy những thứ mà người khác thường bỏ qua.

Nó nghe thấy tiếng cười.

Đó không phải là tiếng cười khàn khàn của một mụ phù thủy; đó là tiếng cười khùng khục, trầm trầm, trần tục, của một người biết nhiều quá hóa hại.

Cuộn khói trắng uốn lượn bên trên ống khói của căn nhà. Trong một khoảnh khắc Adam nhìn thấy khói cuộn thành hình một khuôn mặt phụ nữ rất đẹp. Một khuôn mặt đã không xuất hiện trên Trái đất từ hơn ba trăm năm nay.

Agnes Nutter nháy mắt với nó.

Làn gió nhẹ mùa hè xua tan khói; và khuôn mặt cùng tiếng cười biến mất.

Adam toét miệng cười và lại lao đi.

Trên đồng cỏ cách đó một quãng, băng qua một dòng suối, thằng bé bắt kịp con chó ướt rượt, đầy bùn. “Chó hư,” Adam nói, gãi gãi sau tai Chó. Chó kêu ăng ẳng đầy thích thú.

Adam nhìn lên. Trên đầu nó là một cây táo già, xù xì và rậm rạp. Dường như nó đã ở đó từ thời hồng hoang. Cành táo trĩu xuống vì những trái táo còn nhỏ, xanh và chưa chín.

Nhanh như cắt, thằng bé trèo lên cây. Mấy giây sau nó lại nhảy xuống đất, hai túi quần căng phồng, miệng nhai rau ráu một quả táo chua giòn tan.

“Này! Mày! Thằng kia!” một giọng khàn khàn vang lên sau lưng nó. “Mày là thằng Adam Young! Tao thấy mày rồi! Tao sẽ mách bố mày, nhớ đấy!”

Kiểu gì chẳng bị bố phạt, Adam thầm nghĩ, trong lúc nó ba chân bốn cẳng chạy đi, con chó theo sát bên, túi quần nhét đầy những quả táo ăn trộm được.

Nó luôn bị bố phạt. Nhưng phải đến tối nay cơ.

Và còn lâu trời mới tối.

Nó ném lõi táo về phía người đang đuổi, rồi lại thò tay vào túi lấy một quả nữa.

Nó chẳng hiểu sao mọi người lại cứ phải loạn lên vì người khác ăn mất quả cây ngớ ngẩn của họ, nhưng cuộc sống sẽ kém vui đi nhiều nếu họ không làm thế. Và theo suy nghĩ của Adam thì chẳng có quả táo nào mà không đáng giá những rắc rối ta gặp phải khi ăn nó cả.

◇ ❖ ◇

Nếu bạn muốn tưởng tượng về tương lai, hãy tưởng tượng một thằng bé, con chó của nó và đám bạn nó. Và một mùa hè không bao giờ kết thúc.

Và nếu bạn muốn tưởng tượng về tương lai, hãy tưởng tượng một chiếc ủng... không, hãy tưởng tượng một chiếc giày thể thao, dây buộc lòng thòng, đá một hòn sỏi; hãy tưởng tượng một cái que để chọc các thứ thú vị và để ném cho một con chó có thể quyết định đi nhặt nó về hoặc không; hãy tưởng tượng một tiếng huýt sáo không có giai điệu, biến một bài hát ăn khách xui xẻo nào đó thành một thứ nhạc không ai hiểu nổi; hãy tưởng tượng một hình dáng, nửa thiên thần, nửa ác quỷ, trọn vẹn con người...

Thả bước đầy hy vọng về phía Tadfield...

... mãi mãi.