← Quay lại trang sách

- 2 -

Tiếng kêu leng keng của một chiếc xe kem thu hút sự chú ý của Clay. Nó đỗ đối diện với Khách sạn Bốn mùa (còn to hơn cả Khách sạn Quảng trường Copley) và sát ngay công viên Boston Common, chạy dọc qua mấy tòa nhà ở bên này phố. Những từ ÔNG SOFTEE được in bằng bảy sắc cầu vồng phía trên một đôi kem ốc đang nhảy múa. Ba cậu bé đang đứng xúm quanh cửa sổ xe, túi đựng sách vở để dưới chân, háo hức chờ đợi. Phía sau chúng là một người phụ nữ mặc bộ đồ vét, tay dắt một con chó xù, và hai cô gái mới lớn mặc quần bò cạp trễ, máy nghe nhạc iPod và tai nghe lủng lẳng quanh cổ, và lúc này chúng đang thì thầm với nhau – một cách nghiêm chỉnh, không cười đùa.

Clay đứng sau họ, biến cái nhóm người nho nhỏ ấy thành một hàng ngắn. Anh đã mua cho cô vợ ly thân của mình một món quà tặng; anh sẽ dừng lại tại hiệu sách Comix Supreme trên đường về nhà để mua cho cậu con trai của mình một phiên bản mới nhất của Người Nhện; anh cũng có thể tự chiêu đãi mình cái gì đó, có thể. Anh sẽ tuôn ra đủ thứ chuyện để kể cho Sharon nghe, nhưng phải đợi cho cô ấy về tới nhà cái đã, khoảng ba giờ bốn mươi lăm phút gì đó. Clay nghĩ anh sẽ lảng vảng quanh Quán trọ cho đến khi anh đã nói chuyện được với Sharon.

Người bán kem đang phục vụ ba cậu bé, hai que Dilly và một chiếc kem ốc sôcôla và vani to bự dành cho người chủ chi đứng ở giữa rõ ràng là người trả tiền cho cả hội. Trong khi cậu bé đang thò tay vào chiếc túi kiểu ổ chuột trên chiếc quần bò thụng thời trang của mình, người phụ nữ có con chó xù mặc đồ vét cho tay vào chiếc túi đeo vai, rồi lấy ra một chiếc điện thoại di động – những phụ nữ mặc đồ vét thời nay khi rời nhà bao giờ cũng không thể thiếu được điện thoại di động, cũng giống như không thể thiếu thẻ tín dụng AmEx – và mở nắp máy ra. Phía sau họ, trong công viên, một con chó đang sủa và ai đó đang quát tháo. Đó không phải là một tiếng quát tháo vui vẻ, đối với Clay, nhưng khi anh ngoái nhìn qua vai, tất cả những gì anh ta có thể thấy là vài người đang tản bộ, một con chó đang chạy nước kiệu với chiếc đĩa nhựa cắn chặt ở miệng (chó trong công viên phải có rọ mõm chứ nhỉ, anh băn khoăn tự hỏi), những hàng cây xanh dưới nắng vàng, và những bóngm mời mọc. Trông có vẻ như là một nơi thích hợp để một ai đó vừa bán được cuốn truyện tranh đầu tay của mình với một khoản tiền nhuận bút đến mức đáng kinh ngạc ngồi lại và ăn một chiếc kem ốc sôcôla.

Khi anh nhìn lại, ba cậu bé mặc quần bò thụng đã đi khỏi và người phụ nữ mặc đồ vét đang mua một ly kem hoa quả. Một trong hai cô gái đứng sau chị ta có một chiếc điện thoại màu bạc hà găm ở hông, và chị ta thì đang áp chặt chiếc điện thoại của mình vào tai. Clay nghĩ, như anh vẫn thường nghĩ ở mức độ này hay mức độ khác khi trông thấy hành vi này, rằng anh đang phải chứng kiến một hành vi mà trước kia vốn bị xem là thô lỗ đến mức không thể chấp nhận được – đúng, cho dù là khi đang thực hiện một giao dịch cỏn con với một người hoàn toàn xa lạ - đang dần trở thành một hành vi quen thuộc được chấp nhận trong cuộc sống thường ngày.

Vẽ vào cuốn Bóng đen lang thang đi, cưng, Sharon nói. Hình ảnh cô nàng trong trí óc anh thường nói như vậy, và lúc này hình ảnh ấy lại đang sắp sửa lên tiếng. Sharon trong đời thực, ly thân hay không ly thân, cũng thế. Dù rằng không phải là trên điện thoại di động của anh. Clay không dùng điện thoại di động.

Chiếc điện thoại màu bạc hà đang chơi khúc dạo đầu của một giai điệu mà Johnny yêu thích – có tên là Axel F thì phải? Clay không nhớ, có lẽ vì anh đã cố gạt nó ra khỏi đầu óc mình. Cô gái có chiếc điện thoại màu bạc hà cầm vội nó lên rồi nói, “Berth?” Cô ta lắng nghe, mỉm cười, rồi nói với bạn, “Berth gọi.” Cô gái còn lại cúi xuống và cả hai cùng lắng nghe. Kiểu tóc của họ giống hệt nhau, cùng kiểu yêu tinh (đối với Clay, trong họ giống như những nhân vật trong một bộ phim hoạt hình đang được chiếu vào những buổi sáng thứ Bảy, hình như có tên là Những cô nàng mạnh mẽ thì phải). Tóc hai cô gái bay bay trong làn gió nhẹ buổi chiều.

“Maddy phải không?” người phụ nữ mặc đồ vét nói, gần như cùng một lúc với hai cô gái kia. Con chó của chị ta lúc này đang ngồi trầm tư ở đầu dây xích (chiếc dây xích có màu đỏ, và được đính một vài thứ gì đó sáng lấp lánh) ngắm nhìn dòng xe cộ trên phố Boylston. Phía bên kia, trước Khách sạn Bốn mùa, người gác cửa mặc đồng phục màu nâu – bao giờ cũng là những màu ấy, không nâu thì xanh – đang vẫy vẫy, có lẽ là vẫy tắc xi. Một chiếc Thuyền Vịt chất đầy du khách chầm chậm chạy qua, trông có vẻ kệch cỡm và hoàn toàn không hợp cảnh trên đất bằng, và người lái xe đang hét vào loa, hình như là đang giới thiệu với du khách một di tích lịch sử nào đó. Hai cô gái ghé tai vào chiếc điện thoại di động màu bạc hà, lắng nghe, nhìn nhau,và mỉm cười, nhưng không phải kiểu cười khúc khích.

“Maddy phải không? Cậu có nghe được không? Cậu có…”

Người phụ nữ mặc đồ vét giơ cao cánh tay cầm dây xích chó và thọc một ngón tay để móng rất dài vào lỗ tai kia của mình. Clay nhăn mặt, lo sợ cho màng nhĩ của chị ta. Anh tưởng tượng mình đang vẽ người phụ nữ ấy: con chó bị buộc vào đầu sợi dây xích, bộ đồ vét, tóc cắt ngắn sành điệu… và một vết máu nhỏ quanh ngón tay trên lỗ tai. Chiếc Thuyền Vịt và người gác cửa sẽ được sử dụng để làm nền, và sẽ khiến cho bức phác họa trông có vẻ giống như thật. Chắc chắn là thế; đơn giản đó là những gì mà ta đã quen thuộc.

“Maddy, cậu sẽ hóa điên cho mà xem! Mình đang định gọi để nói với cậu là mình vừa làm đầu ở… kiểu tóc mới của mình á?... KIỂU…”

Người bán kem trên chiếc xe ÔNG SOFTEE cúi xuống để đưa ly kem hoa quả cho người phụ nữ. Trên ly kem là một ngọn núi nhỏ màu trắng, sôcôla và nước dâu tây chảy tràn xuống sườn núi. Khuôn mặt của người bán kem có vẻ dửng dưng. Khuôn mặt ấy như muốn nói rằng ta đây đã thấy tất cả mọi chuyện. Clay tin chắc rằng ông ta thấy tất cả mọi chuyện, và đa số là đã thấy tới hai lần. Trong công viên, có ai đó đang la hét. Clayton lại nhìn qua vai mình, và lần này anh nghĩ rằng đó là tiếng la hét vui vẻ. Vào lúc ba giờ chiều, trong công viên Boston Common, chắc chắn đó phải là những tiếng la hét vui vẻ, đúng không?

Người phụ nữ nói gi đó với Maddy và đóng nắp máy điện thoại lại một cách sành điệu bằng động tác gập cổ tay đã được luyện tập nhiều lần. Chị ta bỏ chiếc điện thoại vào túi, và rồi cứ thế đứng đờ người ra, như thể chị ta đã quên mất là mình đang làm gì hay đang ở đâu.

“Bốn đô rưỡi,” người bán kem nói. Ông ta vẫn đang kiên nhẫn chìa ly kem ra. Clay có đủ thời gian để nghĩ đến sự đắt đỏ một cách kinh khủng của mọi thứ trong cái thành phố này. Có lẽ người phụ nữ kia cũng nghĩ thế – ít nhất thì đó là điều đầu tiên mà anh phỏng đoán, bởi vì chị ta cứ đứng ngẩn ra và nhìn chằm chằm vào ly kem như thể chưa bao giờ chị ta nhìn thấy một cái gì giống như thế.

Rồi lại có tiếng kêu khác trong công viên, không phải tiếng kêu của người mà là một cách gì đó vừa giống như tiếng la ngạc nhiên, vừa giống như tiếng tru đau đớn. Clay quay lại và nhìn thấy con chó lúc nãy. Đó là một con chó lớn màu nâu, có lẽ thuộc giống Labrador, anh không biết nhiều về chó, khi cần vẽ chó thì anh lấy sách ra và cóp pi hình vẽ trong sách. Một người đàn ông mặc complê công sở đang quì xuống bên con chó và buộc dây xích vào cổ nó, và dường như anh ta đang – chắc chắn những gì mình thấy không giống như những gì mình nghĩ là mình đang thấy, Clay nghĩ – nhai chiếc tai của nó. Rồi con chó lại tru lên và vùng vẫy để thoát ra. Người đàn ông kia giữ chặt nó, và đúng thế, chiếc tai của con chó đang trong miệng anh ta, và khi Clay tiếp tục quan sát, anh ta dứt chiếc tai ra khỏi đầu con chó. Lần này con chó tru lên những tiếng gần giống tiếng người, và đàn vịt đang bơi trong chiếc ao gần đó bay lên trong những tiếng kêu quạc quạc đầy khiếp hãi.

“Rast!” có ai đó kêu lên phía sau Clay. Nghe giống như là vast. Cũng có thể là rat hoặc roast, nhưng bằng kinh nghiệm của mình, anh thiên về rast: một từ vô nghĩa, chỉ đơn thuần là tiếng kêu thể hiện sự hung hãn.

Anh quay đầu lại vừa kịp để chứng kiến người phụ nữ mặc bộ đồ vét lao lên tấn công qua cửa sổ xe và tìm cách túm lấy người bán kem. Chị ta làm rách toạc những nếp gấp chiếc áo dài ngang thắt lưng màu trắng của người bán kem, nhưng ông ta giật mình lùi lại, và điều đó đủ để ông ta thoát khỏi tay người phụ nữ. Đôi giầy đế cao của chị ta rồi khỏi vỉa hè trong tích tắc, và anh nghe thấy tiếng vải bị xé rách và tiếng khuy bị đứt khi chiếc áo vét của chị ta mắc vào phần nhô ra trên chỗ thu tiền ở cửa sổ. Ly kem hoa quả rơi xuống. Clay trông thấy một vệt kem và nước quả trên cổ tay và cánh tay trái của người phụ nữ khi đôi giầy của chị ta nện xuống vỉa hè. Chị ta loạng choạng và ngã quỳ xuống. Cái vẻ lạnh lùng, no đủ, phớt lờ thiên hạ – một cái vẻ mà Clay gọi là không – có – mặt – trên – phố – trên khuôn mặt chị ta đã bị thay thế bằng một bộ mặt gầm gừ với những thớ cơ co giật, đôi mắt biến thành hai khe hẹp và hàm răng nhe ra. Môi trên của chị ta hoàn toàn lộn ra ngoài, để lộ một dải lợi màu hồng đáng sợ. Con chó của chị ta lao xuống phố, kéo theo chiếc dây xích có tay cầm ở đầu dây. Một chiếc limo chạy qua và chẹt chết con chó trước khi nó kịp vượt sang bên kia đường. Lông, rồi đến ruột.

Con vật khốn khổ tội nghiệp ấy có lẽ đang sủa trên thiên đường của loài chó trước khi nó biết rằng mình đã chết, Clay nghĩ. Anh biết là mình bị sốc, nhưng điều đó vẫn không làm anh hết kinh sợ. Anh cứ đứng đó, miệng há hốc, một bên tay là chiếc cặp họa sỹ, bên tay kia là chiếc túi xách.

Ở một nơi nào đó – nghe có vẻ như là gần góc phố Newbury – có một cái gì đó

Hai cô gái kia có kiểu tóc giống hệt nhau, nhưng tóc cô gái có chiếc điện thoại di động màu bạc hà có màu vàng, tóc cô còn lại có màu nâu; họ là Yêu tinh Vàng và Yêu tinh Nâu. Lúc này Yêu tinh Vàng vứt chiếc điện thoại xuống đất làm nó vỡ tan rồi lao vào túm lấy người phụ nữ mặc đồ vét. Clay nghĩ rằng (với tất cả năng lực suy nghĩ còn lại của anh lúc đó) cô ta muốn cản không cho người phụ nữ kia lao theo người bán kem hoặc lao theo con chó. Thậm chí hình như anh vẫn còn một chút đầu óc để tán dương sự minh mẫn của cô gái đó. Bạn của cô ta, Yêu tinh Nâu, lùi lại, hai bàn tay nhỏ màu trắng ôm trước ngực, mắt mở to.

Clay thả các món đồ của mình xuống, mỗi thứ ở một bên, rồi bước lại để giúp Yêu tinh Vàng. Phía bên kia phố – anh chỉ nhìn thấy điều này ở rìa ngoài của tầm nhìn – một chiếc xe hơi thình lình đổi hướng và lao lên vỉa hè ngay phía trước Khách sạn Bốn mùa, khiến người gác cửa phải nhảy vọt sang một bên. Có tiếng la hét phát ra từ phía sân trước của khách sạn. Và trước khi Clay kịp giúp Yêu tinh Vàng giữ người phụ nữ mặc bộ đồ vét lại, Yêu tinh Vàng đã vươn khuôn mặt xinh xắn của mình về phía trước với một tốc độ nhanh như rắn mổ, nhe hàm răng chắc khỏe của mình ra và ngoạm vào cổ người phụ nữ. Một tia máu khổng lồ phụt ra. Cô gái kia vẫn không chịu nhả ra, có vẻ như cô ta đang tắm khuôn mặt mình trong máu, thậm chí có thể là cô ta đang uống máu (Clay gần như chắc chắn là cô ta đang uống máu), rồi lắc người phụ nữ từ bên này sang bên khác như lắc một con búp bê. Người phụ nữ kia cao lớn hơn và phải nặng hơn cô ta ít nhất là bốn mươi pao, nhưng cô gái lắc người chị ta mạnh đến nỗi chiếc đầu của chị ta ngật từ bên này sang bên kia và làm cho máu càng phun ra mạnh hơn. Rồi Yêu tinh Vàng ngửa khuôn mặt dính đầy máu của mình lên bầu trời tháng Mười trong xanh và tru lên. Có vẻ như đó là những tiếng tru chiến thắng.

Cô ta bị điên, Clay nghĩ. Điên một trăm phần trăm.

Yêu tinh Nâu hét lên, “Anh là ai? Chuyện gì đang xảy ra vậy?”.

Nghe thấy tiếng hét của bạn, Yêu tinh Vàng quay ngoắt đầu lại. Máu chảy nhỏ giọt từ những lọn tóc trên trán cô ta. Đôi mắt cô ta trông giống như hai chiếc đèn pha phát sáng từ hai chiếc hốc đầy máu.

Yêu tinh Nâu nhìn Clay, mắt cô ta mở to. “Anh là ai?” cô ta lặp lại… và rồi: “Tôi là ai?”Yêu tinh Vàng thả người phụ nữ ra, và chị ta đổ sụp xuống vỉa hè với động mạch cảnh bị cắn đứt vẫn đang phun máu. Rồi cô ta lao tới người bạn mà chỉ mấy giây trước còn cùng chia sẻ một chiếc điện thoại di động với cô ta một cách thân thiết.

Clay không kịp suy nghĩ. Nếu anh dừng lại để suy nghĩ, Yêu tinh Nâu chắc hẳn đã bị cắn đứt họng giống như người phụ nữ kia. Anh thậm chí chẳng kịp nhìn. Anh chỉ đơn giản cúi xuống, nghiêng về bên phải, cầm lấy quai chiếc túi xách, và đập mạnh vào gáy Yêu tinh Vàng khi cô ta vồ lấy người bạn thân của mình bằng đôi bàn tay vươn dài giống như móng vuốt của quỷ dữ. Nếu anh đập trượt…

Anh không đập trượt. Và cú đập không phải là nhẹ. Chiếc chặn giấy trong túi xách đập trúng giữa gáy Yêu tinh Vàng, nghe đánh cốp một tiếng. Yêu tinh Vàng thả tay xuống, một tay dính đầy máu, tay kia vẫn còn sạch, và ngã lăn ra đất ngay dưới chân cô bạn mình, giống như một bịch thư.

“Chuyện quái quỷ gì vậy?” Ông Softee la lên. Giọng ông ta cao một cách bất thường. Có lẽ những cú sốc đã đem lại cho ông ta chất giọng nam cao ấy.

“Tôi không biết,” Clay nói. Tim anh đang gõ trống. “Hãy giúp tôi, nhanh lên. Chị kia sắp chết vì mất máu.”

Phía sau họ, trên phố Newbury, vọng lại những tiếng kêu chát chúa không thể nhầm lẫn khi những chiếc xe lao vào nhau, tiếp đến là tiếng la hét. Sau những tiếng la hét là một tiếng nổ nữa, một tiếng nổ lớn hơn, làm rung chuyển cả bầu trời. Sau chiếc xe kem của ông Softee, một chiếc xe nữa đột ngột đổi hướng và lao qua cả ba làn xe trên phố Boylston vào sân trước của Khách sạn Bốn mùa, xô ngã hai người đi bộ rồi đâm sầm vào đuôi chiếc xe trước. Cú va chạm thứ hai này làm chiếc xe trước, vốn đã đâm mũi vào những cánh cửa quay, rúc sâu hơn nữa và làm cong những cánh cửa đó. Clay không thể nhìn xem có ai bị mắc kẹt trong đó không – những đám hơi nước đang bốc lên từ bộ tản nhiệt bị vỡ của chiếc xe trước – nhưng những tiếng rên rỉ đau đớn vọng ra từ đó nói lên những điều tồi tệ. Rất tồi tệ.

Ông Softee nhoài mình ra cửa sổ và nhìn Clay chằm chằm. “Có chuyện gì xảy ra ở đằng kia vậy.” Ông ta không nhìn thấy gì vì ở góc khuất.

“Tôi không biết. Xe đâm vào nhau. Người bị thương. Đừng để ý đến chuyện đó nữa. Giúp tôi một tay đi, ông chú.” Anh quỳ xuống bênụ nữ đang nằm giữa vũng máu và những mảnh vụn của chiếc điện thoại màu bạc hà của Yêu tinh Vàng. Những cú co giật của người phụ nữ giờ đã trở nên yếu đi, rất yếu.

“Khói phủ kín cả Newbury,” ông Softee nói, và ông ta vẫn không chịu rời nơi ẩn náu tương đối an toàn của mình trên chiếc xe kem. “Có cái gì đó đã nổ ở đằng kia. Một vụ nổ rất lớn. Chắc là khủng bố.”

Khi những từ đó thoát ra từ miệng ông ta, Clay tin ngay rằng ông ta nói đúng. “Giúp tôi đi nào.”

“TÔI LÀ AI?” Yêu tinh Nâu bỗng gào lên.

Clay đã hoàn toàn quên mất cô ta. Anh nhìn lên vừa kịp trông thấy cô gái đang lấy tay đập lên trán mình, rồi nhìn quanh rất nhanh ba lượt liền. Cô ta gần như kiễng chân lên để làm điều đó. Cảnh này khiến anh nhớ tới một nhà thơ mà anh đã từng đọc hồi ở đại học – Dệt một vòng tròn quanh anh ta ba lần . Coleridge thì phải? Cô ta loạng choạng, rồi chạy xuôi theo vỉa hè và lao thẳng vào một cây cột điện. Cô ta không tránh cây cột, và thậm chí còn chẳng thèm giơ tay ra. Cô ta đập thẳng mặt vào cây cột đó, bật lại phía sau, loạng choạng, rồi lại tiếp tục lao tới.

“Dừng lại!” Clay la lên. Anh bắt đầu chạy hết tốc lực về phía cô ta, anh trượt chân trên vũng máu của người phụ nữ mặc bộ đồ vét, suýt ngã, lại chạy tiếp, rồi anh vấp phải Yêu tinh Vàng, và lại suýt ngã.

Yêu tinh Nâu quay lại nhìn anh. Mũi cô ta đã bị vỡ, máu đang ộc ra và chảy tràn xuống cằm. Một vết bầm dập thẳng đứng đang rỉ máu và sưng lên trên trán cô ta. Một bên mắt của cô ta bị lõm sâu vào tròng mắt. Cô ta há miệng, để lộ những gì còn sót lại của một bộ răng hoàn hảo, và nhìn anh cười sằng sặc. Anh sẽ không bao giờ có thể quên cảnh ấy.

Phía sau anh, có tiếng động cơ khởi động và những tiếng chuông được khuếch đại qua âm – li bắt đầu leng keng chơi khúc nhạc dạo đầu của chương trình Phố Sesame . Clay quay lại và thấy chiếc xe kem của ông Softee đang phóng nhanh khỏi lề đường, vừa lúc một cánh cửa sổ ở tầng trên cùng của khách sạn bên kia đường bị đập vỡ, những mảnh kính sáng lấp lánh bay xuống đường. Một hình người lao vào giữa không trung tháng Mười. Hình người ấy rơi xuống vỉa hè, và nổ tan. Ngày càng có nhiều tiếng la hét phát ra từ sân trước. Tiếng la hét kinh hoàng; tiếng la hét

“Không!” Clay hét lên rồi chạy đuổi theo chiếc xe kem. “Không, quay lại đây! Tôi cần sự giúp đỡ, lão già khốn kiếp!”

Không có tiếng trả lời từ chiếc xe kem của ông Softee. Có lẽ ông ta không nghe thấy tiếng gọi của anh vì tiếng nhạc quá ồn. Clay còn nhớ rõ bản nhạc ấy từ những tháng ngày khi anh chẳng có lý do gì để không tin rằng cuộc hôn nhân của anh sẽ tồn tại mãi. Vào những tháng ngày ấy, ngày nào Johnny cũng ngồi trên chiếc ghế xanh bé nhỏ của mình với một cốc nước gì đó trong tay và xem chương trình Phố Sesame . Một cái gì đó về một ngày nắng đẹp, xua tan những đám mây.

Người đàn ông mặc complê công sở lao ra khỏi công viên và gào lên những từ không rõ nghĩa, chiếc đuôi áo bay bay sau lưng anh ta. Clay nhận ra người đó qua bộ râu bám đầy lông chó của anh ta. Người đàn ông ấy lao thẳng xuống phố Boylston. Những chiếc xe hơi lạng tránh anh ta, và anh ta có thể bị chẹt chết bất cứ lúc nào. Anh ta đã lao sang bên kia phố, miệng vẫn gào lên không ngớt, và tay vẫy vẫy trên đầu. Anh ta biến mất dưới những bóng râm trong sân trước của Khách sạn Bốn mùa. Không còn thấy anh ta đâu, nhưng chắc hẳn một chuyện tồi tệ hơn đã xảy ra với anh ta, bởi vì một loạt những tiếng la hét kinh hoàng lại tiếp tục phát ra từ phía đó.

Clay thôi không chạy đuổi theo chiếc xe kem nữa. Anh dừng lại, một chân trên vỉa hè, chân kia trên rãnh thoát nước, và nhìn theo chiếc xe lách vào làn giữa trên phố Boylston trong tiếng kêu leng keng vui tai. Anh vừa chuẩn bị quay lại chỗ cô gái bất tỉnh và người phụ nữ đang giãy chết thì một chiếc Thuyền Vịt khác xuất hiện, chiếc này không chạy một cách thong dong mà lao đi với tốc lực tối đa và lắc lư một cách điên cuồng. Những hành khách trên xe ngã dúi dụi, la hét và cầu xin người lái xe dừng lại. Một vài hành khách chỉ còn biết nắm chặt lấy những thanh sắt ngoài lan can xe trong khi nó lao dọc phố Boylston theo chiều ngược lại với dòng xe cộ.

Một người đàn ông mặc áo phông dài tay túm lấy người lái xe từ phía sau, và Clay lại nghe thấy những tiếng kêu tắc nghẹn qua hệ thống loa thô sơ của chiếc Thuyền Vịt khi người lái xe hất văng người đàn ôn đó ra bằng một cái lắc vai. Lần này không phải là Rast mà là một từ gì đó sâu hơn trong yết hầu, nghe giống như là Gluh . Rồi người lái chiếc Thuyền Vịt nhìn thấy chiếc xe kem của ông Softee – Clay tin chắc điều đó – và đổi hướng, nhằm thẳng chiếc xe lao tới.

“Ôi, Chúa ơi, không!” một người phụ nữ ngồi ở đầu chiếc xe du lịch hình cái thuyền hét lên, và khi nó lao vào chiếc xe kem, nhỏ bằng một phần sáu kích thước của nó, Clay bỗng nhớ tới cảnh diễu hành ăn mừng chiến thắng mà anh đã xem trên tivi vào cái năm mà đội Red Sox giành chiến thắng trong giải World Series. Đội Red Sox ngồi trên những chiếc Thuyền Vịt kiểu này và diễu hành trên phố, vẫy tay chào người hâm mộ trong mưa phùn mùa thu.

“Ôi, Chúa ơi, không!” người phụ nữ kia lại hét lên, và một người đàn ông đứng cạnh Clay lên tiếng bằng một giọng gần như là điềm đạm: “Lạy Chúa.”

Chiếc Thuyền Vịt đâm thẳng vào chiếc xe kem và hất tung nó lên trời giống như một món đồ chơi. Chiếc xe kem rơi xuống, lật nghiêng, và trượt về phía công viên Boston Common, làm tóe ra những tia lửa, hệ thống loa trên xe vẫn leng keng chơi khúc nhạc dạo đầu của chương trình Phố Sesame . Hai người phụ nữ đang đứng nhìn vội nhảy sang một bên, đưa hai tay lên ôm trước ngực, rồi cứ đứng đờ ra đó. Chiếc xe kem lao lên vỉa hè, bay lên không khí một tích tắc, rồi đâm thẳng vào những thanh sắt hàng rào của công viên và dừng lại.

Trong khi đó, người tài xế điên trên chiếc Thuyền Vịt đã hoàn toàn đánh mất mọi sự kiểm soát đối với chiếc xe. Nó ngoặt sang một bên và lao ngang qua phố Boylston cùng với những hành khách kinh hãi đang vừa bám chặt lấy hai bên lan can chiếc xe vừa la hét. Rồi chiếc Thuyền Vịt ấy vọt lên vỉa hè cách chỗ chiếc xe kem chơi nốt nhạc cuối cùng khoảng 50 íat và lao thẳng vào bức tường gạch thấp của một cửa hàng nội thất sang trọng có tên là Ánh đèn Thành phố. Có tiếng va chạm chát chúa và tiếng kính vỡ. Đuôi chiếc Thuyền Vịt (có dòng chữ Nữ chủ Bến cảng màu đỏ viết trên đó) ghếch lên trời. Động lượng muốn cái vật khổng lồ béo núc ních ấy tiếp tục lao đi, nhưng khối lượng lại ngăn cản điều đó. Cuối cùng nó nằm yên trên vỉa hè, mũi xe rúc vào những chiếc ghế bành và những đồ nội thất đắt tiền khác, nhưng chỉ sau khi khoảng một tá người đã bay về phía trước ra khỏi xe và mất hút. Bên trong cửa hàng Ánh đèn Thành phố, chuông báo động bắt đầu đổ liên hồi.

“Lạy Chúa,” giọng nói điềm đạm bên phải Clay lại lên tiếng. Anh quay sang và thấy một người đàn ông thấp bé có mái tóc đen thưa thớt, bộ ria mép nhỏ màu đen được tỉa tót cẩn thận, và một cặp kính gọng vàng. “Có chuyện gì vậy?”

“Tôi không biết,” Clay nói. Rất khó nói lên thành tiếng. Rất khó. Anh thấy mình gần như phải cố hết sức để đẩy ngôn từ ra ngoài. Anh cho rằng nguyên nhân là vì anh đang bị sốc mạnh. Phía bên kia phố, mọi người đangán loạn, một số chạy khỏi Khách sạn Bốn mùa, số khác chạy khỏi chiếc Thuyền Vịt. Một người vừa lao ra khỏi Khách sạn Bốn mùa đâm sầm vào một người đang chạy trốn khỏi chiếc Thuyền Vịt, và cả hai cùng ngã sóng soài xuống vỉa hè. Đây là lúc Clay tự hỏi phải chăng anh đã hóa điên và đang nhìn thấy những ảo giác này trong một nhà thương điên nào đó. Đồi Juniper ở Augusta, có lẽ thế, giữa những mũi chlorpromazine. “Ông bán kem nói rằng có thể là khủng bố.”

“Tôi không thấy ai mang súng,” người đàn ông thấp bé có bộ ria mép nói. “Cũng không có ai mang bom quấn quanh lưng.”

Clay cũng không thấy, nhưng anh có thấy chiếc túi báu vật nhỏ và chiếc cặp họa sỹ của mình nằm trên vỉa hè, và anh thấy máu từ cái cổ họng bị cắn nát của người phụ nữ mặc bộ đồ vét – ôi, anh nghĩ, nhiều máu quá – đã gần chảy tới chỗ chiếc cặp. Gần như tất cả các bức tranh anh vẽ cho cuốn Bóng đen lang thang đều nằm trong đó, và trí óc anh dừng lại ở những bức tranh ấy. Anh chạy vội về phía đó, và người đàn ông thấp bé chạy theo. Khi hồi chuông báo động chống trộm (một kiểu chuông báo động nào đó, chưa hẳn là để chống trộm) thứ hai vang lên từ tòa khách sạn bên kia đường, hòa tiếng hú khàn khàn của nó vào những tiếng chuông báo động đang đổ dồn trong cửa hàng Ánh đèn Thành phố, người đàn ông thấp bé nhảy dựng lên.

“Đó là khách sạn,” Clay nói.

“Tôi biết, nhưng mà…ôi Chúa ơi.” Ông ta đã nhìn thấy người phụ nữ mặc bộ đồ vét đang nằm trong vũng máu, và máu vẫn đang chảy ra từ cổ họng chị ta. “Cái gì? Bốn phút trước à? Chỉ mới hai phút à?”

“Chị ta chết rồi,” Clay nói với ông ta. “Ít nhất thì tôi cũng tin chắc rằng chị ta đã chết. Cô gái kia…” Anh chỉ tay vào Yêu tinh Vàng. “Thủ phạm là cô ta đấy. Bằng răng.”

“Anh nói đùa đấy à?”

“Ước gì đúng là tôi nói đùa.”

Từ đâu đó phía trên phố Boylston vọng lại một tiếng nổ nữa. Cả hai người bọn họ cùng thụp người xuống. Clay nhận ra rằng giờ đây anh có thể ngửi thấy mùi khói. Anh nhặt chiếc túi báu vật nhỏ và chiếc cặp họa sỹ lên, tránh để cho máu dây vào. “Những thứ này là của tôi,” anh nói, và băn khoăn không hiểu tại sao anh lại cần phải giải thích.

Người đàn ông thấp bé mặc một bộ complê may bằng vải tuýt – khá bảnh bao, Clay nghĩ – vẫn đứng nhìn chằm chằm vào xác người phụ nữ giữa vũng máu với một vẻ mặt khiếp hãi. Phía sau họ, ba nam thanh niên đang đuổi nhau trên vỉa hè, vừa chạy vừa cười reo. Hai người trong số họ đội mũ của đội Red Sox, lưỡi trai quay ra đằng sau. Người còn lại ôm chặt một chiếc thùng các tông trên ngực. Trên chiếc thùng ấy có in dòng chữ panasonic màu xanh. Người thanh niên này bước một chân vào vũng máu nơi người phụ nữ mặc bộ đồ vét đang nằm. Chiếc giầy thể thao của anh ta để lại những vết máu mờ mờ phía sau khi cả ba người bọn họ tiếp tục chạy về phía đông công viên Common và khu phố Trung Hoa phía xa.